Bạn đang xem bài viết Phân Tích Hình Ảnh Đầu Súng Trăng Treo Trong Bài Thơ Đồng Chí được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
BÀI LÀM
Nhà thơ Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến. Ông thường viết về những cuộc chiến tranh đầy nét chân thực, dữ dội mà không kém phần lãng mạn trong những vần thơ. “Đồng Chí” là một trong những bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ được miêu tả một cách tiêu qua qua những hình ảnh người lính được khắc hoạ đậm nét và đầy ấn tượng và sự khốc liệt của chiến tranh nhưng thơ ông vẫn giữ được sự mềm mại và trữ tình.
Bài thơ “Đồng Chí” được bao trùm lên bởi hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn thế nhưng vẫn không thể đánh gục ý chí và tinh thần của những con người vì nước vì dân như vậy.
Giữ rừng hoang vu sương muối bao quanh lấy. Hình ảnh “đầu súng trăng treo”như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba duy nhất chỉ có ánh trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.
Giữa đêm đông lạnh giá, sương muối bao chùm vây quanh khiến cho người lính rét run người. Dù có khắc nghiệt, khó khăn vây quanh mình nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn”đứng bên nhau” để chờ”giặc tới” tư thế và tâm thế của họ luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta càng khâm phục và ngưỡng mộ.
Không phải vô tình mà ba câu thơ này lại được sáng tác thành một khổ riêng mà đó có lẽ là dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và cảnh chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.
Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “súng” và “trăng”tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn chữ tình cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ chính hữu nó lại trở nên mềm mại. Súng biểu tượng cho người chiến sĩ, trăng biểu tượng cho người thi sĩ. Trăng và súng không đối lập với nhau mà hoà quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữ rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.
Ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng xa quê hương xa những người thân để đi chiến đấu chính vì vậy những nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua ánh trăng, những hình ảnh đó đã tạo nên sự gần gũi, hình ảnh quen thuộc trong mọi cách nghĩ và hình dung ra những hình ảnh mang ý nghĩa đặc biệt hơn. Hàng loạt các chi tiết đã mang lại ký ức đẹp và nó trở nên quen thuộc và gần gũi với con người hơn.
Ánh trăng đã trở nên quen thuộc và gắn bó trong từng kỉ niệm và các khoảnh khắc của tác giả, nó đã mang trong chúng ta những điều gần gũi khi hình ảnh “đầu súng trăng treo” luôn trở thành một đề tài nổi bật của tác giả. Những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến con người, đã cho người chiến sĩ những kỉ niệm sâu sắc vô cùng.
Những người lính họ có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng luôn ấm ủ trong mình những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay là bóng dáng một người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nhiệt nhưng không để nó làm trái tim của những người lính bị chai lì mới thực sự là điều đáng quý.
Bởi vậy, có thể thấy rằng hình ảnh “đầu súng trăng treo” dường như lan toả thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng lan vào lòng những người lính mát dịu và trong lành nhất.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng luôn hướng lên trời mà tưởng chừng có thể chạm đến trăng. Một nét điểm xuyết tạo nên một bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hoà và tinh tế. Nhà thơ chính hữu đã thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo” đi sâu vào tâm trí người đọc.
Cảm Nghĩ Về Hình Ảnh Trăng Trong Thơ Của Hồ Chí Minh
Hoài Thanh có viết Thơ Bác đầy trăng. Hãy phân tích một số bài thơ, câu thơ của Bác để làm sáng tỏ ý kiến trên và phát biểu cảm nghĩ của em về trăng trong thơ Bác.
Ngoài tập Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh còn để lại nhiều bài thơ chữ Hán và thơ tiếng Việt. Thơ của Bác phong phú, đẹp đẽ, chứa chan tình yêu nước thương dân. Bác cũng có viết một số bài thơ cảm hứng trữ tình nói về tình yêu thiên nhiên trong đó đẹp nhất có lẽ là những vần thơ viết về trăng như Hoài Thanh nhận xét:
Thơ Bác đầy trăng.
Thơ Bác đầy trâng – Thơ trong tù, thơ chiến khu… có nhiều bài, nhiều câu thơ nói về vầng trăng xinh đẹp và trữ tình.
