Bạn đang xem bài viết Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Tây Tiến được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
[Văn mẫu học sinh] Phân tích khổ thơ thứ ba bài thơ Tây Tiến1)
Mở bài:
Giới thiệu khái quát về khổ thơ thứ ba bài Tây Tiến.
2) Thân bài: Luận điểm 1) Khái quát về tác giả, tác phẩm:
– Tác giả Quang Dũng:
+ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp
+ người nghệ sĩ đa tài với khả năng vẽ tranh, làm thơ, viết nhạc.
+ tập thơ tiêu biểu: Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng…
– Bài thơ Tây Tiến:
+ một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng.
+ Tây Tiến là tên một đoàn quân được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Nam và Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến.
+ tên ban đầu là Nhớ Tây Tiến nhưng sau đó được tác giả sửa lại thành Tây Tiến
+ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, một năm sau khi tác giả chuyển sang đơn vị bộ đội khác.
+ cảm hứng bao trùm toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ.
Luận điểm 2) Bức chân dung tự họa của người lính Tây Tiến vừa bi tráng, vừa lãng mạn.( phân tích khổ thơ thứ 3).
_hai câu đầu: chân dung ngoại hình lạ thường
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
+ đoàn binh với mái đầu trọc không mọc tóc.
+ làn da xanh xao xanh màu lá.
+ nét dị thường ấy phản ánh sự khắc nghiệt, khó khăn về thuốc men, lương thực, thực phẩm.
+ người lính ốm mà không yếu với nét dữ oai hùm – ẩn dụ về sức mạnh đoàn quân Tây Tiến.
_ hai câu sau: tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến giữa chiến tranh ác liệt.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
+ mắt trừng là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác.
+ mộng qua biên giới là giấc mộng lập công, giấc mộng chiến thắng và sớm ngày dành được tự do.
+ mơ về Hà Nội với dáng kiều thơm: người chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên trí thức xuất thân từ thủ đô, ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy mà là động lực để người lính vững tin trong những tháng ngày gian khổ.
_hai câu tiếp: Lí tưởng sống cao đẹp, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
+ sử dụng hầu hết từ Hán Việt tăng sự trang trọng cho câu thơ và giảm bớt sự bi thương trước mất mát, hi sinh của người lính Tây Tiến.
+ rải rác: số lượng ít ỏi, không tập trung trên một khu vực mà là rừng sâu biên giới ít có người qua lại, không có điều kiện hương khói.
+ chẳng tiếc cách nói ngang tàng, ngạo nghễ và đầy tự tin.
+ đời xanh là cuộc đời trẻ với bao hi vọng và hoài bão.
[Biết trước cái khắc nghiệt của chiến tranh nhưng người lính không ngần ngại hi sinh để lên đường vì lí tưởng, vì độc lập, tự do của tổ quốc.
_hai câu cuối: Sự hi sinh cao đẹp của người lính.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
+ áo bào là chiếc áo lính cá anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh.
+ về đất nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước.
+ Sông Mã gầm lên khúc độc hành là sự nghiêng mình tiễn đưa đầy thành kính với các anh trong khúc hùng ca sông Mã.
Luận điểm 3) Đánh giá về nghệ thuật, nội dung.
_ Sử dụng thành công thủ pháp nhân hóa, ẩn dụ, từ ngữ Hán Việt, nói giảm, nói tránh. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh gợi tả.
_ Chân dung ngoại hình, chân dung tinh thần của người lính Tây Tiến trong khí thế hiên ngang, trong niềm tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
3) Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp người lính Tây Tiến trong khổ thơ thứ ba nói riêng và toàn bài thơ nói chung.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Quang Dũng là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Không chỉ thành công với viết thơ. Ông là người nghệ sĩ rất mực đa tài với khả năng vẽ tranh, sáng tác nhạc. Thơ ông mang hơi thở hồn hậu, phóng khoáng bởi luôn có sự kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc, họa. Nói về Quang Dũng, chúng ta nhắc đến người lính dành cả cuộc đời cho non sông, đất nước. Thơ ca Quang Dũng từ tập thơ Mây đầu ô đến Thơ văn Quang Dũng đều chung một niềm yêu, một nỗi nhớ đến khắc khoải đồng chí, đồng đội cùng người xưa chốn cũ.
