Xu Hướng 12/2023 # Phân Tích Bài Thơ ” Thương Vợ” Của Tú Xương # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ ” Thương Vợ” Của Tú Xương được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Phân tích bài thơ ” Thương vợ” của Tú Xương.

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu nặng.

“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn vấy quai cồng, tất tảchân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người đàn bà:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác , không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai con, “đếm” chồng(!) Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”,

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân Cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cờ”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sông ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Thương vợ'” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ của mình

“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng'” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồi, nước mắt giữa thời buổi khổ khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

“Một duyên hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng .”Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “tnột…hai…năm..mười…làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”,… “dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đôi, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò nggười chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!

Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ'” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.

Từ khóa tìm kiếm

phân tích bài thơ thương vợ

phân tích thương vợ

phân tích bài thương vợ

phân tích bài thơ thương vợ của trần tế xương

phân tích bài thơ thương vợ của tú xương

thương vợ tú xương

Phân Tích Bài Thơ Sóng

“Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương

Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”

Xuân Quỳnh, giọng nói tha thiết về tình yêu, tiếng của của người phụ nữ với tâm hồn đầy trắc ẩn. Xuân Quỳnh xứng đáng với danh hiệu là bà hoàng thơ tình. Giọng thơ của Xuân Quỳnh khác với tiếng thơ của Xuân Diệu. Cũng nói về tình yêu nhưng với Xuân Quỳnh thì nổi bật với giọng thơ đầy tha thiết, một niềm tin vào tình yêu dù đã trải qua những đổ vỡ. Và điều đó được thể hiện rõ nét qua khổ 5, khổ 6, khổ 7 trong bài thơ sóng.

Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức

Tình yêu của Xuân Quỳnh tha thiết và rạo rực như những con sóng. Xuân Quỳnh điệp cấu trúc “con sóng” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của mình tựa như nhiều con sóng ngoài biển khơi, dù ở bất kì đâu, dù ở bất kì nơi nào. Tiếp đó sử dụng biện pháp tương phản đối lập, đối giữa con sóng lòng sâu với con sóng trên mặt nước, đó là nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian. Con sóng gắn được nhân hóa thể hiện qua “nỗi nhớ” như tấm lòng người thiếu nữ. Đó cũng là một cách Xuân Quỳnh gián tiếp thể hiện nỗi nhớ của em. Nỗi nhớ của em xâm chiếm toàn tâm trí, như tràn ngập giữa không gian và thời gian. Nỗi nhớ như giăng mắc khắp nơi, và em thể hiện trực tiếp nỗi nhớ ấy. Nếu trong thời phong kiến, tình yêu của người phụ nữ thường phải ví von ước lệ, thì cách bộc lộ tình yêu trực tiếp, mạnh bạo này của Xuân Quỳnh là một nét đẹp người phụ nữ hiện đại, cái chất hiện đại trong thơ của bà. Với một trái tim không lúc nào vơi bớt tình yêu, khát khao yêu và được yêu, tình yêu ấy xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ của em, khiến “trpng mơ còn thức” đúng là một cách thể hiện cực kỳ độc đáo. Nếu mới đọc câu thơ, tưởng như thấy một sự vô lý, phi logic trong lời thơ, nhưng cũng một phần bởi sự chi phối của cảm xúc chủ thể, nên câu thơ nghiêng về cảm tính nhiều hơn là lí trí. Đây cũng là một câu thơ nói về tình yêu mới lạ, cả trong mơ em đều mong ngóng và nghĩ về anh. Từng nỗi lo lắng, suy nghĩ em đều dành cho anh, dành cho tình yêu lứa đôi. Nỗi nhớ ấy ăn sâu vào tiềm thức, cả trong mơ hình bóng anh vẫn luôn hiện trong tâm trí và suy nghĩ em. Có người con gái nào khi yêu, trực giác lại không nhạy cảm hơn, điều Xuân Quỳnh diễn tả, âu cũng là một mẫu số chung của những cô gái khi yêu. Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương Vì tình yêu càng lớn, nên trái tim em vô thức cũng nghĩ về anh nhiều hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh, trong mọi hành động, mọi nơi chốn, dù cho không thể gặp được nhau. Đó là một tấm lòng thủy chung son sắc. Điệp từ “dẫu” thể hiện một cách chắc chắn, rằng dù có ở phương trời nào đi chăng nữa, em vẫn sẽ luôn hướng về anh, luôn quan tâm, sẻ chia, chăm sóc và lo lắng cho anh, như một sự chắc chắn sẽ bất chấp hết những khó khăn, thử thách. Người ta vốn thường nói xuôi nam, ngược bắc. Cách nói ngược lại giữa hai nơi nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, khó khăn và thử thách. Từ đó càng khiến ta thấy rõ tấm lòng thủy chung của em dành cho anh. Ta thường nghe về phương bắc, phương nam, co bao giờ nghe đến “phương anh?” Phương anh là ở đâu chẳng biết, nhưng với người con gái khi yêu, em luôn hướng về phương anh, và nơi ấy chính là phương riêng của trái tim em.

Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở

Đây là khổ thơ thể hiện rõ nhất niềm tin của em. Hình ảnh “đại dương” biểu tượng cho cuộc đời. Những con sóng có đại dương rộng lớn, thì cũng giống như em, một mình đối diện với cuộc đời bao la. “Trăm ngàn con sóng đó” như trăm ngàn cuộc đời, kiếp người mong muốn tìm thấy một tình yêu đúng nghĩa. Và em luôn tâm niệm trong trái tim mình một niềm tin bất diệt vào tình yêu. Như Juliet dù gặp khó khăn khi đến với Romeo bởi định kiến dòng họ, nhưng sau cùng, tình yêu đẹp đều tìm đến được với nhau. Và câu thơ “con nào chẳng tới bờ” đã khẳng định niềm tin vào điều đó. Nhờ việc đảo vị trí câu thơ giữa câu ba và câu bốn, khiến ta như càng cảm thấy một chút dự cảm lo âu. Dù có niềm tin mãnh liệt như thế nào, thì em cũng là một người con gái, dù muốn hay không vẫn luôn có những lo âu thấp thỏm về tình yêu. Liệt thật sự những tình yêu đẹp sẽ đến được với nhau dễ dàng?

Đọc bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, ta không thể quên những khổ thơ đầy tha thiết và nói rất hay về tình yêu như vậy. Ba khổ thơ đã góp phần nổi bật tư tưởng cả bài thơ. Và cảm ơn Xuân Quỳnh, người phụ nữ đã cất lên một giọng ca về tình yêu giữa cuộc khánh chiến chống Mĩ đầy ác liệt. Để càng nổi bật sự thủy chung trong hoành cảnh chiến tranh. Cho dù bom đạn có dội xuống, những tình yêu đẹp vẫn mãi trường tồn.

Phân Tích Bài Thơ “Con Cò”

I. Tác giả – Tác phẩm

Tác giả

– Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng lớn lên ở Bình Định.

– Trước Cách mạng tháng Tám, 1945, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập “Điêu tàn” (1937). Với hơn 50 năm sáng tác, có nhiều tìm tòi ở những tập thơ gây được tiếng vang trong công chúa, Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.

– Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Con cò” sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” (1967) của Chế Lan Viên.

b. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

* Giá trị nội dung:

Khai thác hình tượng con cò trong những câu hát ru, bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru trong cuộc đời mỗi con người.

* Giá trị nghệ thuật:

Bài thơ thành công trong việc vận dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy nghĩ sâu xa.

c. Tìm hiểu mạch cảm xúc trữ tình và bố cục của bài thơ

* Mạch cảm xúc trữ tình: được phát triển theo ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò, bắt đầu từ hình ảnh con cò trong ca dao theo lời ru của mẹ đi vào tiềm thức trẻ thơ, rồi đến hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng cho sự nâng niu chăm chút của mẹ dành cho con suốt cuộc đời, và cuối cùng là những cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử và ý nghĩa lời ru qua hình ảnh con cò.

* Bố cục: 3 phần.

Khổ I – hình ảnh con cò qua lời ru đến với mỗi con người thuở thơ ấu, con cò là biểu tượng cho cuộc đời lam lũ của mẹ.

