Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương Hay Nhất # Top 11 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương Hay Nhất # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương Hay Nhất được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương

Bài làm

Trần Tế Xương là một vị tú tài nổi tiếng ở đất thành Nam. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ và để lại nhiều ấn tượng đối với những người yêu thơ. Bài thơ Thương Vợ là một trong những sáng tác hay nhất của ông. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu sắc của Tú Xương dành cho người vợ của mình.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh bà Tú vất vả nuôi con:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Từ “quanh năm” ở đầu câu thơ không chỉ mang ý nghĩa là thời gian kéo dài, năm này qua năm khác mà còn để gợi lên hình ảnh bà Tú đầu tắt mặt tối đi làm kiếm tiền để nuôi con. Công việc của bà chính là buôn bán, một công việc hết sức nặng nhọc và nhất là lại diễn ra quanh năm, không lúc nào được ngơi tay. Thêm vào đó, không chỉ nặng nhọc mà còn có sự nguy hiểm. Ông Tú không đùng từ “ven sông” mà lại là “mom sông”. Như ta đã biết thì “mom sông” chỉ là một khoảng đất nhỏ chìa ra lòng sông và đó là khoảng không gian chật hẹp hơn với ba bề là mặt nước. Có thể thấy đó là địa điểm chất chứa những mối nguy hiểm nhất định. Bà Tú phải đi làm quần quật quanh năm, phải chấp nhận những sóng gió, hiểm nguy chính bởi vì để có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Thân cò ở đây tượng trưng cho bà Tú nói riêng và những người phụ nữ trong gia đình nói chung. Từ hình ảnh “Con cò lặn lội bờ ao” trở thành “lặn lội thân cò” như càng tô đậm thêm sự gian truân, ngược xuôi kiếm sống. Nhất là “thân cò” ấy vốn nhỏ bé nhưng lại kiếm sống không phải cho riêng bản thân mình mà còn cho “năm con với một chồng”. Câu thơ thứ ba nói về nơi vắng vẻ có thân cò lặn lội còn ở ngay câu dưới thì lại có sự đối lập. Từ “eo sèo” khiến cho ta liên tưởng đến trong công việc buôn bán của bà Tú có những người kỳ kèo mặc cả, cãi cọ nhau. Buổi đò đông còn

Với lời thơ nhẹ nhàng nhưng lại chứa đựng tình cảm chân thành, thiết tha của nhà thơ. Ông Tú càng thêm trân trọng bà Tú và thấu hiểu nỗi vất vả của bà để thay vợ nói lên lời tâm sự:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhà thơ đã sáng tạo từ “duyên nợ” thành “một duyên hai nợ” với ý nghĩa sâu sắc khi muốn nói rằng duyên số vợ chồng đến với nhau, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Tuy nhiên bà Tú lại không hề than thân, trách phận mà vẫn tần tảo nắng mưa. Chính sự nhẫn nhịn, chịu đựng đó khiến ông thấy được vợ của mình là một người rất nhân hậu và giàu đức hi sinh. Qua đó cũng phần nào cho thấy sự tự trách về việc không làm tròn trách nhiệm của người chồng, người cha của ông Tú. Thậm chí ở ngay hai câu thơ cuối ông đã tự dằn vặt mình, tự chửi chính bản thân mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Không chỉ chửi anh chồng vô tích sự là mình mà còn chửi luôn cả cái thói đời bạc bẽo sản sinh ra loại chồng vô tích sự, ăn hại như ông. Tú Xương càng thấy vợ khổ cực bao nhiêu thì lại càng thấy mình ăn ở “bạc” bấy nhiêu. Câu thơ nhưng lời lên tiếng chửi mát tất cả những đấng mày râu đã và đang làm khổ vợ con mình, chẳng những không giúp được gì cho vợ mà còn để vợ nuôi mình. Đó cũng là tình cảnh phổ biến trong xã hội cũ.

Bài thơ Thương Vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương cảm, thấu hiểu của Tú Xương đối với cuộc đời đầy gian truân, cực nhọc của bà Tú. Hình ảnh bà Tú hiện lên trong lời thơ của ông là biểu tượng cho những người phụ nữ Việt Nam với biết bao những phẩm chất tốt đẹp.

