Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Của Huy Cận (Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết) được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận (dàn ý và bài làm chi tiết)
I, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, phạm vi phân tích
1, Tác giả:
-Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới
– Trước Cách Mạng, ông thường viết về thiên nhiên, vũ trụ với nỗi buồn của con người gắn bó với quê hương, đất nước.
– Sau Cách Mạng, hồn thơ lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động.
2, Tác phẩm:
-Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
3, Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể cô đơn trước vũ trụ vô tận, trước dòng đời mênh mang
1, Khái quát:
a, Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
-Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước
b, Nhan đề:
+ Phép điệp âm “ang” à gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông
+ Là một từ Hán Việt cổ nên gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời.
c, Lời đề từ:
+ Thâu tóm nội dung của cả bài thơ
+ Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau
+ Cảm xúc của nhà thơ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác
2, Phân tích:
a, Khổ 1: “Tràng giang” mở ra bằng hình ảnh dòng sông mang nỗi sầu nhân thế (Trích 4 câu thơ)
-Câu 1:
+ Gợi sự vận động hết sức nhỏ bé, nhẹ nhàng của sóng
+ Từ láy “điệp điệp” khiến nỗi buồn trở nên cụ thể, chồng chất lên nhau
+Trên dòng tràng giang mênh mông, nổi bật hình ảnh một con thuyền lẻ loi, trôi vô định
+ Cụm từ “thuyền về nước lại” đọc lên nghe như có gì đó chia lìa đôi ngả.
+ Cụm từ “sầu trăm ngả”: nỗi sầu vô hướng, tỏa rộng khắp không gian
-Câu 4:
+ Hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái cô đơn, nhỏ bé, phù du
+Số từ “một” gợi sự ít ỏi, “cành khô” gợi sự khô héo, “lạc” mang nỗi sầu vô định, vô hướng
b, Khổ 2: Huy Cận như vẽ thêm cảnh qua một cái nhìn bao quát hơn (trích 4 câu thơ)
-Câu 1,2:
+ Từ láy “lơ thơ” với biện pháp đảo ngữ: nhấn mạnh cái trống trải, thưa thớt của cảnh vật trên cồn cát
+ Từ “đâu” có thể hiểu là đâu có hoặc đâu đó. Nhưng hiểu theo cách nào thì âm thanh nhỏ nhoi-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mỏng manh, mờ nhạt
-Câu 3,4
+ Huy Cận đã thể hiện được sự vận động, mở rộng về mọi hướng của không gian
+ Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở rộng theo 3 chiều: dài, rộng, cao
c, Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)
-Câu 1,2
+ Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự bấp bênh, trôi nổi của những kiếp người vô định
+ Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có bóng dáng của con người
-Câu 3,4
+ Cấu trúc phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con người
d, Khổ 4: Nỗi cô đơn được mở lên chiều cao với những hình ảnh đối lập (trích thơ)
-Câu 1,2
+ Bút pháp chấm phá: mở ra hình ảnh những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc
+ Câu thơ thứ 2 có thể hiểu theo 2 nghĩa: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm cánh chim nghiêng lệch
-Câu 3,4:
+ Từ láy “dợn dợn”: thể hiện nỗi niềm cô đơn, bang khuâng
+ 2 chữ “nhớ nhà”: gợi hình ảnh một người lữ thứ xa nhà lẻ loi, dừng bước bên bờ tràng giang
+ Huy Cận không cần nhìn khói hoàng hôn cũng nhớ nhà bởi nỗi nhớ ấy không phụ thuộc vào ngoại cảnh mà xuất phát từ tâm can
3, Đánh giá:
a, Nghệ thuật:
– Sử dụng những chất liệu, thi liệu gần gũi với đời sống
– Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt
– Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển
b, Nội dung:
-Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn
– Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất vọng cùng cô đơn
– Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm
– Tổng kết lại vấn đề
– Nêu cảm nhận của bản thân
Bài thơ “Tràng giang” trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939), được lấy cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước. Nhan đề “Tràng giang” sử dụng phép điệp âm “ang” gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông. Bên cạnh đó, “tràng giang” còn là một từ Hán Việt cổ nên còn gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Không chỉ có nhan đề đặc biêt, bài thơ còn gây ấn tượng bởi lời đề từ đặc biệt. Lời đề từ tuy ngắn gọn nhưng thâu tóm nội dung của cả bài thơ. Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau nhưng đều lớn lao, mênh mông, có tầm vũ trụ. Từ đây, nhà thơ muốn gửi gắm một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác.