Khổ II – hình ảnh con cò đi vào tiềm thức tuổi thơ trở nên gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường đời.

Khổ III – từ hình ảnh con cò suy nghĩ về lời ru và lòng mẹ, con cò là biểu tượng cho tấm lòng yêu con của mẹ.

II. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò:

Hình tượng con cò bao quát toàn bộ bài thơ được khai thác từ trong ca dao truyền thống và được tác giả phát triển, xây dựng thành ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, và ý nghĩa của lời hát ru trong cuộc đời mỗi con người.

Hình ảnh con cò qua những lời ru hát đầu đến với tuổi ấu thơ:

– Khổ I – là hình ảnh của những người phụ nữ nông dân vất vả, cực nhọc nhưng giàu đức hy sinh và những câu ca dao dùng làm lời hát ru.

Con cò bay lả bay la

Bay từ  Cổng phủ bay ra cánh đồng

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng…

Đây là những cánh cò bay lả bay la dọc theo chiều dài của những cánh đồng lúa xanh tít tắp, bay về những mái nhà tranh bình yên. Hình ảnh con cò gợi cuộc sống xưa cũ từ làng quê đến phố xá, thong thả, bình yên, ít biến động. Cuộc sống ấy là quê hương thân yêu với cánh cò trải rộng. Hình ảnh con cò là nét rất riêng, rất duyên dáng, dịu dàng, đặc trưng cho làng quê Việt Nam. Con cò ấy phải chăng là hồn của quê hương, mà mẹ gửi vào giấc ngủ của đứa con.

– Hình ảnh con cò trong lời ru cảu mẹ còn là “Con cò ăn đêm, con cò xa tổ, cò gặp cành mềm, cò sợ xáo măng”. Đó là hình ảnh cánh cò vất vả, lam lũ trong ca dao:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Hay

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Đó là cánh cò tần toả, là hình ảnh của người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con. Đây không còn là con cò trắng bình yên vô tư lự mà đã trở thành biểu tượng của những người nông dân vất vả, cực chẳng đã, thậm chí còn vất vả hơn khi cò gặp cành mềm.

– Qua những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn tuổi thơ ấu một cách vô tư. Đây chính là sự khởi đầu của con đường đi vào thế giới tâm hồn mỗi con người, của những lời ru, lời ca dao dân ca, qua đó là cả điệu hồn dân tộc. Ở tuổi ấu thơ, đứa trẻ chưa thể hiểu và chưa cần hiểu nội dung ý nghĩa của những lời ru này “Con chưa biết con cò con vạc. Con chưa biết những cành mềm mẹ hát”. Chúng chỉ cần được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận bằng trực giác vô thức tình yêu vô bờ bến và sự che chở của người mẹ: “Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”.

– Nhịp 2 và vẫn đóng mở ngân vang, xen kẽ nhau trong từng dòng thơ kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá và so sánh đã tạp nên vẻ đẹp cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm sâu sắc. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng giấc ngủ say nồng của trẻ thơ.

Hình ảnh con cò đi vào trong tâm hồn trẻ thơ cùng với âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru trở nên gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường đời:

– Từ lời ru của mẹ, con cò bước ra làm quen với đứa con bé bỏng. Thế rồi cò trở thành người bạn thân thiết, gần gũi.

+ Khi còn ở trong nôi “Con ngủ yên thì cò cùng ngủ. Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.

+ Khi con đi học “Mai khôn lớn con theo cò đi học. Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”.

+ Và khi con đã trưởng thành “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ. Trước hiên nhà, và trong hơi mát câu văn”.

– Như vậy, con cò đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết hơn bất cứ người bạn nào. Cánh cò không mệt mỏi bay qua mọi không gian và thời gian, luôn ở bên con từ trong nôi, từ mái trường, từ hiên nhà, từ câu văn. Cánh cò ấy dường như tung tay theo từng ước mơ, khao khát của con. Như vậy, hình ảnh con cò là biểu tượng về lòng mẹ, là sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng, bền bỉ của mẹ và mẹ mong cho con có tâm hồn yêu quê hương.