Loan Trương

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tác Giả Tú Xương

Phân tích bài thơ Thương Vợ – Trong thời kỳ phong kiến người phụ nữ thường chịu nhiều thiệt thòi và không được chú ý nhiều. Một người phụ nữ sống trong thời kỳ phong kiến thường phải đeo nhiều xiềng xích bởi những lễ giáo. Người phụ nữ khi lấy chồng thì phải theo chồng, luôn phải tuân thủ tam tòng tứ đức những điều giáo lễ. Những người phụ nữ phong kiến phải chịu những nỗi đau về tinh thần và thể xác bởi trong quan điểm suy nghĩ của những nhà nho thời xưa luôn chỉ coi trọng người đàn ông và xem thường người phụ nữ. Trong suốt một chiều dài phát triển của nước ta chế độ phong kiến kéo dài đã làm ảnh hưởng rất nhiều tới suy nghĩ và lối sống của những con người trong giai đoạn đó,

Bài thơ “Thương Vợ” của nhà thơ Tú Xương là một trong những bài thơ ít ỏi hiếm hoi được viết để thương vợ, thương số phận của người phụ nữ phong kiến. Trong thơ ca cũng có nhiều tác phẩm xót thương cho thân phận người phụ nữ như Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm… nhưng chưa có bài thơ nào thể hiện nỗi lòng thương vợ như Tú Xương đã viết tặng vợ mình. Trong bài thơ của mình Tú Xương đã xây dựng một người phụ nữ vô cùng đảm đang, chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Khi một người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng lại là trụ cột gia đình nuôi đủ năm con và một người chồng mải lo đèn sách. Ngay từ những câu thơ đầu tiên của bài thơ tác giả đã nói lên sự vất vả cực nhọc của bà Tú

Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng

Sự khổ cực vất vả mà bà Tú phải gánh chịu vô cùng rõ ràng, một người vợ phải làm công việc buôn thúng bán bưng suốt ngày làm công việc của mình lo kế sinh nhai của cả gia đình. Từ mon sông gợi lên cho chúng ta về sự chênh vênh, một chút gì đó không an toàn bền vững, một sự so sánh tạo nên việc đặc biệt của một câu thơ vô cùng độc đáo thể hiện được sự vất vả của người phụ nữ. Đáng ra ông Tú mới chính là người trụ cột của gia đình. Ông phải là người lo lắng cho vợ của mình, cho các con của mình nhưng ông lại lo đèn sách công danh nên mọi việc trong ngoài đều một tay bà Tú gánh vác. Người phụ nữ xưa được ví như những hạt mưa khi rơi vào giếng thì hạnh phúc, chẳng may có ra ngoài đồng chịu cuộc sống nắng mưa khổ cực cũng phải ngậm cười chẳng thể nào dám kêu ca, hay phàn nàn gì được. Ông Tú hiểu được nỗi khổ cực của vợ mình nên ông đã viết bài thơ này để chia sẻ với vợ những đau khổ vất vả trong cuộc sống.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Hình ảnh bà Tú được chồng của mình ví như một cánh cò nhỏ bé mong manh, cô đơn một thân một mình lúc thì rạng sáng khi thì sẩm tối. Một mình thân cò gầy guộc với đôi quang gánh của mình buôn thúng bán bưng để lo lắng cho những người thân trong gia đình của mình có một cuộc sống bình thường, no đủ. Mọi kế sinh nhai đều dồn lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ nhỏ bé đó. Dù bà Tú chưa bao giờ kêu than chưa bao giờ dám oán trách chồng của mình. Bà vẫn luôn hài lòng hạnh phúc với cuộc sống hiện tại nhưng tự bản thân ông Tú lại cảm thấy có lỗi với vợ của mình, bởi đáng lẽ ra mọi việc trong gia đình lo toan mưu sinh phải do ông Tú gánh vác, bởi ông chính là người trụ cột, là người chồng người cha nhưng ông Tú lại không làm tròn trách nhiệm của mình nên ông có chút hối lỗi, ăn năn với vợ của mình.

Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công

Trong hai câu thơ này thể hiện được một bức chân dung của người phụ nữ vô cùng đảm đang, chịu thương chịu khó. Một người phụ nữ làm tất cả chỉ vì gia đình thân yêu của mình vì những người thân ruột thịt. Bà Tú luôn mong muốn mang lại hạnh phúc cho gia đình của mình, nên bà có làm gì cũng không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, không quản ngại khó khăn mưa nắng. Một sự hy sinh thầm lặng nhưng vô cùng đáng để trân trọng hiểu được nỗi khổ của người phụ nữ đi bên đời mình nên ông Tú đã viết bài thơ “Thương vợ” nhằm nói hộ tiếng lòng của mình, nói lên sự tôn trọng biết ơn của ông Tú dành cho người vợ tào kha. Dù bà Tú chưa bao giờ dám kêu ca, hay phàn nàn gì khi cuộc sống quá nhiều khó khăn nhưng ông Tú vẫn hiểu nỗi vất vả của bà. Và chính ông đã nói ra hộ bà những sự vất vả khó khăn đó, từng lời thơ như một lời than thở dằn rặt của một ông chồng vì mải lo đèn sách nên đã không chăm sóc vợ con chu đáo để vợ của mình phải chịu nhều thiệt thòi

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không

Hai câu thơ kết thể hiện được sự oán trách chính mình của nhà thơ. Một lời tự phê phán của bản thân khi đã để vợ mình phải chịu nhiều vất vả. Nó cũng chính là tiếng chửi của tác giả dành cho những ông chồng vô tâm, không quan tâm tới những người phụ nữ sống quanh mình để cho vợ mình phải vất vả cực nhọc với cuộc sống. Bài thơ “Thương vợ” kết thúc với những câu thơ dí dỏm của tác giả Tú Xương nhưng thể hiện được tâm tư tình cảm của ông dành cho vợ mình. Một người chông luôn quan tâm luôn đồng cảm với vợ như Tú Xương chắc chắn không phải là người chồng hờ hững ăn ở bạc. Nhưng tác giả vẫn tự trách mình để thể hiện rõ thành ý và nỗi lòng của mình dành cho vợ.

Bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương với lời thơ giản dị, chân thành, mộc mạc nhưng lại có sức lay động lớn tới trái tim người đọc. Những lời thơ chính là những lời nhắc nhở của ông dành cho những người chồng ham chơi ham vui không biết quan tâm tới nỗi khổ của người phụ nữ, người vợ sống bên cạnh mình.

Thủy Tiên

Soạn Bài Thương Vợ Của Tú Xương Ngắn Gọn Nhất

Soạn bài Thương vợ không còn “khó nhằn” nếu chúng ta đọc kĩ văn bản thơ cùng với những kiến thức đã có (ngôn ngữ, đọc hiểu và làm văn) cùng với kĩ năng soạn bài được trau dồi từ việc các bài học trước và nhất là khi ta đã có trợ thủ đắc lực là Kiến Guru.

I. Hướng dẫn soạn bài Thương vợ về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả:

Đầu tiên trong việc soạn văn Thương vợ, Nhà Kiến xin được dành vài dòng để giới thiệu về tác giả Tú Xương (1890 – 1907). Tên thật là Trần Tế Xương và ban đầu, ông được thân phụ đặt một tên rất ấn tượng là Trần Duy Uyên.

Quê ông ở Nam Định – một trong những vùng đất mà nhiều trang anh tài xuất thân, cụ thể là ở làng Vị Xuyên, phố Hàng Nâu, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định).

Tú Xương sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học cùng với tố chất thông minh có sẵn, Tú Xương luôn khiến gia đình hãnh diện ngay từ khi còn bé vì sự đối đáp linh hoạt với mọi người về kiến thức Hán học của mình.

Tú Xương sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng là cuộc đời của một trí thức nghệ sĩ vì được gia đình tạo cơ hội cho chuyên tâm vào công việc sách vở mặc dù gia đình ông không mấy khá giả, thậm chí về sau còn xảy ra khá nhiều biến cố. Sau này khi lập gia đình, mọi chi tiêu trong nhà đều phải trông cậy vào sự lo liệu của bà Tú.

Hơn nữa, Tú Xương rất tâm huyết với con đường khoa bảng nhưng lại không được “thuận buồm xuôi gió”. Nói như thế là bởi vì qua rất nhiều lần thi cử, Trần Tế Xương chỉ đỗ đạt ở bậc tú tài. Thơ ông cũng có bài than phiền vì nỗi buồn đó.