Trước hết, khổ thơ đầu mở ra bằng hình ảnh dòng sông mang nỗi sầu nhân thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điêp
Con thuyền xuối mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh “sóng gợn tràng giang” gợi sự vận động hết sức nhỏ bé, nhẹ nhàng của sóng. Đó là cái gợn rất khẽ, rất nhẹ của một dòng sông lớn như từ vạn kỉ đổ về. Cặp từ láy “điệp điệp” khiến nỗi buồn trở nên cụ thể, chồng chất lên nhau, nối tiếp nhau không dứt. Trên dòng nước tràng giang, nổi bật hình ảnh con thuyền lẻ loi đang xuôi mái như không hề có bóng người:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Cụm từ “thuyền về nước lại” đọc lên nghe như có gì đó chia lìa đôi ngả. Đặc biệt, ba chữ “sầu trăm ngả” đặt ở cuối câu khiến nỗi sầu trở nên thấm thía, lan tỏa khắp không gian. Chính bởi mang trong lòng nỗi sầu thương lớn mà nhà thơ sẵn sàng đồng cảm với một cành củi khô. Hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái cô đơn, nhỏ bé, phù du. Số từ “một” gợi sự ít ỏi, “cành khô” gợi sự khô héo, “lạc” mang nỗi sầu vô định, vô hướng. Hình ảnh này đã phản chiếu trọn vẹn cảm nhận của nhà thơ về sự nhỏ nhoi, nổi trôi đến tê tái của kiếp người giữa dòng đời vô tận. Khổ thơ là những cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên sông nước, qua đó bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng cô đơn của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu, tác giả chú ý đến cảnh mặt nước với bao chia lìa, thì ở khổ thơ thứ hai, Huy Cận như vẽ thêm cảnh qua một cái nhìn bao quát hơn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Từ láy “lơ thơ” được đảo lên trước nhấn mạnh cái trống trải, thưa thớt của cảnh vật trên cồn cát. Từ láy “đìu hiu” theo chia sẻ của huy Cận rằng tác giả đã học được từ câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm). Điều đó đã làm sống lại không khí trống trải, thê lương của thơ xưa. Từ “đâu” có thể hiểu là đâu có hoặc đâu đó. Nhưng hiểu theo cách nào thì âm thanh nhỏ nhoi-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mỏng manh, mờ nhạt. Cái nhìn của Huy Cận còn bao quát cả phạm vi không gian, từ cao đến thấp, từ gần đến xa:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở rộng theo ba chiều: dài, rộng, cao. Không gian mở ra đến đâu thì nỗi buồn, sự cô liêu được mở theo đến đấy. Đó là cảm giác bơ vơ, lạc lõng của tác giả trước thiên nhiên, trời rộng, sông dài. Càng khao khát, mong mỏi tìm kiếm hơi ấm cho tâm hồn giá lạnh thì thiên nhiên lại đáp trả nhà thơ bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu. Dường như khi nhìn cảnh vật, ta thấy được một nỗi sầu nhân thế:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông thường được dùng trong thơ cổ điển, gợi sự bấp bênh, trôi nổi của kiếp người vô định. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một cánh bèo mà là “hàng nối hàng”, càng ợi lên cảm giác cô đơn. Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng” cũng là minh chứng cho sự ngự trị của thiên nhiên, không hề có bóng dáng của con người. Cấu trúc phủ định “không… không” như phủ nhận hoàn toàn kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn bao trùm. Cuối cùng, khép lại những “nỗi buồn mang mang thiên cổ sầu” là sự cô đơn đến tha thiết qua những hình ảnh đối lập:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Bút pháp chấm phá với hình ảnh “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mở ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” có thể hiểu theo hai cách. Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm cánh chim nghiêng lệch. Từ láy “dợn dợn” tương ứng với cụm từ “vời con nước” mang theo nỗi niềm cô đơn, bâng khuâng. Hai chữ “nhớ nhà” cuối bài đã khắc họa chân dung của một người lữ thứ xa nhà lẻ loi, dừng bước bên bờ tràng giang. Huy Cận không cần nhìn khói hoàng hôn cũng nhớ nhà bởi nỗi nhớ ấy không phụ thuộc vào ngoại cảnh mà xuất phát từ tâm can. Đây có lẽ cũng là nét tâm trạng chung của các nhà thơ lúc bấy giờ, là nỗi buồn của cả một thế hệ.