Tây Tiến là tác phẩm thơ tiêu biểu của Quang Dũng và có vị trí đặc biệt với nhà thơ. Đó là tên của binh đoàn mà Quang Dũng làm đại đội trưởng, gắn với kỉ niệm về tình đồng chí, đồng đội. Bài thơ được viết năm 1948, là một năm sau khi nhà thơ dời Tây Tiến chuyển sang một đơn vị khác. Ban đầu bài thơ có tên Nhớ Tây Tiến, sau đó chính Quang Dũng đã bỏ đi chữ nhớ vì không cần đến nhớ, bạn đọc cũng đã cảm nhânh được cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ là nỗi nhớ.
Nếu như ở hai khổ thơ trên, hình ảnh người lính Tây Tiến mới chỉ thấp thoáng hiện ra qua con đường hành quân gian khổ trên núi rừng miền Tây, qua những kỉ niệm với con người, với mảnh đất Tây Bắc thì ở đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể đoàn binh Tây Tiến được tái hiện một cách cụ thể, trực tiếp và rõ nét từ dáng vẻ bên ngoài cho tới vẻ đẹp tinh thần bi tráng bên trong. Đoạn thơ thứ ba đã khắc họa thành công bức tượng đài cao đẹp, độc đáo về những người lính vô danh trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ thứ ba miêu tả chân dung ngoại hình người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Hình ảnh đoàn binh Tây Tiến hiện lên với những nét vẽ ngoại hình dị thường, lạ lẫm. Hình ảnh “một đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” là hậu quả của cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn: đói khát, đau ốm, căn bệnh sốt rét rừng hoành hành làm mái tóc các anh rụng dần đi, làn da xanh xao, vàng vọt. Nhưng cũng có thể hiểu một cách thi vị, tếu táo là mái đầu trọc ấy là do chính các anh tự tạo nên để thuận tiện trong cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu. Cuộc sống chiến đấu và sinh hoạt thiếu thốn đó đã được nhà thơ Chính Hữu hay Tố Hữu miêu tả một cách chân thực trong vần thơ của mình:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
( Chính Hữu)
Hiện thực trong thơ Quang Dũng còn khắc nghiệt hơn vậy. Nhưng Quang Dũng đã tái hiện hiện thực đó bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng, bằng bút pháp đảo ngữ, phủ định từ “không” đầy dứt khoát cùng những thanh trắc mạnh mẽ, thế bị động đã được đảo lại thành tinh thần chủ động: những người chiến binh không cần tóc, không cần mọc tóc chứ không phải do tóc của họ không mọc được. Không phải một cá nhân mà cả một đoàn quân trọc đầu- một đoàn quân lạ lẫm, ngạo nghễ. Hình ảnh “quân xanh màu lá”- màu của lá rừng, của cành lá ngụy trang và là màu của sự sống, của hi vọng. Kết hợp cùng hình ảnh so sánh, ẩn dụ “dữ oai hùm”, chân dung đoàn binh Tây Tiến hiện lên thật oai phong, lẫm liệt, tràn đầy khí phách tựa như mãnh hổ chốn rừng xanh.
Người lính Tây Tiến còn hiện lên đầy chân thực qua chân dung tâm hồn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh “mắt trừng” là đôi mắt mở to, tập trung mọi nhãn lực, thể hiện ý chí, khát vọng. Giấc mộng qua biên giới là giấc mộng lập công, giấc mộng về cuộc sống hòa bình, tự do. Giấc mộng ấy đã hòa nhập với tình yêu lứa đôi, với giấc mộng, giấc mơ lãng mạn và đa tình “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Các anh mơ về Hà Nội, nơi quê hương xứ sở, nơi phồn hoa đô hộ, nơi có dáng kiều thơm- những người thiếu nữ Hà thành xinh đẹp, yêu kiều. Những giấc mộng, giấc mơ là giây phút lãng mạn hiếm hoi trong tâm hồn các anh và là động lực tiếp bước chân người lính vượt qua bao khó khăn, gian khổ.