2. Bài thơ Thương vợ:

Khi soạn Thương vợ, ngoài việc khái quát lại một số nét chính về tác giả, một thao tác nữa mà page Kiến guru luôn mong muốn các bạn chú ý là giới thiệu sơ lược về tác phẩm. Bài thơ được viết dựa trên sự cảm kích của Tú Xương dành cho người vợ của mình vì sự tần tảo, chu đáo của bà trong việc vun vén, gánh vác kinh tế gia đình. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. 

Phân tích bài thương vợ hay nhất

Cảm nhận về bài thơ thương vợ (thường xuất hiện trong kiểm tra)

Soạn bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

II. Hướng dẫn soạn bài Thương vợ qua gợi ý trả lời câu hỏi SGK

1. Câu 1:

Trong bốn câu thơ đầu, hình ảnh bà Tú hiện lên thật rõ nét. Ở mỗi cặp câu, người đọc lại có thể thấy một điều đặc biệt ở người phụ nữ ấy.

Hai câu thơ đầu đã giúp chúng ta hình dung chút ít về công việc của bà Tú. Đó là công việc “buôn bán” dài đằng đẵng hết năm này đến năm khác tại “mom sông” – một nơi gợi lên biết bao nhiêu sự cheo leo, bấp bênh.

Công việc ấy, trong khoảng thời gian ấy và tại địa điểm ấy giúp người đọc cảm nhận được sự lam lũ, nhọc nhằn của bà Tú khi phải bươn chải kiếm sống. Đến cặp câu thứ hai, cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú được đặc tả rõ ràng hơn.

Cụm từ đảo ngữ “lặn lội” vốn đã gợi ra sự vất vả và khi đặt trong tổ hợp “lặn lội thân cò” lại càng có tác dụng tô đậm hơn thân phận cơ cực của bà. Không gian làm việc của bà cũng được thể hiện rõ ràng hơn qua các hình ảnh “quãng vắng”, “đò đông”. (Đây là một phần quan trọng trong việc soạn bài thương vợ).

Đó đều những hình ảnh mở ra một không gian khiến con người không tránh khỏi những âu lo, suy nghĩ. Đặc biệt từ “eo sèo” đã tái hiện rất tốt cảnh chen chúc, ngột ngạt của những người làm công việc buôn bán nhỏ bên sông như bà Tú. 

Như vậy, cả bốn câu thơ đã giúp cho Tú Xương vẽ nên một bức tranh mà nhân vật chính là người vợ thân thương của ông. Trong bức tranh ấy, bà Tú hiện diện với công việc vất vả và một thân phận gian truân, nhưng hơn hết, điều ta cảm nhận rõ nhất hẳn sẽ là tấm lòng xót thương mà Tú Xương dành cho bà.

2. Câu 2:

Khi soạn Thương vợ, không khó để tìm ra những câu thơ trong bài thể hiện đức tính cao đẹp của bà Tú.

Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” đã gọi tên cụ thể những trách nhiệm mà bà phải đảm đương, trong câu thơ này, Tú Xương tự đặt mình lên bàn cân và mà phía bên kia là những đứa con. Ông tự xem mình là một gánh nặng khiến cho vợ thêm phần vất vả.Một câu thơ khác trong bài cũng gợi nên vẻ đẹp của bà Tú là “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Những hình ảnh trong câu thơ đã giúp người đọc nghĩ ngay đến tính chăm chỉ làm ăn không màng đến khó khăn, gian khổ của bà Tú nói riêng và những người vợ, người mẹ của Việt Nam nói chung.

“Một duyên hai nợ âu đành phận” như một lời bộc bạch của bà Tú. Khi nhận về mình trách nhiệm nuôi con cái và lo cho chồng, bà không hề than trách hay oán giận chồng con. Những điều bà làm là do bà nhận về phía mình và với bà, đó là “duyên nợ”. Vì thế bà chấp nhận gánh vác hết mọi khổ cực vì chồng, vì con.

Việc chỉ ra những câu thơ nói trên là cơ sở vững chắc tôn lên vẻ đẹp của bà Tú. Đồng thời giúp cho việc soạn văn Thương vợ nói chung trở nên chặt chẽ, thuyết phục hơn với bất kì một lí lẽ, kết luận nào.

3. Câu 3:

Khi soạn văn 11 Thương vợ, cần chú ý đặc biệt hai câu thơ cuối, đây chính là lời của tác giả:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không

Lời ấy như một tiếng chửi mạnh mẽ của Tú Xương. Trên bề mặt, đó là tiếng chửi xã hội nói chung, chửi “thói đời”, cuộc sống cơ cực, bần hàn khiến bà Tú vì thế mà phải chịu nhiều gian truân, khổ cực.

