Bạn đang xem bài viết Phân Tích Cảm Hứng Lãng Mạn Và Tính Chất Bi Tráng Trong Bài Thơ Tây Tiến được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tuyển chọn 2 bài văn hay phân tích cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.Văn mẫu tham khảo
Bài mẫu số 1
Quang Dũn g là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân thương tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Miên man trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân thương trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào không gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng không khí ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Không chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ không hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc không mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ không hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn oai phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên cương qua cách miêu tả của nhà thơ không hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên cương xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao khi đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca oai phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc không tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và thiên nhiên.
Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gửi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh không mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Tinh thần bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự kết hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Chúc các em thi tốt^^
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Phân Tích Cảm Hứng Lãng Mạn Và Âm Hưởng Bi Tráng Trong Bài Tây Tiến Quang Dũng
Đề bài : Phân tích cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Hướng dẫn lập dàn ý
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”
Thân bài
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
– Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Đầu tiên là phải nói đến nỗi nhớ của nhà thơ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên của người lính Tây Tiên và thiên nhiên Tây Tiến.
+ Thiên nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ.
* Tinh thần bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việckhông né tránh hiện thực, miêu tả cái bi, tức cái gian khổ, đau thương của hiện tại. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng không hề bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu hiện:
+ Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không hề né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng nhà thơ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại mà câu”Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Tinh thần của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Đánh giá:
Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Kết luận
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Bài văn tham khảo
Tây Tiến (1948) là bài thơ tiêu biểu nhất của đời thơ Quang Dũng, đồng thời cũng là một thành tựu đáng ghi nhớ của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Là sản phẩm của một hồn thơ trẻ trung, phóng khoáng, hơn nữa nội dung lại nói về một thời gian nan mà hào hùng của lịch sử dân tộc, thật dễ hiểu khi bài thơ có hai nét đặc sắc cơ bản bao trùm là cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng.
Một tác phẩm có cảm hứng lãng mạn bay bổng là tác phẩm mà ở đó những cảm xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện với cường độ mạnh, trí tưởng tượng được phát huy hết mức, những cái phi thường tuyệt mĩ được tô đậm và thủ pháp đối lập được sử dụng một cách rộng rãi, thường xuyên.
Tây Tiến quả là một tác phẩm hết sức lãng mạn. Điều dễ nhận thây trước tiên là độ sâu, độ mạnh trong cảm xúc của nó. Cả bài được bao bọc trong một nỗi nhớ ăm ắp, nổng nàn, vừa xoáy sâu, vừa lan tỏa. Không có nỗi nhớ đó thì chắc chắn không có cả bản thân bài thơ, bời tất cả những điều được nói tới trong bài đều thuộc về quá khứ, giò đây nhờ kí ức, nhờ nỗi nhớ mà sống dậy. Không phải tình cờ mà từ “nhớ” xuâ’t hiện nhiều lần trong bài và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà thoạt đầu tên của tác phẩm gồm ba chữ: Nhớ Tây Tim. Mở đầu bài tho, tác giả đã viết
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi ! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Hai câu này đã nói lên rất rõ niềm thôi thúc bên trong khiên tác giả đã viết nên Tâỵ Tiến. Chính nỗi “nhớ chơi vơi” chứ không phải cái gì khác đã dẫn ngòi bút của tác giả đi miên man trong thế giới thơ. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là nỗi nhớ vừa có vẻ xa xôi, vời vợi lại vừa có vẻ gần gũi, lửng lơ, ám ảnh hoài không cho người ta được yên, buộc người ta phải đắm chìm trong hoài niệm.
Như mọi bài thơ thấm dẫm cảm hứng lãng mạn khác; bài thơ Tây Tiến chứa đựng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho độc giả. Đối tượng miêu tả ở đây có thật nhiều nét phi thường. Hãy đọc một đoạn tả dốc trong bài:
Dốc cứ cao lên, cao mãi hút mắt nhìn để rồi đổ gập xuống, sâu dường như vô cùng tận. Ta tưởng như gặp lại mảnh núi non hiểm trở, hùng vĩ, đầy thách thức từng được thi hào Lí Bạch nói tới trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó): “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên (Đường Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh). Dốc đã thế, mưa cũng mịt mùng bùa vây tứ phía khiến cho trong mắt của các chiến sĩ đang hành quân, những ngôi nhà sàn như đang trôi bồng bềnh trong biển nước. Cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được tô đậm trong hai câu có âm điệu hết sức mạnh mẽ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Thật là một cuộc “diễu võ dương oai” đầy ngoạn mục của núi rừng, khiến cho những kẻ yếu bóng vía có thể run lên vì sợ hãi.