Người lính Tây Tiến còn hào hùng, hiên ngang trong lí tưởng sống cao đẹp. Các anh nguyện ra đi vì tổ quốc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Hình ảnh “những nấm mồ” nằm rải rác nơi biên cương xa xôi là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Quang Dũng không né tránh hiện thực mà dùng cảm hứng lãng mạn nâng đỡ cái bi thương. Với cách sử dụng một loạt từ Hán Việt cổ kính, trang trọng như “biên cương, mồ viễn xứ”, cái bi đã được giảm nhẹ, được mờ đi rất nhiều đặc biệt là qua cách nói đầy khẩu khí “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là đời trẻ, là phần đời đẹp nhất của mỗi con người nhưng họ phải ra đi gửi tuổi xuân tươi đẹp ấy. Hai chữ “chẳng tiếc” là cách thể hiện thái độ lựa chọn dứt khoát: vì tổ quốc mà không ngại hi sinh. Bởi vậy, những khó khăn hay cái chết rình rập từng ngày cũng không làm các anh nản chí. Anh bộ đội cụ Hồ với những phẩm chất cao đẹp mãi là chân dung bi tránh cho tinh thần, cho ý chí quyết chiến, quyết thắng.
Vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến còn được thể hiện ở sự hi sinh bất tử:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh áo bào thay chiếu đã gợi lại một hiên thực đau thương nơi chiến trường miền Tây thuở ấy. Những người lính Tây Tiến sống trong tận cùng đau khổ, thiếu thốn và cũng ra đi trong sự thiếu thốn. Không có áo bào, khi hi sinh, các anh chỉ có manh chiếu đắp thân.Nhưng trong nhiều điều kiện gian khổ hơn thế, đến manh chiếu cũng không có thì chiếc áo lính bạc vì mưa nắng, rách vì bom đạn là những kỉ vật cuối cùng ôm trọn vẹn lấy các anh. Những vần thơ của Quang DŨng làm bạn đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa. Nhưng tỏng chính những đau xót ấy, ta thấy được nỗi lòng riêng của nhà thơ. Ông viết “anh về đất” với ý nói giảm, nói tránh cái bi thương. Sự ra đi của các anh thật nhẹ hàng, thanh thản nhưu một cuộc trở về với đất mẹ sau khi hoàn thành nhiêm vụ với quê hương, đất nước. Thể xác, linh hồn các anh mãi trường tồn bất tử cùng non sông, đất nước. Và dòng sông Mã với ” khúc độc hành” là ẩn dụ, là nhân hóa nghệ thuật độc đáo. Dòng sông Mã đã thay lời thiên nhiên, đất nước, thay lời những người thân, đồng chí, đồng đội để cất lên khúc độc hành tiễn các anh về với nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Đó là âm vang của lòng tiếc thương, của sự căm thù uất hận, của tinh thần quật khởi. Khúc ca bi tráng đã ắt đi đau thương của hiện thực và ngợi ca sự hi sinh anh hùng của những người chiến binh.
Ngòi bút lãng mạn, tài hoa cùng với hình ảnh thơ độc đáo đã giúp đoạn thơ tái hiện thành công, chân thực bức tượng đài người lính Tây Tiến. Ở họ, bạn đọc nhìn thấy vẻ đẹp của người tráng sĩ xưa, vừa mang vẻ đẹp hào hùng của anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. Vẻ đẹp người lính Tây Tiến sống mãi cùng thời gian, hòa trong nhịp dòng non sông, đất nước.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trong bài thơ nói riêng, hình ảnh người lính trong thơ ca kháng chiến nói chung. Tất cả họ đều là những bông hoa ngát hương của một thời, của một dân tộc anh hùng. Anh bộ đội cụ Hồ sẽ mãi bất tử trong không gian, thời gian và theo dấu chân bạn đọc để tìm hiểu về non sông, về dân tộc Việt Nam trong những trang viết đặc sắc.