Về nghệ thuật, bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa thơ cổ điển và hiện đại. Tuy nhiên, nhưng chất liệu văn học mà tác giả sử dụng lại vô cùng giản dị, gần gũi. Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt, tinh tế. Bài thơ được bao trùm bởi những nỗi buồn nối tiếp nhau không dứt. Đó là tâm trạng của con người đang đứng trên quê hương nhưng quê hương đã không còn. Nhà thơ mong muốn tìm kiếm hơi ấm, dấu vết của con người nhưng cái nhận lại chỉ là dấu vết ngự trị của thiên nhiên mà thôi.
“Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho tập “Lửa thiêng” cũng như phong cách thơ Huy Cận trước Cách Mạng. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Từ nỗi cô đơn, lẻ loi của kiếp người, nhà thơ đã tái hiện nỗi sầu nhân thế và từ đó bộc lộ lòng yêu nước thầm kín của Huy Cận.
Phạm Ngọc Khuê
Lớp 11S3 – Trường THPT Kim Liên, Hà Nội
Từ khóa tìm kiếm:
dàn ý bài Tràng Giang
dàn ý tràng giang
Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Của Nhà Thơ Huy Cận
Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận cần nổi bật được bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng Giang. Đồng thời cần giúp cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang. Và bây giờ là phần phân tích cảm nhận bài thơ Tràng Giang.
Mở bài Tràng Giang
Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả.
Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.
“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này.
Bước vào thế giới của Tràng Giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn. Sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ, thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy ‘điệp điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng ý. “Tràng Giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.
Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không còn thấy những dấu chân trên đường.
Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.
Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được.
Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” (Xuân Diệu), lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả. Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khỏ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân.
Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ.
Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.
Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng Giang được nhân lên mấy lần phủ định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương: “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta – Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo – Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo – Nhịp cầu nối những bờ vui.” (Nhịp cầu nối những bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh Tràng Giang nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.
Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:
Phận bèo bao quản nước sa Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh
Nguyễn Du
Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính là kiếp trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận. Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.
Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:
Lòng quê dờn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiêu tà.và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.
Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà? Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình thế này: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?
Kết luận Tràng Giang
Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận muôn đời.
Hoàng Hà Anh
Phân Tích Nhan Đề Và Lời Đề Từ Bài Thơ Tràng Giang Của Huy Cận
Phân tích nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 1
Huy Cận là nhà thơi tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác theo từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám đối lập với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang” tiêu biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với nhiều nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.
Một số nhan đề có tính chất gợi mở, một số nhan đề khằng định nội dung. Tuy nhiên, sáng tạo theo cách viết nào thì nó cũng bao hàm những dụng ý nghệ thuật riêng. Nhan đề của bài thơ có tên “Tràng giang” với vần “ang’ chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông Hồng rộng lớn mênh mông này. Và hình ảnh cụ thể của dòng “tràng giang” có lẽ là dòng sông Hồng. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả, đồng thời chồng chất những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới nhưng không tìm được con đường đi riêng cho chính mình. Như vậy nhan đề “Tràng giang” đã được làm sáng rõ, với ý nghĩa sâu xa như vậy.