Nhưng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không phải chỉ thuần những cảnh ghê gớm như thế. Đã bao lần nó phô ra vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, say đắm của mình trước con mắt háo hức quan sật của người lính chiến:
Đúng là một vẻ đẹp quá đỗi nguyên sơ, thanh khiết, gợi cảm đến nao lòng. Những bông lau xám bạc phất phơ bên bờ suối, những cánh hoa rừng chòng chành, “đong đưa” trên dòng nước lũ nhự giấu trong mình cả một câu chuyện cổ tích về núi rừng miền Tây mà ta chưa có điều kiện khám phá hết được.
Việc miêu tả những nét độc đáo khác thường của thiên nhiên là một trong những điều kiện quan trọng tạo nên cảm hứng lãng mạn cho bài thơ. Cảm hứng lãng mạn đó còn được đẩy lên một mức nữa khi tác giả đi sâu khám phá bản tính lãng mạn, mộng mơ của những người lính Tây Tiến. Thật ra thì tất cả những câu nói về vẻ đẹp của thiên nhiên Tầy Bắc đã dẫn ra trên kia đều đã bao hàm ý khẳng định chất thi nhân của các anh “bộ đội Cụ Hồ”. Trên đường hành quân, họ chưa một lần bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn những vẻ đẹp hiếm thấy trong đời. Mắt nhìn dốc cao, đầu gội trong mưa lớn, tai nghe tiếng thác thét gầm, cả sinh mạng đối diện cùng thú dữ, chừng ấy trải nghiệm đã khiến cho máu phiêu lưu trong họ bị kích thích rnạnh. Còn khi được sống với cảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, với cảnh chiều sương” nơi Châu Mộc, chắc chắn họ cảm thây nổi niềm thơ thức dậy dạt dào. Chẳng thế mà giữa những ngày gian khổ, họ vẫn hào hứng tổ chức các đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt. Trong cái đêm vui đó, những “dáng hồng” sơn cước đã làm họ ngất ngây say:
Làng mạn đến mức ấy, quả khó ai hơn được!
Trong các tác phẩm được viết theo cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối lập thường rất được chú ý khai thác, Bài Tây Tiến cũng nằm trong thông lệ đó. Sự đối lập ở đây có nhiều cấp độ, trước hết là đối lập về hình ảnh. Ta có thế thấy rõ điều này qua các đoạn của bài thơ. Ở đoạn một, ngòi bút tác giả nghiêng về miêu ta sự hào hùng, dữ dội của thiên nhiên, còn ở đoạn hai, nét thơ mộng của nó được ưu tiên nhấn mạnh. Cũng có khi, sự đối lập đó được thể hiện trong hai câu liền kề nhau:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Câu trên nhấn mạnh sự khắc nghiệt, đe dọa, còn câu dưới lại diễn tả một cảnh tượng làm ấm lòng người; Cũng qua hai câu này, đặc biệt là câu sau, ta còn nhận ra sự đối lập về thanh điệu đã được Quang Dũng sử dụng rất tài tình trong cả bài thơ: có những câu thơ “khổ độc” (khó đọc) dày đặc thanh trắc đi kèm những câu toàn thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng. Thử so sánh câu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” với câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, ta sẽ thấy rất rõ điều đó. Tất nhiên không phải sự đối lập nào cũng bao gồm những nét tương phản loại trừ nhau. Trên thực tế, các mặt đối lập, tương phản có thể gắn với nhau trong một thể thống nhất, như phẩm chất can trường gắn với phẩm chất lãng mạn trong bản thân mỗi người lính Tây Tiến vậy.