Hình ảnh con còn là biểu tượng cho tấm lòng yêu con của người mẹ, theo con suốt cuộc đời:

– Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát một quy luật tình cảm có ý nghĩa sâu sắc và bền vững: “Con dù đã lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Câu thơ giàu chất trí tuệ, triết lý. Triết lý của trái tim. Điệp từ “dù”, “vẫn” đã khẳng định tình mẫu tử là bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ yêu con.

– Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết hình tượng con cò trong những lời ru ấy “Một con cò thôi. Con cò mẹ hát. Cũng là cuộc đời. Vỗ cánh qua nôi”. Đúng vậy, chỉ một con cò trong lời ru của mẹ thôi mà ẩn chứa bao bài học, bao ý nghĩa về cuộc đời. Bài học ấy, ý nghĩa ấy đến với con thật nhẹ nhàng sâu lắng, qua âm điệu thiết tha của những lời ru. Không có lời ru, cuộc đời con thiệt thòi, nghèo nàn biết mấy.

2. Nghệ thuật của bài thơ

– Thể thơ tự do nhiều câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ nên cảm xúc được thể hiện một cách linh hoạt.

– Cấu trúc các đoạn thường bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, nhiều chỗ có cấu trúc giống nhau, có chỗ cấu trúc lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu của lời ru.

– Giọng điệu suy ngẫm có cả tính triết lý làm cho bài thơ không chỉ cuốn người đọc vào điệu ru êm ái, mà hướng nhiều hơn vào sự suy ngẫm, phát hiện.

– Sáng tạo hình ảnh thiên về ý nghĩa biểu tượng nhưng cũng rất gần gũi, quen thuộc mà vẫn có khả năng hàm chứa ý nghĩa mới. Hình ảnh con cò được phát triển, mở rộng qua mỗi khổ nhưng vẫn giữ được tính liên kết, thống nhất.

– Bài thơ thành công trong việc vận dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy nghĩ sâu xa.

Phân Tích Bài Thơ Sang Thu

Đề : Phân tích bài thơ Sang thu – Cảm nhận của em về bài thơ sang thu

Mùa thu là mùa chắp cánh cho tâm hồn thi nhân. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác giả viết về mùa thu và cũng có nhiều bài thơ hay. ” Sang thu” của Hữu Thỉnh vẫn có một vị trí đặc biệt vì đây là khúc giao mùa sang thu. Một mùa thu đang vận động hiện lên qua cảm nhận hết sức tinh tế của tác giả.

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Bài thơ sang thu được sáng tác năm bao nhiêu Hoàn cảnh sáng tác bài thơ sang thu

Bài thơ được sáng tác vào gần cuối năm 1977. Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Qua đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết, tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc của nhà thơ. Khổ thơ thứ nhất chính là khúc giao mùa và cảm nhận tinh tế của thi nhân. Mở đầu bài thơ, người đọc đã có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se”

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Ở đây đó chính là bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu. Cái hay và tinh tế nữa đó là, tác giả nhận thấy mùa thu không phải vì bầu trời cao xanh hơn. Hay hoa cúc nở vàng như trong các bài thơ ta thường thấy. Mà ở đây là vì “hương ổi phả vào trong gió se”.

Sự tinh tế của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về.Không chỉ có “hương ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:

“Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về”

Với cách nhân hóa, từ láy “chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của màn sương giống như một nàng Thu yêu kiều đang bước tới gợi sự vận động chậm chạp như làm nũng như ngại ngùng của sương đầu thu. Sương thu giăng mắc chuyển động nhẹ nhàng nơi đường thôn ngõ xóm.Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (hương ổi – vị giác, gió se – xúc giác, sương chùng chình – thị giác) nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. “Hình như” là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng kì thực là tác giả đã tự khẳng định rằng: mùa thu về thật rồi.

Khổ thơ thứ hai thể hiện cảm nhận của nhà thơ trước những thay đổi của thiên nhiên , đất trời lúc sang chúng tôi về, không gian bức tranh màu thu được quan sát ở chiều cao, độ rộng với những cảnh vật cụ thể :

“Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.”