Trước hết nói về trăng trong Nhật ký trong tù. Ngắm trăng là bài thơ tuyệt tác. Trong ngục tối, nhà thơ không có rượu, có hoa để thưởng trăng. Trăng như một người bạn thân từ phương trời xa, vượt qua song sắt nhà tù đến thăm Bác. Trăng được nhân hóa tuyệt đẹp: có ánh mắt và tâm hồn. Vượt lên mọi cơ cực của cảnh tù đày, Bác say sưa ngắm vầng trăng. Trăng với Bác lặng lẽ nhìn nhau, cảm động. Bài thơ ghi lại một tư thế ngắm trăng hiếm thấy: Một tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, tạo vật, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ – chiến sĩ. Trăng hữu tình nên thơ. Trăng với người tù cảm thông chan hòa trong mối tình tri kỷ:
Người ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Ngắm trăng đã phản ánh tinh thần lạc quan và khát vọng sông hướng về ánh sáng, tự do của Bác trong cảnh tù đày.
Tiếp theo là những bài thơ về trăng chiến khu của Bác. Có gì đẹp hơn gió núi, trăng ngàn? Rằm thảng giêng một bài thơ trăng kỳ diệu. Hai câu đầu là cảnh trăng xuân sông nước.. Một màu xanh bao la bát ngát: sông xuân, nước xuân, trời xuân lung linh dưới vầng trăng đêm Nguyên tiêu. Ba chữ xuân trong nguyên tác là một gam màu nhẹ sáng và tươi mát.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Dịch thơ là:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Hai câu thơ cuối ghi lại công việc của Bác trong đêm rằm tháng Giêng: giữa nơi khói sóng của dòng sông, Bác bàn bạc việc quân để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nửa đêm, con thuyền chở đầy ánh trăng vàng quay về bến:
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Con thuyền của lãnh tụ trở thành con thuyền của thi nhân chở đầy ánh trăng vàng. Sự xuất hiện của vầng trăng cho ta thấy một hồn thơ tuyệt đẹp: Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, căng thẳng, bận rộn việc quân, việc nước, nhưng Bác vẫn ung dung, lạc quan, yêu đời. Nguyệt mãn thuyền (trăng đầy thuyền) là một hình tượng thơ cổ kính, mỹ lệ rất độc đáo.
Có vầng trăng bơi theo con thuyền của lãnh tụ trên dòng sông Đáy mênh mang giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc: Sao đưa thuyền chạy, thuyền chở trăng theo (Đi thuyền trên sông Đáy). Có vầng trăng đến đòi thơ như bạn tri âm, cùng Bác chia vui tin thắng trận. Trăng xuất hiện thì chuông lầu đêm thu reo lên, tin vui thắng trận dồn dập báo về… Cái đẹp gắn liền với niềm vui. Trong cảnh tù đày, trăng đã đến với Bác thì trong máu lửa chiến tranh, trong niềm vui thắng trận, trăng cũng không thể nào vắng bóng?
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.
(Tin thắng trận – 1948)
Có vầng trăng thu dát vàng núi rừng đêm khuya, cổ thụ, ngàn hoa hiện lên dưới vầng trăng làm cho cảnh khuya đẹp như vẽ. Thi nhân thao thức ngắm vầng trăng, nghe tiếng suối chảy trong như tiếng hát xa, lòng bồi hồi, xúc động:
Tiêng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa;
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Thiếu nhi, lớp măng non của dân tộc không thể nào quên vầng trăng thu thuở ấy… Bác yêu thương các cháu cho nên khi ngắm trăng Trung thu, Bác lại nhớ các cháu gần xa. Tấm lòng của Bác như vầng trăng thu ngời sáng:
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.
Có vầng trăng ước hẹn một ngày mai chiến thắng. Nước nhà độc lập, thanh bình, Bác thanh thản trở về cuộc sống bình dị:
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Kể sao hết vầng trăng trong thơ Bác Hồ, bởi lẽ Thơ Bác đầy trăng.