Ở bài Tây Tiến, Quang Dũng thường sử dụng những cách ví von độc đáo, táo bạo làm nổi bật tính chất khác thường của sự vật. Chẳng hạn theo góc nhìn từ dưới hắt lên, nhà thơ thấy mũi súng trên vai người lính đi trên đỉnh dốc đang “ngửi trời”. Ở một câu khác, tác giả diễn tả sự rình rập của cọp dữ bằng hai chữ “trêu người” rất ấn tượng… Tấ’t cả những điều này đều góp phần nhất định làm nên phong vị lãng mạn đậm đà của tác phẩm.
Có một thời kì dài bài thơ Tây Tiến bị ngại nhắc đến. Những người không thích nó chắc có lẽ dị ứng với âm hưởng bi tráng vốn thấm đẫm trong từng chữ từng câu của bài thơ. Giờ đây, đọc lại Tây Tiến, có lẽ không còn ai cảm thấy cấn cái với nó nữa, và chất bi tráng cũng đã được nhìn nhận khác đi. Khi nói đến chất bi tráng của một tác phẩm văn học nào đó, người ta thường nói sự tổn tại song song, hòa quyện giữa hai yếu tố “bi” và “tráng”. “Bi” là đau buồn, bi ai và “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có giọng bi tráng thường không tránh né những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến được cho độc giả những xúc cảm mạnh và rắn rỏi.
Đọc suốt bài thơ Tây Tiến, người ta dễ nhận ra một điều: Quang Dũng không ít lần viết về cái chết và chưa bao giờ nói cho nhẹ đi những gian khổ chất chồng mà các chiến sĩ phải đương đầu. Lắng nghe âm điệu của những câu tả dốc, ta thấy dội lên tiếng thở nặng nhọc của các anh lính Tây Tiến. Hành quân đường dài qua núi cao, vực sâu, trong “đoàn quân mỏi” có người đã ngã xuống:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Dù đã cố dùng lối diễn tả khô, gọn, nhà thơ vẫn không giấu nổi lòng mình. Trong hai chữ “dãi dầu” ta đọc thấy có biết bao niềm xót xa thương cảm vô bờ bến.
Là người đã từng trải qua những ngày Tây Tiến, Quang Dũng nhìn rõ hơn ai hết khuôn mặt hung tợn của tử thần có tên gọi là “sốt rét”. Chính căn bệnh quái ác nơi núi rừng âm u này đã tàn phá thể chất các chiến sĩ một cách phũ phàng. Tóc họ không mọc nổi, da xanh mét như tàu lá, con người luôn đứng chân noi biên giới mong manh giữa cái chết và sự sống. Đã bao lần nhiều người trong họ đành phải ôm hận lìa đời. Các anh là ai trong số những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương’ dài vô tận? Đọc thơ Quang Dũng, có lẽ tất cả chúng ta đều cảm thấy đau nhói trong lòng. Chi tiết “Áo bào thay chiếu anh về đất” đã cực tả những thiếu thốn khó tưởng tượng nổi của đoàn quân Tây Tiến. Một chiến sĩ hi sinh, nhiều khi đồng đội không tìm nổi một mảnh chiếu để liệm xác.