Đỗ Thị Thu Trang
Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
[Văn mẫu tuyển chọn] Phân tích khổ thơ thứ ba bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Nêu vấn đề cần nghị luận
– Khái quát chung
2. Thân bài:
– Tây Tiến là đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào .bảo vệ biên giới Việt – Lào và vùng hậu cứ kháng chiến, đánh tiêu hao sinh lực địch. Địa bàn hoạt động rất rộng, từ Mộc Châu sang Sầm Nứa, Thượng Lào vòng sang miền Tây Thanh Hóa, địa hình hiểm trở, nhiều sông sâu thác dữ, khí hậu khắc nghiệt. Thành phần chủ yếu của đoàn binh Tây Tiến là học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ rất lãng mạn, hào hoa, chịu nhiều thiếu thốn gian khổ nhưng vẫn lãng mạn vô cùng
-“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Người lính hiện lên qua hai câu thơ đều đồng nhất trong hình dạng tóc rụng hết vì sốt rét rừng hoành hành.
+ Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ: cái tiều tụy bỗng tan biến, xóa nhòa đi
+ Câu thơ còn có thể theo ý nghĩa “Tóc không thèm mọc!”: người lính sẵn sàng cạo trọc đi mái đầu xanh của mình để thuận tiện hơn trong chiến đấu và sinh hoạt.
– “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Câu thơ gợi nhắc đến nước da xanh rớt đi của người lính Tây Tiến cũng do những trận sốt rét rừng gây ra.
+ Bốn chữ “quân xanh màu lá” lại mang âm hưởng hùng tráng, mang đến sắc xanh trập trùng: màu xanh của núi rừng, bầu trời xanh thẳm đồng nhất với sắc xanh quân phục
-“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
+ Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời của Tổ quốc.
+ Đó là giấc mộng qua biên giới nơi còn nhiều bóng giặc
+ Đó là giấc mộng hướng về độc lập hòa bình cho Tổ quốc thân yêu.
+ Các anh mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” là nỗi nhớ về Hà Nội, về rồi những cô gái Hà thành yêu kiều và duyên dáng.
-“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Trên suốt chặng đường hành quân chinh chiến của người lính Tây Tiến, cái chết và mối hiểm họa đã trở thành một phần đời của các anh.
+ Hình ảnh đoàn những nấm mồ rải rác khắp cả một miền biên cương đã phô ra hết cái khốc liệt của trận chiến.
+ Các anh ra đi bỏ lại phía sau là gia đình, là khát vọng hạnh phúc và sự nghiệp dang dở.
– “Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Không có quan tài khâm niệm thi hài liệt sĩ, các anh trở về đất mẹ trong bộ trang phục thấm biết bao mồ hôi tâm huyết trên chặng đường chinh chiến, còn có cả máu xương của kẻ thù.
+ Tác giả sử dụng một loạt các từ ngữ Hán Việt lại càng làm tôn lên sắc thái trang trọng, thành kính trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
+ Trong giây phút hạ huyệt cũng không có điệu hồn tử sĩ nhưng thay vào đó là tiếng gầm lên của con sông Mã – người bạn đường tri kỉ theo sát bước quân hành của người lính Tây Tiến
3. Kết bài:
– Khẳng định lại vấn đề nghị luận
– Cảm nhận cá nhân
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ………………………………………………… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tây Tiến là đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào .bảo vệ biên giới Việt – Lào và vùng hậu cứ kháng chiến, đánh tiêu hao sinh lực địch. Địa bàn hoạt động rất rộng, từ Mộc Châu sang Sầm Nứa, Thượng Lào vòng sang miền Tây Thanh Hóa, địa hình hiểm trở, nhiều sông sâu thác dữ, khí hậu khắc nghiệt. Thành phần chủ yếu của đoàn binh Tây Tiến là học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ rất lãng mạn, hào hoa, chịu nhiều thiếu thốn gian khổ nhưng vẫn lãng mạn vô cùng. Quang Dũng viết lên vẻ đẹp của họ vừa bi tráng nhưng cũng không kém phần lãng mạn:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Bốn câu thơ là một bức tranh đẹp về một thế hệ cha anh lên đường bảo vệ biên cương, hình ảnh lớn lao mang tầm vóc thời đại anh hùng ca. Nét vẽ đầu tiên Quang Dũng dành cho các anh là vẻ đẹp đầy bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Người lính hiện lên qua hai câu thơ đều đồng nhất trong hình dạng tóc rụng hết vì sốt rét rừng hoành hành. Không chỉ riêng Quang Dũng mà Tố Hữu cũng đã từng đề cập đến hiện tượng khốc liệt này:
“Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ” Hay Chính Hữu cũng đã từng viết: “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”
Thế nhưng hình ảnh của họ hiện lên lại ngạo nghễ vô cùng khi Quang Dũng đã khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ. Dưới ngòi bút của ông, cái tiều tụy bỗng tan biến, xóa nhòa đi, được làm đẹp lên trong bút pháp nghệ thuật độc đáo. Câu thơ còn có thể theo ý nghĩa “Tóc không thèm mọc!”. Cũng có nghĩa là người lính sẵn sàng cạo trọc đi mái đầu xanh của mình để thuận tiện hơn trong chiến đấu và sinh hoạt.