Thơ Bác đầy trăng, trăng tròn, trăng sáng, trăng trên mọi nẻo đường Bác đã đi qua. Có vầng trăng trong cảnh tù đày. Có vầng trăng kháng chiến. Có vầng trăng thanh bình. Bác nói nhiều về trăng thu. Bác yêu thiên nhiên, sống lạc quan yêu đời cho nên tâm hồn Bác lúc nào cũng hướng về ánh sáng, về cái đẹp. Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, là bạn tri âm của tao nhân mặc khách. Bác là một nhà thơ yêu trăng.
Ca dao, dân ca, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… có nhiều bài tuyệt tác nói về trăng. Thơ Đường nổi bật nhất là thơ Lý Bạch, dào dạt ánh trăng.
Bác Hồ đã kế thừa tinh hoa thơ ca cổ để viết nên những bài thơ trăng kiệt tác.
Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, của non xanh nước biếc. Bác yêu trăng, viết nhiều thơ về trăng vì Bác giàu lòng yêu thương con người. Trăng trong thơ Bác chiếu sáng một tấm lòng thiết tha, gắn bó đối với thiên nhiên tạo vật, đối với nhân dân và đất nước quê hương.
Trăng đã góp phần làm cho thơ Bác thêm đặc sắc. Thơ Bác đã vừa thực vừa mộng, vừa mang màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại, đậm đà thi vị. Trăng đã góp phần tạo nên gương mặt, bản sắc và tính thẩm mỹ trong thơ Bác.
Cuộc đời không thể thiếu vầng tráng. Đọc thơ trăng của Bác Hồ, tâm hồn mỗi chúng ta thêm giàu có, trong sáng, biết hướng tới ngày mai, vươn tới ánh sáng mà đi lên phía trước. Chúng ta càng yều thêm cảnh trí non sông.
Yêu cái đẹp trong thơ trăng của Bác, cái đẹp trong thơ trăng cổ nhân, chúng ta học tập tình yêu nước, thương dân của Bác. Ước sao đất nước mãi mãi tỏa sáng vầng trăng thanh bình, trăng thu tròn và đẹp cho tuổi thơ, trăng đến với mọi người, mọi nhà trong ấm no, hạnh phúc.
Nguồn: Tài liệu văn học
So Sánh Hình Tượng Trăng Trong Đồng Chí (Chính Hữu) Và Ánh Trăng (Nguyễn Duy)
Hình tượng “trăng” trong “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Ánh Trăng” (Nguyễn Duy)
Mở bài:
Trăng vốn là đề tài lớn trong thi ca. Trăng vừa là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên hiền dịu, vừa ẩn hứ trong mình biết bao triết lí nhân sinh. Chính Hữu qua bài thơ Đồng chí và Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh Trăng đã có những khám phá độc đáo, thú vị về hình tượng ánh trăng.
Thân bài:
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Đồng chí sáng tác năm 1947, in trong tập Đầu súng trăng treo. Tác phẩm viết về tình cảm đồng chí đẹp đẽ của người lính kháng Pháp buổi ban đầu.
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trăng viết năm 1978, in trong tập thơ cùng tên. Bài thơ như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống ân nghĩa thủy chung.
Đoạn thơ trong Đồng chí (Chính Hữu):
“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”.
+ Khổ thơ là bức hanh đẹp về tinh đồng chí, đồng đội, là biểu tượng cao đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Nổi bật giữa cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
+ Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa mộng. “Trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, là khát vọng tự do, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh, là chiến tranh ác liệt.
+ Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ.
Nghệ thuật: nghệ thuật ẩn dụ độc đáo, đặc sắc.
Đoạn thơ trong Ánh trăng (Nguyễn Duy):
+ Hình ảnh vầng trăng gắn liền với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê. Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đông, sông, bê” gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hòa, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt.
“hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với biển”.
“trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ”
+ Trăng còn là người bạn tri kỉ nơi chiến trường, gắn với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân. Vầng trăng ây cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi, đồng cảm cộng khổ và những mât mát hi sinh, vâng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính:
“hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỷ”.
Vầng trăng ấy nghĩa tình, thủy chung, gắn bó và đồng hành cùng với con người trên mọi bước đường đời. Con người khắc sâu tình cảm ấy, hứa sẽ không bao giờ quên:
“ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”.