Và hơn hết, ẩn sau trong đó, tác giả cũng gửi vào lời chửi chính bản thân mình là người vô tích sự, kẻ ăn bám “có như không” khiến đôi vai của vợ mình thêm oằn xuống vì gánh nặng.

Thế nhưng, có một điều mà người đọc có thể cảm nhận được rõ rệt đó là đằng sau tiếng chửi mạnh mẽ ấy chính là một niềm cảm phục, một tình thương sâu sắc và chân thành mà Tú Xương dành cho người vợ yêu quý.

4. Câu 4:

Có thể thấy, tình cảm, nỗi lòng thương vợ của Trần Tế Xương dù được viết thành cả bài thơ nhưng cách thể hiện lại hết sức bình dị chứ không hề cầu kì, hoa mĩ.

Điều đó cũng được thể hiện ngay từ nhan đề của bài thơ: “Thương vợ” chính là cách bày tỏ trực tiếp nỗi lòng với vợ. Dù Tú Xương luôn có ý cho mình là một gánh nặng nhưng thật ra khi ông thấu hiểu sự tần tảo, nỗi vất vả của vợ mình cũng đã phần nào cho thấy nhân cách cao đẹp và lòng tự trọng của một bậc Nho học.

Soạn văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất

Phân tích văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Tâm Sự Của Tú Xương Qua Bài Thơ Thương Vợ

Đề bài: Tâm sự của Tú Xương qua bài thơ Thương vợ

Thơ văn Việt nam xưa và nay có những bài thơ thương vợ, khóc vợ rất cảm động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức khóc một bà phi có câu:

“Đập vỡ gương ra tìm thấy

Xếp tàn y lại để dành hơi”.

Nỗi nhớ nhung đau đớn, dữ dội ấy còn được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyến Thượng Hiền, Nguyến Khuyến thể hiện cảm động trong bài văn tế, câu đối khóc vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào… trước tấm lòng, đức hi sinh của vợ bằng giọng văn vừa có chút tính nghịch, vừa rất cảm động; giữa sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình Tú Xương đã làm “giàu” thêm đề tài viết về bà Tú và kịp góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam một bài thơ về tình cảm thương vợ hay và sâu sắc.

“Thương vợ” là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu của bài thơ đã nêu bật lên được vai trò trụ cột gia đình của bà:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn sâu sắc công lao của bà Tú. Có thời gian cụ thể: “quanh năm”; không gian cụ thể: “mom sông” càng làm nổi bật lên sự lam lũ, vất vả quần quật của bà Tú. Nơi buôn bán để kiếm miếng cơm manh áo của bà Tú là “mom sông”- là một chỗ đất nơi ra ở bờ sông, nơi ít người qua lại, sóng nước gập ghềnh gợi sự cheo leo, chênh vênh, nhiều bất trắc. Thế nhưng “quanh năm” nghĩa là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác như một vòng tuần hoàn khép kín, dù ngày nắng hay mưa,ốm đau hay khỏe mạnh bà Tú lại quẩy quang gánh ra nơi “mom sông” ấy để buôn bán. Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chươn, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn đối với bà Tú về mặt thời gian lao dộng. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà Tú là nhịp độ làm việc không ngừng nghỉ tai một nơi làm ăn, buôn bán khó khăn nhưng không phải chỉ để nuôi thân mà “Nuôi đủ năm con với một chồng’. Đâu còn thấy hình ảnh:

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”.

Mà trái lại đó là loại chồng: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Người chồng là trụ cột của gia đình, gánh vác việc nặng nhọc để cưu mang cuộc sống cho vợ con vậy mà ở đây, trong câu thơ này ông Tú cảm thấy mình như một người “thừa”, một kẻ vô dụng và như một “thứ con” đặc biệt để bà Tú pahỉ nuôi riêng. Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít. Toát lên qua hai câu thơ là một niềm htơng cảm của ông Tú dành cho vợ trước đức hi sinh, tần tảo của bà; đồng thời là một lời tự trách mình vì thân làm chồng mà để vợ gánh vác việc gia đình đồng thời còn thấp thoáng niềm tự hào về vợ của mình khi làm lụng vất vả để “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Mặc dù, đó là một ông chồng không phải nhưng bằng lối văn dí dỏm, tình cảm chân thành, nhận ra được sự vất vả của vợ, tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng nên người đọc không hề trách mà ngược lại có chút thông cảm đối với “ông chồng’ này.