Hình ảnh của các anh tiếp tục hiện lên trong sắc xanh bát ngát:
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Câu thơ gợi nhắc đến nước da xanh rớt đi của người lính Tây Tiến cũng do những trận sốt rét rừng gây ra. Nhưng cũng giống như câu thơ trước, sự tài hoa trong ngòi bút của Quang Dũng đã tiếp tục làm mờ nhạt đi cái hiện thực tàn khốc, nâng tầm vóc hình ảnh người lính lên một tầm cao mới về ý nghĩa. Bốn chữ “quân xanh màu lá” lại mang âm hưởng hùng tráng, mang đến sắc xanh trập trùng: màu xanh của núi rừng, bầu trời xanh thẳm đồng nhất với sắc xanh quân phục. Màu xanh ấy ta từng bắt gặp trong những vần thơ của Thanh Thảo:
“Tuối hai mươi chúng con ra đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời”
Đoạn thơ đã lưu lại trong lòng bạn đọc nhiều năm tháng về khí phách của một đoàn quân anh dũng, hào hùng và hiên ngang.
Trong gian khổ và thiếu thốn tâm hồn họ vẫn lãng mạn vô cùng:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời của Tổ quốc. Đó là giấc mộng qua biên giới nơi còn nhiều bóng giặc, giấc mộng dẹp tan bè lũ cướp nước, khao khát mang lại hòa bình cho Tổ quốc và nước bạn Lào. Đó không còn dừng lại ở giấc mộng:
“Làm trai cho đáng nên trai Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên” Hay là giấc mộng: “Làm trai chí ở bốn phương Phải có danh gì với núi sông”
Mà đó là giấc mộng hướng về độc lập hòa bình cho Tổ quốc thân yêu. Giấc mộng ấy chắp cánh ước mơ hạnh phúc. Các anh mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” là nỗi nhớ về Hà Nội, về rồi những cô gái Hà thành yêu kiều và duyên dáng. Những cô gái thanh tân như mang theo tất cả hương hoa của đất trời. Cùng với nỗi nhớ quê hương người lính Tây Tiến cũng sẽ mãi nhớ về những người con gái thanh lịch như mang theo tất cả sự thơm tho của đất trời. Nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ đã viết:
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Người lính Tây Tiến luôn chiến đấu anh dũng và họ hi sinh cũng rất anh hùng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Trên suốt chặng đường hành quân chinh chiến của người lính Tây Tiến, cái chết và mối hiểm họa đã trở thành một phần đời của các anh. Hình ảnh đoàn những nấm mồ rải rác khắp cả một miền biên cương đã phô ra hết cái khốc liệt của trận chiến. Các anh ra đi trong tâm thế “chẳng tiếc đời xanh”. Các anh ra đi bỏ lại phía sau là gia đình, là khát vọng hạnh phúc và sự nghiệp dang dở. Nhưng tất cả đã lùi về sau bởi người lính đã dứt khoát ra đi vì nghĩa lớn với Tổ quốc. Câu thơ đã thể hiện rõ niềm thương xót, tiếc thương người lính Tây Tiến đã dấn bước hi sinh, dâng hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp cứu nước.