Còn về lời đề từ, không phải bài thơ nào cũng có. Thực ra lời đề từ chính là tiêu điểm thâu tóm nội dung của tác phẩm, nhưng nội dung này chỉ là ở bề chìm, yêu cầu người đọc cần phải đi sâu khai thác mới có thể khám phá ra điều này. Lời đề từ của bài “tràng giang” là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, một câu thơ thốt lên nhưng đầy ẩn ý nội dung và nghệ thuật. Dường như âm điệu chủ đạo của lời đề từ là sự nhẹ nhàng, buồn man mác, buồn len lỏi vào tâm hồn của con người. Với biện pháp đảo trật tự cú pháp “bâng khuâng” lên đầu câu, Huy Cận đã khiến người đọc vướng vào những tâm sự không thể giãi bài, cũng như khó có thể nói ra cùng ai.
Huy Cận muốn mở ra một không gian rộng lớn, mênh mông của dòng sông để đi sâu vào chiều dài, chiều sâu của lòng người. Hẳn đây là một dụng ý nghệ thuật tuyệt vời mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Huy Cận đứng trước sông Hồng nhưng lại nhớ chính con sông này, có chăng là tâm sự đứng trước nhiều con đường, nhiều ngã rẽ nhưng lại không biết chọn con đường đi nào trọn vẹn nhất.
Với nhan đề và lời đề từ đầy ý nghĩa như thế nào, bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã có sức ám ảnh lớn đối với người đọc.
Phân tích nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 2
Trong bài thơ Mai Sau” in trong tập thơ Riêng chung” nhà thơ Huy Cận đã tự bạch lòng mình:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm…
Nỗi nhớ thương không biết đã nguôi chưa?
Hay lòng chàng cứ tủi nắng, sầu mưa
Cùng đất nước mà lặng buồn sông núi?”.
Thơ Huy Cận trước cách mạng rất buồn, vì vậy ông thường tìm đến thiên nhiên để:
Vui chung vũ trụ nguôi sầu trần gian”.
Xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn văn chương Việt Nam năm 1940 với tập thơ Lửa thiêng”. Khi tập thơ xuất hiện ta bắt gặp một giọng thơ buồn ảo não của:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”.
Linh hồn của tập thơ Lửa thiêng” chính là bài thơ Tràng Giang”. Như cái tên của nó, bài thơ là một dòng sông dài. Đó là một dòng sông tâm trạng để Huy Cận gửi gắm cái tôi” của một thời thơ mới. Đồng thời Tràng Giang” là bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước một cách thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại thi ca nói chung. Nhờ đó mà Xuân Diệu nhận định: Tràng Giang là bài thơ cuối cùng dọn lòng đến với giang sơn Tổ quốc”. Toàn bộ vẻ đẹp ấy kết tinh ngay ở nhan đề cũng như lời đề từ của bài thơ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”.
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều dài đó là từ Tràng” và từ Trường”. Ở đay nhà thơ Huy Cận không viết là Tường Giang” mà lại viết là Tràng Giang”. Như vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng Tiếng Việt. Bởi chữ Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ Tràng” với âm vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông. Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều: sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan đề Tràng Giang”đã phần nào bộc lộ được sở trường và phong cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi bước đi của không gian.
Lời đề từ: Bìa thơ Tràng Giang có lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề từ. Lời đề từ không phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ thuật. Trái lại lời đề từ là một xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật. Nó cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám phá nội dung của thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà tác giả mượn lời của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm Nước mắt” khi ông mượn lời của nhà văn Pháp Francois Coppée, ông viết:
Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có thể kể đến lời đề từ của Chế Lan Viên trong bài thơ Tiếng Hát Con Tàu”:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây dựng trong bài thơ. Lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên trước mắt người đọc hai thi liệu chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều này được kết tinh trong hai câu thơ được xem là trung tâm của bài thơ Tràng Giang”:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ lên hình ảnh dòng sông dài, mênh mông, dợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. Tràng Giang” là bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu vào trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết:
Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước Là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu”.
Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung. Đó là những con người: Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương” (nói như Nguyễn Tuân).
Còn Chế Lan Viên viết:
Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”.
Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của Hoài Thanh, Hoài Chân trong Một thời đại trong thi ca” để kết thúc bài viết của mình:
Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Phân tích nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Bài làm 3
Bài thơ “Tràng giang” được gợi tứ từ cảnh sông Hồng vào một buổi chiều thu 1939. Theo lời tâm sự của Huy Cận: Hồi đó ông theo học ở trường canh nông Hà Nội, lại phải sống trong cảnh xa quê và sẵn mang trong lòng nỗi cô đơn. Cho nên vào một buổi chiều thu khi tác giả đứng ở bờ Nam bên Chèm nhìn cảnh sông Hồng, mênh mang sông nước, bốn bờ vắng lặng bao la nghĩ về kiếp người nổi trôi nhỏ bé, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng như đang được trải ra như những lớp sóng và Huy Cận đã viết “Tràng giang”.
Lúc đầu bài thơ có tựa đề “Chiều thu trên sông” và được phác thảo dưới dạng thơ lục bát sau 17 lần trăn trở, lao động nghệ thuật miệt mài “Tràng giang mới có nhan đề và hình thức như hôm nay. Nó được in trong tập “Lửa thiêng” năm 1940 và trở thành thi phẩm xuất sắc của Thơ mới.
Không phải ngẫu nhiên Huy Cận đặt tên cho bài thơ là “Tràng giang” mà đây vốn là từ Hán Việt được biến âm từ hai chữ “Trường giang” (sông dài), Huy Cận không có ý miêu tả một con sông với chiều dài theo dòng thuỷ triều mà muốn gợi lên một dòng sông mênh mang, vô tận, một dòng song mang ý vị cổ kính như từ thời tiền sử chảy về – con sông của lịch sử – thi ca – văn hoá. Mặt khác, sự lựa chọn này còn tạo lên sự giao thao đồng điệu với tâm hồn cô đơn của thi sĩ trước cảnh trời nước mênh mang bởi sự lặp lại của âm “ang” gợi cảm giác dòng sông không chỉ dài mà còn mênh mông bát ngát. Như vậy, nhan đề của thi phẩm đã bộc lộ cảm hứng chủ đạo của tác giả.
Đề từ trong bài thơ này không phải là thứ trang sức nghệ thuật mà nó thường là điểm tựa cho cảm hứng cho ý tưởng của tác giả trong tác phẩm. Bài thơ có lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, câu đề từ như thêm lần nữa vén bức rèm bước qua hành lang mở thông vào cõi vô biên. Với câu đề từ tác giả như muốn mách bảo: con người bâng khuâng, nhung nhớ trước trời rộng, sông dài và cũng là trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài. Cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa giữa hai nghĩa ấy. Nói như lời của tác giả: “Bài thơ tưởng là cảnh nhưng thực sự là tả tâm hồn”, ở đó tình cảm giao hoà vì một từ dòng sông cụ thể, Huy Cận suy nghĩ về dòng sông “Tràng giang’ của cuộc đời, từ nỗi buồn riêng của mình nhà thơ suy nghĩ về thân phận bơ vơ của kiếp người.
12 Kết Bài Tràng Giang Của Huy Cận
Để viết tốt Kết bài tràng giang của Huy Cận, nay chúng tôi xin gửi tới bạn 12 mở bài xuất sắc được trích từ những bài ngữ văn mẫu đạt điểm cao. Mời bạn tham khảo
Kết bài 1.
Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.
Kết bài 2.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Kết bài 3.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Kết bài 4.
Bài thơ “tràng giang” là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “tràng giang” của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Kết bài 5.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao trùm không gian ấy là một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.
Kết bài 6.
Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết đạt được bao nhiêu lâu nữa.
Kết bài 7.
Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Kết bài 8.
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Từ những lời văn phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, chúng ta có thể thấy được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Kết bài 9.
Sau khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của “cái tôi” trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Kết bài 10.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.
Kết bài 11.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.
Kết bài 12.
Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông. Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” – tác giả cũng không nói rõ với người đọc.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Của Huy Cận (Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!