Tình thương vợ được thể hiện trọn ven trong hai câu thơ 3, 4:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Hai câu thơ gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp cuat bà Tú. Chẳng hay, ông Tú đã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bào giờ? Qua tiếng ru con cua một bà mẹ láng giềng hay chính trong lời ru của bà cụ Nhuận đã đi vào tiềm thức của tế Xương? Chắc chắn từ “con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa, thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đén bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cacnhs bay vèo thi hứng “Thương vợ” của Tú Xương. Phép đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng khắc họa rõ nét nỗi khổ cực, đức hi sin, sự chịu đựng của bà Tú. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng “lặn lội”. Ca dao nói “con cò”, Tú Xương nói “thân cò”. Ý thơ cổ như xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân cò” gợi thân phận lẻ loi, yếu ớt, cô đơn và nó lại càng cô quạng, lạc lõng hơ khi đi cùng với từ “eo sèo”- một sự mặc cả, nhỏ nhoi, cô đơn, tội nhgiệp. Vì “năm con với một chồng”, vì “miếng cơm manh áo” mà bà Tú phải chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi đến quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Từ đó càng làm nổi bật tấm lòng “thương vợ” của Tú Xương và qua đó ông tỏ ra thấu hiểu hết những vất vả của bà Tú:

“Một duyên, hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”.

Câu thơ như nói lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai, thôi đành chịu theo số phận, không giám nề hà, không kể công gì nữa. Nhưng câu thơ còn làm nhứ đến câu ca dao:

“Một duyên, hai nợ, ba tình,

Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”.

Ngoài cái duyên, cái nợ còn có cái tình; cái tình nghĩa vợ chồng của bà Tú dành cho chồng mình. Thành ra nói “nợ” mà thực ra là nói “tình”, mà đã là tình thì ai lại kể công. Số từ tăng tiến: “một”, “hai”, “năm”, “mười” càng dồn nén sự chịu đựng của bà Tú, càng làm trào dâng lên nỗi niềm xót thương, cảm thông trước sự hi sinh vất vả, tảo tần của bà Tú.

Bài thơ kết bằng một cấu chửi- một câu chửi yêu:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”.

Nhìn cuôck đời bà Tú như vậy có chửi cũng là lẽ tất yếu. Nhưng ở đây ai chửi? chửi ai? Và chửi cái gì? Thì cũng chỉ là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Ông Tú đã tự chửi mát mình về cái thói “ăn ở bạc”, cái tội “làm chồng mà hờ hững cùng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ, nghìn cực như thế. Hai câu kết khép lại bài thơ vừa như là một lời chửi, vừa như là một lời than. Nhà thơ tự phán xét chính mình, tự trách mình và tha cho hoàn cảnh của vợ. Câu thơ cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của bà Tú là do “thói đời” bạc bẽo. “Thói đời” bạc bẽo đã biến ông Tú trở thành kẻ vô tích sự, chính vì thế ông trở thành gánh nặng cho vợ. Lời chửi vừa thể hiện nỗi niềm tâm sự cay đắng ch hoàn cảnh của ông Tú, vừa thể hiện nỗi xót thương, ngậm ngùi của ông Tú đối với vợ.

Bài thơ đã dựng lên hai bức chân dung: ông Tú và bà Tú. Bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp phía sau. Vượt lên trên tất cả là tấm lobngf yêu thương, quí trọng và tri ân của ông Tú đối với người vợ tần tảo. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng bình phẩm về bài thơ “Thương vợ” rằng: ” Thơ hay, hay ở ý tình; hay ở chữ, tiếng, hay ở sự việc; hay ở nhạc điệu: lặn lộ, eo sèo, thân cò, mặt nước, quãng vắng, đò đông, mỗi chữ đều tình cảm”. Qua đó, tấm lòng yêu thương, trân trọng cũng như những trăn trở, day dắt đã tạo nên nhân cách cao đẹp của Tú Xương, một con người dám sòng phẳng với bản thân, tự nhận ra thiếu sót của mình và không trút bỏ trách nhiệm.

Từ khóa tìm kiếm:

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Tú Xương Hay Nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!