Trong giây phút hi sinh thiếu đi tất cả những nghi thức thông thường:
“Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Không có quan tài khâm niệm thi hài liệt sĩ, các anh trở về đất mẹ trong bộ trang phục thấm biết bao mồ hôi tâm huyết trên chặng đường chinh chiến, còn có cả máu xương của kẻ thù. Các anh trở về với đất mẹ còn đất mẹ thì đang dang rộng vòng tay chào đón những đứa con thân yêu trở về. Tác giả sử dụng một loạt các từ ngữ Hán Việt lại càng làm tôn lên sắc thái trang trọng, thành kính trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
Trong giây phút hạ huyệt cũng không có điệu hồn tử sĩ nhưng thay vào đó là tiếng gầm lên của con sông Mã – người bạn đường tri kỉ theo sát bước quân hành của người lính Tây Tiến, nay nó gầm lên trong đau đớn, quặn thắt tiễn đưa vong linh người lính về với đất mẹ. Nhớ năm xưa, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
“Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng Nhìn chợ Trương Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ”
Như vậy Quang Dũng đã viết lên những nghi lễ an táng tinh thần để che lấp đi sự thiếu thốn về vật chất để làm bật lên vẻ đẹp của người lính đã dấn bước hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Quang Dũng đã làm bật lên vẻ đẹp người lính Tây Tiến trên con đường vạn lí trường chinh. Từ đó bạn đọc đương thời hiểu rõ hơn vẻ đẹp cũng như những khó khăn mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua.
Lê Thị Thư
Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu cùa giai đoạn văn học này, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, và chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn quăn không mọc tóc
Quăn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một môtíp như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùmg
Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian khố là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi, vơi đi nhừng tình cảm lãng mạn:
Mát trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây
Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành binh vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồi”.
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cánh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiêng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấc lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Từ khóa tìm kiếm
phan tich kho tho thu ba cua bai tho tay tien
viết bài văn nghị luận về bài thơ tây tiến
phân tích đoạn thơ thứ 3 của bài thơ tây tiến
văn nghị luận về đoạn thơ trong tây tiến của quang dũng
phan tich mot cau tho trong baibsi tay tien
phân tích khổ thơ thứ 3 của bài thơ tây tiến
phan tich kho tho thu 3 cua bai tho con co
phan tich dao tho ba trong bai tho tay tien cua Quang Dung
phân tích bà thơ tây tiến
phân thich doan giua cua bai tây tiên
Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Tây Tiến Của Tác Giả Quang Dũng
Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ:
” Tây tiến đòan binh không mọc tóc
Quân xanh mà lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo dài thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm tháng mưa bom bao đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh tòan cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đọan thơ trước, thiên nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào.
“Tây Tiến đòan binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đọan thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đòan binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lung với những thứ xa lạ, ngây ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuôitrer, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng “không mọc tóc” để miêu tả đòan binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việ chọ ngày đêm phải chống trọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đòan Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đòan binh Tây Tiến.
Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ giành cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.
Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc. họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đấ tkhách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, nhiều ước mơ hòai bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà nhiệt tình dâng hiến cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và chân trọng biết bao.
Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào ” thay “chiếu” khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những viết xước sâu không thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người.
Tóm lại, đọan thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ Hán Việt khiến đọan thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đòan binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đọan thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên.
Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Và Thứ Tư Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy
Từ lâu, trăng và người đã trở thành những đôi bạn tri kỉ, thân thiết: ”Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” thì đến ”Ánh trăng” của Nguyễn Duy quy luật ấy vẫn không hề thay đổi,trăng và người, người và trăng, họ vẫn vậy, vẫn gắn bó không rời. Khổ thơ thứ ba là cuộc sống hiện tại của trăng và còn người; đến khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm thay đổi mạch cảm xúc của tác giả.
Khổ thơ thứ ba bài Ánh trăng là cuộc sống hiện tại với những thay đổi trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng:
Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường
Khổ thơ đã nêu rõ đước hoàn cảnh sống lúc bấy giờ là khi đất nước hòa bình. Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” – hoán dụ cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại,xa rời thiên nhiên.
“Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”: Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Với biện pháp nhân hóa và so sánh, “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết. Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm. Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.