Mặc dù thường đề cập những chuyện đau buồn, bài thơ Tây Tiến vẫn không đưa đến cho ta cảm xúc bi lụy. Đọc tác phẩm, chúng ta thường thấy có một cái gì đó mạnh mẽ và to lớn cứ dâng lên choáng ngợp lòng mình, khiến ta trở nên trầm tình hơn, cứng cỏi hơn. Cái gốc của vấn đề là ờ chỗ: một mặt bản thân Quang Dũng nói về mất mát với thái độ chấp nhận lặng lẽ mà kiên quyết, mặc khác, nhà thơ rất chú ý nêu lên các chi tiết về nghị lực sống vô tận cũng như chất trượng phu của những người chiến sĩ. Ví như hai câu nói về cái chết đã dẫn ra ở trên. Cái chết ấy một mặt gợi lên niềm xót thương, mặt khác, gợi sự kính trọng, ngưỡng mộ. Quang Dũng đã rất có ý thức nhấn mạnh tư thế người chiến sĩ lúc hi sinh. Các anh hi sinh ngay trên đường hành quân, trong lúc làm nhiệm vụ. Sức lực đã tàn và vẫn bước, đến khi không bước được nữa thì gục lên súng mũ và ra đi – một sự ra đi quá đỗi nhẹ nhàng như vịệc đắm mình vào giấc ngủ. Mấy từ “bỏ quên đời” được dùng rất sáng tạo đã góp phần chuyển biến am hưởng câu thơ từ ” bi” sang “tráng” . Hãy đọc tiếp những câu thơ có lối diễn tả khác thường này nữa :
Ai chẳng hiểu cái sự ” không mọc tóc” kia là hậu quả của bệnh bốt rét, nhưng khi tác giả đã viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” thì ta lại có cảm tướng rằng đoàn binh ấy không thèm mọc tóc, rằng họ chù động như vậy (ý của Chu Văn Sơn). Tiếp theo, khi tác giả đặt cụm từ “dữ oai hùm” bên cạnh cụm từ “Quân xanh màu lá” thì âm điệu toàn bộ câu thơ không còn bi ai nữa mà trợ nên cứng cỏi lạ thường. Vũ Quần Phương từng khen Quang Dũng “tả lính ốm mà không thấy lính yếu’ – điều đó thật chí lí! Cần phải nói ngay rằng sở dĩ nhà thơ chọn cách diễn tả đó là bởi vì trong thực tế những người lính Tây Tiến vốn có cốt cách trượng phu khá rõ. Dù cuộc sông có gian nan thế nào, họ vẫn giữ được sự bình thản, yên tĩnh của tâm hồn. Trong giấc mơ, hình ảnh nhũng kiều nữ chốn đô thành thỉnh thoảng vẫn cứ hiện lên, tiếp thêm nguồn sinh lực mói cho họ. Từ ngày ra đi, họ đã xác định được những gian khổ của đời lính chiến, đã chấp nhận nó, xem nó như sự thủ thách đối với chí làm trai. Đến lúc hi sinh, nỗi hận lớn nhất cùa họ là việc lớn chưa thành. Có lẽ trong tiếng “gầm” của dòng sông Mã đổ về xuôi có tiêng “gầm” của nỗi hận đó. Chính nó đã được trời đất chứng kiến, cảm thông và nâng lên một tầm vóc mới khiến chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình.
Có thể thấy thêm ở bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dùng rất nhiều từ Hán Việt trang trọng, cố kính như “đoàn binh”, “biên cương”, “viễn xứ*” “độc hành”… Việc dùng từ như vậy đã góp phần đắc lực thể hiện tráng khí và chất chinh phu hào hùng của những người lính cũng có nghĩa là nó có tác dụng làm tăng thêm âm hưởng bi tráng cho tác phẩm.
Nửa thế kỉ trôi qua kể từ ngày bài thơ Tây Tiến ra đời. Đã có nhiều vấn đề , nhiều sự việc bị phôi pha cùng năm tháng , nhưng bài thơ Tây Tiến vẫn còn đó, sừng sững như một tượng đài bất tử về những người lính vô danh thời chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng của mình, bài thơ luôn làm sống dậy trong ta kí ức về một thời kì lịch sử không được phép quên, không thể nào quên.
Phân Tích Vẻ Đẹp Lãng Mạn Và Tinh Thần Bi Tráng Của Người Lính Tây Tiến
– Khái niệm lãng mạn và bi tráng:
+ Lãng mạn: phát huy cao độ trí tưởng tượng phong phú, đưa con người vượt qua mọi khắc nghiệt của hiện thực để đưa tâm hồn con người vươn tới sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai phía trước.
+ Bi tráng: là khái niệm chỉ vẻ đẹp vừa đau thương, vừa hào hùng, hào sảng.
2.1. Trước hết, về vẻ đẹp lãng mạn của hình tượng người lính:
a. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên khắc nghiệt, dữ dội: vực sâu, dốc cao, đèo thẳm…nhưng họ lại thấy thiên nhiên ấy hiện lên thật hùng vĩ nên thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Sài Khao rồi Mường Lát hiện lên trong “sương lấp”, “đêm hơi” vừa như thực như mộng. Đèo cao, đường hành quân quanh co trở thành đối tượng để thưởng lãm, thiên nhiên vừa là đối thủ để vượt qua, vừa là để thưởng thức. Các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” kết hợp các điệp từ “dốc”, điệp ngữ “ngàn thước”, phép tương phản “lên cao” – “xuống”… càng làm cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc thêm hùng vĩ, tráng lệ. Có thể hình dung địa hình Tây Bắc toàn dốc núi quanh co, điệp trùng, hết lên cao rồi lại xuống thấp, một bên là dốc đá dựng đứng hiểm trở, một bên là vực sâu hun hút, nhìn xuống hay nhìn lên đều rợn ngợp đến chóng mặt.