Tác giả dùng biện pháp tu từ nhân hóa “dềnh dàng” miêu tả rất thực và sống động đặc điểm dòng chảy hiền hòa của dòng sông mùa thu. Dòng sông trôi mùa thu gợi cảm giác lững lờ, thanh thản. Đây cũng là nét đặc trưng của dòng hải lưu khi đất trời vào thu. Mùa thu được cảm nhận trong mọi thời điểm.Trong thơ hình ảnh cánh chim trên bầu trời thường gợi nhiều, gợi về dòng thời gian đang vận động. Cánh chim bay vội vã trước khi hoàng hôn về hay cánh chim đang vội vã bay đi tránh cái se lạnh của gió thu.

Cánh chim trời ” vội vã” trong sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn nghệ sĩ luôn tràn đầy cảm xúc trước vạn vật. Tất cả như đang vận động, gắn kết, hài hòa trong đất trời lúc sang thu.Mây trời vốn thay đổi nhanh chóng. Một cơn gió nhẹ đôi khi cũng khiến mây thay hình đổi sắc. Đám mây trong câu thơ là chiếc cầu mềm mại nối từ hạ sang thu. Khoảnh khắc giao mùa được ghi lại vừa mới mẻ, vừa tinh tế. Động từ ” vắt” gợi liên tưởng đám mây như tấm lụa , tấm khăn voan của người thiếu nữ lửng lơ trên bầu trời.

Khổ thơ cuối từ cảm nhận về mùa thu, nhà thơ hướng vào tâm tưởng

” Vẫn còn bao nhiêu nắng. Đã vơi dần cơn mưa. Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”.

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những ngày giao mùa ít đi những cơn mưa ào ạt, bất ngờ.Tác giả đã chọn dùng những từ không lặp lại để diễn tả một ý nghĩa : sự giảm đi về mức độ. Không gay gắt đổ lửa như nắng hạ, nắng thu dìu dịu trong lành.Không sầm sập trút nước như mưa hè, mưa thu lưa thưa. Sấm cũng không rền vang , bất ngờ mà ít đi, nhỏ hơn. Những tiếng sấm bất ngờ gắn với những suy ngẫm về cuộc đời, lẽ sống.

Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa “hàng cây đứng tuổi” vừa tả thực những cây cổ thụ lâu năm. Vừa gợi tả thế giới sang thu của hồn người, đời người. Vẻ điềm tĩnh của cây trước sấm sét phải chăng là ẩn dụ chỉ sự từng trải, chín chắn của con người sau những bão giông. Khi con người đã từng trải thì càng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Bài thơ sang thu của tác giả nào ?

Từ cuối hạ sang thu đất trời có nhiều chuyển biến.Sự chuyển biến này được tác giả gợi lên bằng những cảm nhận tinh tế. Qua những hình ảnh tư ngữ giản dị , giàu sức biểu cảm, gần gũi với cuộc sống.Thơ 5 chữ nhẹ nhàng mà lắng đọng, thấm sâu.Sang thu đã miêu tả cảnh thu thiên nhiên đẹp, tình thu thi nhân thiết tha trìu mến.

Hữu Thỉnh đã dâng tặng cho đời khúc sang thu nhẹ nhàng mà sâu lắng làm phong phú tâm hồn.Bài thơ bé nhỏ xinh xắn nhưng chứa nhiều điều thú vị, bởi vì mỗi chữ, mỗi dòng là một phát hiện mới mẻ. Sang thu đã đánh thức trong lòng người đọc tình yêu thiên nhiên, đất trời, quê hương.

Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng

Phân tích bài thơ ngắm trăng

Hướng dẫn Phân tích bài thơ ngắm trăng:

Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch bài thơ:

“Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.

Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao”

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt

Bài làm

Có lẽ, trong cuộc đời mỗi người, tình cảm gia đình luôn là thứu tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất. Ở đó, ta nhận được sự quan tâm, chăm sóc vfa chở che của ông bà, cha mẹ. Nhà thơ Bằng Việt, với những câu thơ nhẹ nhàng, mộc mạc trong bài “Bếp lửa” đã khơi gợi lên tình cảm bà cháu thân thương, trìu mến để từ đó ngợi ca tình cảm gia đình và cả tình yêu quê hương, đất nước thiết tha.

“Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi nhà thơ đang du học ơr Liên Xô. Sống ở nơi đất khách quê người, ở một đất nước lạnh lẽo, những kí ức tuổi thơ như ùa về trong lòng tác giả. Đó là hình ảnh bếp lửa ấm nồng xua tan đi cái lạnh giá của bông tuyết, là tình bà cháu thiêng liêng tiếp thêm sức mạnh giúp cháu vượt qua tất cả khó khăn, vất vả của cuộc sống.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đậm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Mỗi buổi sáng bà lại thức dậy và nhóm lên một bếp lửa ấm nồng. Ngọn lửa “chờn vờn” trước mắt nhà thơ như chính miền kí ức tuổi thơ đang rạo rực trong tâm tư ông. Bà nhen nhóm ngọn lửa cũng như nhen nhóm trong cháu một tình yêu thương bao la trời biển. Những ngọn lửa rực hồng, ấm áp như sưởi ấm trái tim cháu những ngày thơ bé và cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ về, lòng cháu lại không khỏi nghẹn ngào, rưng rưng. Nhớ về bếp lửa, cháu lại nghĩ về bà với tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc. Cháu thương bà, thương những tháng ngày bà tần tảo, lam lũ để cháu có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bao nắng mưa, bao sương gió cuộc đời bà đã trải qua bằng tất cả tình yêu thương dành cho con, cho cháu. Tất cả kí ức ùa về làm cho tác giả không kiềm được mà phải thốt lên “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng, bếp lửa”. Một từ “ôi” cũng đủ để nói lên tấm ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao. Tuổi thơ của tác giả dường như đã có rất nhiều kí ức đẹp đẽ mà khi lớn lên ông vẫn không thể nào quên.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ đến giờ sống mũi vẫn còn cay

Nhớ về bà, bao nhiêu kỉ niệm của một thời đói khổ, nhọc nhằn lại hiện lên. Những năm tháng ấy, tuy gian nan vất vả nhưng lúc nào cháu cũng có bà ở bên quan tâm, vỗ về. Chỉ mới bốn tuổi, một cậu bé đã quen mùi khói. Những tháng ngày cả dân tộc đang phải gồng mình chống nạn đói, đi đi làm, miếng ăn cũng chẳng đủ, ba gầy đi đến xót xa. Cháu ở với bà, cùng bà gắn bó bên căn bếp nhỏ với những khói rơm cay xè mắt. Khói đã hun đúc và lấp đầy trong khóe mắt, nó làm cháu rưng rưng vì một tuổi thơ khó nhọc, gian khổ. Chẳng biết sống mũi cháu cay là vì khói bếp hay là nó rưng rưng vì đất nước đang phải chịu cảnh lầm than hay cũng bởi vì cảm động và nghẹn ngào trước tình yêu thương và sự chở che mà cháu nhận được từ người bà kính yêu. Một chữ “cay” làm câu thơ như khựng lại, tâm hồn người đọc cũng lắng xuống và ai cũng phải nghĩ về tuổi thơ và gia đình với tình cảm thân thương nhất.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thê!

Tám năm là quãng thời gian dài đằng đẵng. Tám năm cháu ở cùng bà, cùng bà nhóm lên bếp lửa, nhóm lên tình yêu thương vô bờ. Bà đã đem đến cho cháu, một cậu bé hồn nhiên, vô tư sức sống mãnh liệt và tình yêu cháy bỏng ấm nồng như chính hơi ấm của bếp lửa mà hằng ngày cháu với bà vẫn thường nhen nhóm. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà, cùng với tiếng kêu da diết của tu hú. Tiếng tu hú báo hiệu mùa hè, mùa thu hoạch. Nó như là niềm tin, niềm hy vọng một vụ mùa bội thu để nhân dân có thể vượt qua nạn đói kinh hoàng. Tiếng tu hú cứ văng vẳng trên cánh đồng xa như dội về tâm hồn người cháu ở nơi đất khách một nỗi niềm mênh mông, thấm đượm tình cảm thương xót, nghẹn ngào.