Đến khổ thơ thứ ba, tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người giữa hiện tại và quá khứ. Hình ảnh “ánh điện của gương” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Trước đây con người sống với sông, đồng, bể, rừng, thiên nhiên, còn giờ đây lại sống với tiện nghi đầy đủ: ánh điện, cửa gương, phòng buyn-đinh.Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên vầng trăng từng một thời tri kỉ. Câu chuyện tâm tình được kể rất giản dị, mộc mạc, giọng thơ thì thầm như đang trò chuyện, giãi bày tâm sự, lời thơ trữ tình, sâu lắng, qua đó tác giả đã thể hiện những cảm xúc hết sức chân thành. Nhịp thơ chậm, những chữ đầu không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên man của nhà thơ.
Ánh trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa
Người đọc bị cuốn theo mạch cảm xúc của tác giả và cảm thấy có chút gì đó bàng hoàng như vừa nghe một lời thú tội. Đó chắc hẳn phải là những lời “thú tội” rất mực chân thành và dũng cảm. Từ hồi về thành phố có lẽ là khi chiến tranh đã qua rồi, cuộc sống yên bình đã trở lại và cũng có nghĩa là những gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu đã lùi xa. Những no đủ hạnh phúc của cuộc sống mới hấp dẫn hơn vầng trăng tri kỉ năm nào. Có lẽ vì thế mỗi khi vầng trăng đi qua chỉ như người lạ mặt, dường như tác giả không còn nhận ra đó đã từng là người bạn tri kỉ năm nào, từng là người bạn nghĩa tình ngày trước. Lời thơ pha chút chua xót, dường như tác giả đang cố giữ nguyên không để cho những lời tâm tình kia xao động. Mỗi khổ thơ lại gợi mở trong lòng ta những cảm xúc khác nhau. Với cách viết giản dị, mộc mạc, thật khó tìm ra những lời thơ hoa mĩ hay những biện pháp tu từ nghệ thuật đặc biệt nhưng những lời thơ ấy có sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc đến kì lạ.
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người.
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương,với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày xưa? Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi người ta sống giữa phồn hoa đô thị thig nó lại bị lãng quên.Mấy chục năm về trước Tố Hữu cũng đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng
Thế rồi đến khổ thơ thứ tư, cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến
Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
Chiến tranh và người lính đã đi vào trong văn chương với những hình ảnh đau thương nhất và cũng là đẹp và oai hùng nhất. Trong kháng chiến chống Pháp đã có rất nhiều sáng tác viết về người lính nhưu “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng… Trưởng thành trong kháng chiến và trực tiếp tham gia vào những đoàn quân xông pha nơi chiến trường, Quang Dũng đã viết về chiến tranh bằng những cái nhìn chân thực và sống động. Bài thơ “Tây Tiến” là một tác phẩm tiêu biểu cho đề tài ấy.
Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị được thành lập nhằm phối hợp vỡi bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào. Đoàn quân ấy hoạt động chủ yếu ở phía Tây hai tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, Quang Dũng chuyển đơn vị công tác và ông sáng tác bài “Tây Tiến” nhằm bày tỏ nỗi nhớ tới núi rung và những người đồng đội cũ. Khổ đầu của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi đang trào trực trong lòng tác giả.
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ da diết của người chiến sĩ về núi rừng năm xưa anh đã từng đóng quân. Hai tiếng Tây Tiến được gọi lên với một thái độ thân mật, thiết tha. “Tây Tiến ơi” nghe như lời gọi thân thương của những người bạn, những người thân trong gia đình. Dù đã xa rồi nhưng những hình ảnh của núi rừng, của dòng sông Mã hiền hòa vẫn luôn hiện hữu trong lòng tác giả. Con sông Mã uốn lượn cùng những bước đi của người lính, núi rừng là nhà, là nơi họ sinh sống và chiến đấu. Thiên nhiên ở đây là những gì gần gũi và thân thuộc nhất suốt những năm tháng chiến tranh. Để rồi khi đi xa, nỗi “nhớ chơi vơi” cứ trào dâng. Nỗi nhớ ấy da diết và bền bỉ. Nó không biết bắt đầu từ đâu và như thế nào chỉ biết rằng nõi nhớ luôn thổn thức khôn nguôi, chập chờn, đeo bám lấy tâm hồn.