Qua dốc cao, vực sâu là mưa rừng: ” Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thiên nhiên nên thơ, trữ tình. Cơn mưa rừng hiếm hoi như trải dài hút tầm mắt tạo nên cảnh tượng “mưa xa khơi” bồng bềnh, ảo mộng. Câu thơ dệt nên bởi những thanh bằng gợi sự yên ả, nhẹ nhàng. Thiên nhiên hoang sơ, nguyên thủy hơn nữa là cảnh một chiều sương:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Ở đây, bằng bút pháp chấm phá tinh tế, cảnh thơ như được phủ lên bằng một màn sương huyền thoại, da diết hồn của ngàn lau…giống như một bức họa cổ. Tây Bắc hiện lên như trong cõi mộng. Bến bờ mênh mang hồn lau. Núi rừng có chút buồn hiu quạnh nhưng lại đẹp đến mơ màng. Thấp thoáng sau bóng lau là “dáng người trên độc mộc” mềm mại, uyển chuyển hòa lẫn trong dáng “hoa đong đưa” tạo nên bức tiểu họa Tây Bắc thơ mộng, giàu chất thơ, chất họa.
b.Tâm hồn người lính hào hoa, lãng mạn
– Vượt qua bao gian khổ, hi sinh, mất mát, tâm hồn người lính thăng hoa, bay bổng trong đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Không khí lễ hội ngập tràn âm thanh và ánh sáng. Đắm mình trong tiếng nhạc điệu khèn, tâm hồn những anh lính trẻ ngất ngây, mê đắm, ngẩn ngơ, sững sờ khi được cùng hòa mình vào dáng son ngọc ngà của những nàng, những em thiếu nữ xinh đẹp của vùng cao Tây Bắc. Mọi mỏi mệt, mọi gian khổ của đoạn đường đã qua dường như tan biến, chỉ còn lại đây là tâm hồn thăng hoa, bay bổng cùng hồn thơ, tiếng nhạc.
– Trong gian khổ, thiếu thốn, mất mát hi sinh, tâm hồn người lính vẫn lạc quan, vẫn mộng mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm”:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Giấc mộng lớn của những chàng trai năm ấy ra đi là giấc mộng được trả nợ nước thù nhà, mộng lập công, mộng hòa bình. Còn giấc mơ lãng mạn kia là mơ về những cô bạn gái Hà thành duyên dáng, thanh lịch, những dáng Kiều thơm của một thời tuổi trẻ sôi nổi mà trách nhiệm. Chính mộng mơ là yếu tố lãng mạn, là động lực lớn nhất để người lính vững bước quân hành.
2.2 Cùng với cảm hứng lãng mạn, là tinh thần bi tráng rất Tây Tiến:
a. Trong gian khổ, người chiến sĩ Tây Tiến luôn hiên ngang, bất khuất. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc bi tráng, phi thường
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Đoàn quân trông thật kì dị: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Đó là nguyên do của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Đối lập với ngoại hình ốm yếu là tâm hồn, tinh thần đầy mạnh mẽ, dũng mãnh. Cách nói “không mọc tóc” là để tả cái ngang tàng của người lính, họ vẫn lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, quắc thước hiên ngang. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ.
b. Họ vượt lên trên hoàn cảnh hi sinh, mất mát, gian khổ bằng lý tưởng sống cao đẹp: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái, ngang tàng, pha chút ngạo nghễ của những chàng trai đầu trọc da xanh. Họ nguyện hiến dâng thanh xuân mình cho Tổ quốc, lên đường “không vương thê nhi”, “ra đi đầu không ngoảnh lại”. Họ sẵn sàng chiến đấu vì giấc mộng làm trai thời loạn, xem nợ nước là món nợ lớn của kẻ làm trai. Bởi vậy, hình tượng người lính nổi lên giữa gian khổ, hi sinh càng trở nên lẫm liệt, oai hùng.