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Những năm tháng của tuổi thơ, vì cuộc sống, cha mẹ phải đi công tác xa. Suốt những ngày tháng ấy, bà là người luôn bên cạnh cháu. Bà vừa là mẹ, vừa là bà, vừa là cha yêu thương và chăm sóc cháu. Bà cũng là người thầy dạy cháu học, dạy cháu làm, dạy cháu có ý thức và trách nhiệm hơn với cuộc sống này. Bà là cái nôi nuôi dưỡng cháu nên người. Công ơn của bà không gì có thể kể hết. Bao lo toan, gánh nặng bà đều gánh vác. Nghĩ đến bà, cháu thấy thương, thấy biết ơn vô cùng. Một khổ thơ thật cảm động được viết lên bằng tất cả những tình cảm chân thành xuất phát từ chính trái tim người cháu. Nó làm người đọc nghẹn ngào, rưng rưng.

Giữa chiến tranh loạn lạc, đức hy sinh của bà càng được tô đậm.

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Dù mất mát, gian khổ bà vẫn có thể vượt qua. Bà muốn cháu, muốn con yên tâm mà công tác. Lời dặn của bà giản dị nhưng nó lại là một tình cảm lớn lao. Bà muốn là hậu phương, là chỗ dựa vững chắc cho con, không muốn ai phải lo lắng. Hình ảnh của bà là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam kiên cường, giàu đức hy sinh.

Sau những kí ức của tuổi thơ đang ùa về, tác giả quay trở lại với thực tại.

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

Dù cháu đã trưởng thành, đến với một đất nước văn minh, tiên tiến với những thiết bị hiện đại nhưng tuổi thơ vẫn là miền kí ức mà cháu không thể nào quên. Ngọn lửa hồng mãi là những gì ấm áp và thân thương nhất. Cháu nhớ bếp lửa, nhớ về bà banwhf một tấm lòng thành kính, nâng niu.

Như vậy, với những câu chữ và hình ảnh mộc mạc, thân quen nơi thon quê, Bằng Việt đã gợi lên trong lòng người đọc những tình cảm cao đẹp của bà và cháu để từ đó, ta biết nâng niu, trân trọng hơn đối với quá khứ và những người thân yêu. Bếp lửa mãi luôn là hình ảnh đẹp nhất, thân thương nhất trong mỗi gia đình.

Seen

Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc

I. Bình giảng về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc 1. Nhà thơ Tố Hữu

Xuân Diệu đã từng nhận xét “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Thật vậy! Thơ Tố Hữu là tiếng lòng ngân vang của một lí tưởng cộng sản, của cách mạng, của non sông gấm vóc. Bởi thế, các sáng tác của Tố Hữu như một “cuốn biên niên sử bằng thơ” song hành với những biến cố lịch sử của dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ như thế.

2. Bài thơ Việt Bắc

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh trọng đại, thiêng liêng của đất nước. Tháng 7 năm 1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Trong cuộc chia tay với mảnh đất chiến khu đầy ắp ân tình và kỷ niệm, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để cất lên tiếng ca đằm thắm về đạo lý thủy chung, nghĩa tình của dân tộc.

II. Nội dung bài thơ Việt Bắc 1. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 1

Câu thơ mở đầu đọc lên, ta nghe thấy tâm tình của lời ca dao yêu thương, tình tứ:

“Mình về có nhớ ta chăngTa về ta nhớ hàm răng mình cười”

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm thế mà nay những chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế này bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô “mình-ta” thể hiện sự gần gũi thân thiết của cán bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.

Tuy nhiên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này một cách kỹ càng ta lại nhận ra tình nghĩa cách mạng dạt dào trong thơ Tố Hữu. Việt Bắc là quê hương, là cội nguồn kháng chiến, là nơi che chở cưu mang cho Đảng và chính phủ trong suốt những năm dài chiến đấu gian khổ. Bốn câu thơ đầu vang lên với hai câu hỏi dồn dập như nỗi niềm trăn trở khôn nguôi của người ở lại. Một câu hỏi về thời gian kháng chiến gian lao mà anh dũng, một câu hỏi về không gian xa xôi mà đầy ắp ân tình.