Nghệ thuật: thủ pháp liệt kê, nhân hóa độc đáo.
So sánh:
Tương đồng:
Ở cả hai bài thơ trăng là hình ảnh đẹp, trong sáng; là người bạn trong chiên đấu, lạo động.
Nét riêng:
+ Đồng chí: biểu tượng của tình đồng chí keo sơn gắn bó, biểu tượng của tâm hồn lạc quan, dũng cảm.
+ Ánh trăng: biểu tượng nhắc nhở thái độ sống ân nghĩa thủy chung.
Kết bài:
Hai bài thơ là hai bức chân dung của người lính ở hai thời kì khác nhau. Người lính trong bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp của con người thời kì đầu cuộc chiến đấu chống Pháp, kiên cường và thủy chung. Người lính trong bài thơ Ánh trăng là lúc đất nước đã hòa bình, tuy đã lãng quên quá khứ nghĩa tình nhưng cũng kịp hồi hướng, tự nhắc nhở mình gắn bó với quá khứ.
Hình Ảnh Bác Hồ Hiện Lên Qua Bài Thơ Ngắm Trăng (Hồ Chí Minh)
Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, nhưng khi đến gần thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phượng ở đây bắt giữ, giải đi khắp gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đoạ hơn một năm trời. Thời gian này, Người đã viết Nhật kí trong tù bằng thơ chữ Hán, gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Tập thơ thể hiện một tâm hồn cao đẹp, ý chí cách mạng kiên cường và nghệ thuật thi ca đặc sắc. Bài thơ Ngắm trăng được trích trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiểu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
“Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Trong các các câu thơ dịch, câu thứ hai trong nguyên tác có nghĩa là “Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”. Câu thơ dịch dịch thành: Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ đã làm mất đi cái xốn xang, bối rối của nhân vật trữ tình (cũng là mất đi sự lãng mạn và nhạy cảm trước thiên nhiên trong tâm hồn của Bác). Hai câu thơ cuối (bản dịch) cũng kém phần đăng đối hơn so với phiên âm. Hơn nữa từ nhòm và ngắm trong câu cuối là hai từ đồng nghĩa, khiến cho lời dịch không bảo đảm được sự cô đúc của ý tứ và thể thơ.
Thường người ta ngắm trăng vào những lúc thảnh thơi, thư thái. Thế nhưng ở đây, Hồ Chí Minh lại ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt: ở trong tù. Khi Bác nói “Trong tù không rượu cũng không hoa” thì không có nghĩa là Bác đang than thở cũng không phải đó là một lời phê phán. Chỉ có thể nghĩ rằng, trước đêm trăng tuyệt đẹp ấy, Bác mong được thưởng trăng một cách trọn vẹn (và đúng là thật tiếc nếu không có rượu, có hoa). Chính việc nhớ đến rượu và hoa trong cảnh ngục tù đày đã cho thấy, người tù không hề vướng bận gì về vật chất và những gian nan mà mình đang phải chịu. Người tù vẫn ung dung tự tại, vẫn thả hồn mình cùng với thiên nhiên.
Hai câu cuối của bài thơ chữ Hán đối nhau rất chỉnh:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên trong bài thơ nổi bật ở khía cạnh người chiến sĩ không chút bận tâm về gông cùm, đói rét,…Trước khó khăn, Bác vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Bài thơ còn thể hiện nổi bật tâm hồn nghệ sĩ của Bác Hồ, một tâm hồn luôn rộng mở với thiên nhiên.
Cuộc ngắm trăng trong bài Vọng nguyệt có hoàn cảnh không giống như các cuộc ngắm trăng khác: bài thơ được Bác làm khi phải chịu cảnh tù đày. Và có thể nói, mỗi bài thơ Bác viết về trăng lại có những nét riêng: trăng đầy sức sống, đầy sức xuân trong Rằm tháng giêng (Nguyền tiêu); trăng thi vị và tri kỉ trong Báo tiệp (Tin thắng trận),..Nói chung, ở tất cả những bài này, Bác đều đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ, luôn mở rộng lòng để giao hoà cùng với thiên nhiên.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Hình Ảnh Đầu Súng Trăng Treo Trong Bài Thơ Đồng Chí trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!