c. Sự hi sinh của người lính cũng được bao bọc trong một không khí hoành tráng, trang nghiêm mà thanh thản:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
– Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính. “Anh về đất” là cách nói giảm, nói tránh đi cái chết làm câu thơ bi mà không lụy. Họ ra đi trong âm thanh của dòng sông như một khúc nhạc chiêu hồn tử sĩ thật dữ dội, bi tráng…Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, bạn đồng hành của Tây Tiến, cũng nhỏ dòng lệ cảm thương lay động cả đất trời, đã gầm lên “khúc độc hành” khúc tráng ca bi hùng rực rỡ nét sử thi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa người lính về với nơi an nghỉ cuối cùng.
Có lúc sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Chết không rời bỏ đội hình đội ngũ, thân xác bỏ lại chiến trường nhưng tinh thần vẫn theo chân đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát hy sinh nhưng không chút bi luỵ thảm thương.
– Chính cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng cái nhìn mang tính anh hùng ca trước chân dung tinh thần bi tráng của những người chiến sĩ mang một vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
– Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên chất sử thi đặc biệt của bài thơ. Bức chân dung người lính hào hoa, dũng cảm trên nền hùng vĩ, tráng lệ được tác giả hướng hồn thơ ngưỡng vọng vào một thế hệ anh hùng của thời đại kháng chiến chống Pháp.
Tóm lại, có thể nói hình tượng người lính đã để lại những ấn tượng khó quên cho độc giả bởi hai vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần thái bi tráng. Tất cả làm nên một bức tượng đài về những người chiến sĩ gian khổ, đau thương nhưng hào hoa, hào hùng. Bài thơ gieo vào lòng người đọc những tình cảm yêu thương, ngưỡng vọng về một thời gian khổ, hào hùng của dân tộc.
Đề nghị ghi rõ nguồn khi trích dẫn
Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Giới thiệu về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Giới thiệu về cảm hứng lãng mạn như một nét cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
– Giải thích cảm hứng lãng mạn là gì và sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm văn chương:
+ Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là xu thế vươn lên, vượt lên trên thực tại khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng tượng, ở tương lai hay quá khứ.
+ Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo, hồi tưởng, kỉ niệm,… đồng thời đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hằng ngày. Nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng tượng, liên tưởng, cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
– Sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Cần phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến trên hai phương diện: nội dung cảm hứng (nỗi nhớ về một thời chiến chinh gian khổ, nhiều mất mát hi sinh nhưng cũng thật hào hùng; hình tượng thiên nhiên; hình tượng người lính Tây Tiến); nghệ thuật thể hiện (bút pháp tương phản trong việc thể hiện hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống và chất thơ từ chính cuộc sống đó, tính chất bi tráng của hình tượng người lính, giọng điệu trữ tình và bi tráng của tác phẩm,…).
+ Vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người: địa hình gập ghềnh, hiểm trở với núi cao, vực thẳm, sông sâu; thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn nhưng cũng toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình với tất cả vẻ quyến rũ, làm say lòng người.
+ Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến: những khó khăn, thử thách không ngăn được bước chân người lính vốn là những chàng trai Hà Thành hào hoa, tinh tế; những nét bi thương “không mọc tóc,”, “mổ viễn xứ”,… là những âm trầm trong bản hùng ca về những con người “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
– Nhận xét, bàn luận về ý nghĩa, giá trị của sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến:
+ Cảm hứng lãng mạn và giá trị của bài thơ Tây Tiến: Cảm hứng lãng mạn giúp tác giả khắc hoạ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng của người lính Tây Tiến cùng vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây, tạo nên một tác phẩm độc đáo trong thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Cảm hứng lãng mạn và sự thể hiện phong cách của tác giả: nét hồn nhiên, tinh tế, vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng.
Cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về vẻ đẹp của cảm hứng lãng mạn trong bài thơ (có thể so sánh với một số bài thơ ra đợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp).
Nguồn: Vietvanhoctro.com
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Cảm Hứng Lãng Mạn Và Tính Chất Bi Tráng Trong Bài Thơ Tây Tiến trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!