Nhà thơ nhớ về sông Mã, về núi rừng và những bước chân của cuộc hành quân.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mướng Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sáu câu thơ vẽ lên những khó khăn, gian khổ mà đoàn binh Tây Tiến đã phải trải qua suốt những năm gắn bó với núi rừng. Hàng loạt địa danh thân thuộc hiện về trong đầu tác gải với những kỉ niệm không bao giờ quên. Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông…là những nơi mà đoàn binh đã từng đi qua và đóng quân ở đó. Trong suốt chặng đường, những đôi chân đã mệt mỏi rã rời. Những buổi tối, sương dày đến nỗi che lấp cả đoàn quân. Nó phủ lên đầu họ một lớp màng bọc đủ để không ai có thể nhìn thấy. Màn sương ấy có lẽ lạnh lẽo lắm.
Hiện tra trước mắt người đọc là một quãng đường đầy những khó khăn và thử thách. Chiến tranh đã nguy hiểm với bom đạn mà người lính còn phải vượt qua những trắc trở của thiên nhiên. Trên miền đất giáp biên giới, núi rừng hiểm trở biết bao. Những cung đường lên xuống như sự thay đổi nhanh chóng của những nốt nhạc lúc trầm lúc bổng. Con đường với những dốc cao chót vót và sâu thăm thẳm nối tiếp nhau, trải dài suốt chặng đường. Người lính đã phải dốc hết sức để leo lên rồi chưa kịp nghỉ ngơi lại phải thận trọng với những dốc xuống không cẩn thận là dễ dàng rơi xuống vực sâu. Sự trắc trở của thiên nhiên đã lấy đi biết bao sức lực của người lính. Có lúc nó cao vút như chọc thủng trời xanh, có lúc nó lại sâu hoáy như đâm vào lòng đất. Chặng đường như để thử thách đôi chân và ý chí của người lính, rèn luyện cho họ những kĩ năng và lòng quyết tâm vượt qua gian khổ.
Trong gian khó, có người đẫ anh dũng vượt qua nhưng cũng có người lại không thể tiếp tục chiến đấu.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Một hình ảnh chân thực đến xót xa. Qua biết bao trắc trở của thiên nhiên, núi rừng, người lính đã mệt mỏi rã rời. Người lính Tây Tiến không còn đủ sức để mà bước tiếp. Những người lính ngồi xuống, gục đầu vào cây súng để nghỉ ngơi và lấy lại sức cho những chặng đường gian khó tiếp theo. Cũng có thể, đây là hình ảnh của sự hy sinh. Các anh dù đã chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không thể chống lại được sự tàn ác và vô tình của súng đạn. Họ đã đã hy sinh, đã ngã xuống để đem lại hòa bình và tự do cho dân tộc. Các anh ra đi cùng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Họ chiến đấu hết mình, không ngại hy sinh để bảo vệ nền hòa bình cho dân tộc. những cái chết cao cả và oai phong biết nhường nào.
Và rồi, sau những kỉ niệm ùa về, nỗi nhớ lại trào lên mạnh mẽ.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi
Nhà thơ nhớ về hương vị của núi rừng Tây Bắc. Mùi cơm nếp thơm lừng như đâng ùa về trong khứu giác của tác giả. Hương vị ấy có lẽ nhà thơ sẽ chẳng bao giờ quên. Hai tiếng “nhớ ôi” cũng đủ để ta cảm nhận được nỗi nhớ về Tây Tiến, về đồng đội lớn đến nhường nào. Nhà thơ như đang gọi, đang níu kéo sự ùa về của quá khứ, của những năm tháng gian khó nhưng thấm đượm tình đồng chí, tình dân quân.
Như vậy, bài thơ “Tây Tiến” và đặc biệt là khổ thơ đầu đã vẽ nên bức tranh hùng hồn về tinh thân người lính trong kháng chiến chống Pháp mà cụ thể là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ sẽ mãi vang vọng trong lòng người đọc như một khúc ca cường tráng về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ gan dạ, dũng cảm và đầy sự lạc quan, yêu đời.
Seen
Incoming search terms:Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Tây Tiến trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!