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 2

Mười hai dòng lục bát tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỷ niệm kháng chiến. Hình ảnh mưa nguồn, suối lũ, mây mù gợi về 1 thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt của Việt Bắc trong những cả nước chung sức, chung lòng đấu tranh. Biết bao ân tình của nhân dân Việt Bắc đã dành cho cán bộ cách mạng, vì thế mà người ở lại đã cất lên những câu hỏi da diết cho người ra đi.

Phân tích bài thơ Việt Bắc 20 câu đầu ta mới thấy Tố Hữu đã sử dụng hai hình ảnh đối xứng, “miếng cơm chấm muối” và “”mối thù nặng vai”” để hình dung niềm căm thù quân cướp nước như có hình, có khối đè trĩu trên vai. Hình ảnh nhân hóa “rừng núi nhớ ai” và hai đại từ phiếm chỉ “ai” khiến câu thơ trở nên tình tứ, thiết tha. Mình về miền xuôi, núi rừng cũng trở nên trống vắng, bâng khuâng. Những sản vật quen thuộc của Việt Bắc như trám bùi, măng mai hòa cùng tâm trạng con người để diễn tả thấm thía nỗi cô đơn, hẫng hụt của người ở lại. Không chỉ nhắc lại quá khứ mà tác giả còn khẳng định lòng thủy chung, son sắt. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền” thì các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỷ niệm của một thời kháng chiến.

Mình về còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Câu thơ như nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử “khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này:

Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến 3 từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: cán bộ về xuôi, có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Thay “ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “ta” và “mình” đã hòa vào nhau. Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau.

Ở nghĩa đẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ 1 – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, mà phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 2 ra ta mới thấy được triết lý sâu sắc trong câu thơ này.

Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22/12/1944 khi đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; mái Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách mạng.

Hai câu thơ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách mạng hay không? Khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm, cay đắng, ngọt bùi, đồng thời muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo khổ mà chân tình rộng mở, sắt son thủy chung với Cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy.

3. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 3

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó

“- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Lời thề nguyền vang lên rắn rỏi, cương quyết mà đầy ắp nghĩa tình. Nếu nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn thì ân nghĩa của nhân dân Việt Bắc luôn được người đi khắc cốt ghi tâm. Dù ta có trở về nơi phố phường hoa lệ nhưng một mảnh đời ta đã để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Vì thế, Việt Bắc chính là một phần tâm hồn, một phần máu thịt của ta.

Nỗi nhớ của người ra đi với một loạt những hình ảnh về thiên nhiên Việt Bắc mơ mộng sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 3:

Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Thiên nhiên Việt Bắc vừa đơn sơ, vừa thơ mộng với ánh trăng trên đầu núi, nắng chiều trên nương rẫy. Có thể thấy rằng, nỗi nhớ của người ra đi cứ trải dài mênh mang trong không gian, trải dài triền miên theo thời gian và đi sâu vào tiềm thức của con người. Nỗi nhớ ấy gợi bao yêu thương, chia sẻ:

“Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Sắn bùi, chăn sui là những hình ảnh quen thuộc, bình dị của cuộc sống chiến khu, đi liền về sự sẻ chia, đùm bọc. Dù sau này người đi có thưởng thức những cao lương mĩ vị chốn thành thị nhưng chắc hẳn chẳng thể nào quên củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa trong những ngày tháng gian nan, thiếu thốn. Trong những kỉ niệm về Việt Bắc, cán bộ cách mạng đã dành cho người mẹ nơi đây một tình cảm thật đậm sâu, tha thiết:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ, không quản nắng cháy, mưa sa, mẹ vẫn cặm cụi địu con lên rẫy bẻ ngô nuôi cán bộ. Mẹ chắt chiu, gom góp công sức nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến lớn lao của dân tộc. Bà mẹ Việt Bắc gợi liên tưởng đến bà mẹ Tà Ôi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

4. Phân tích bài thơ Việt Bắc bức tranh tứ bình

Trong hoài niệm về những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc, tác giả đã dành cho cảnh và người nơi đây một nỗi nhớ rất riêng:

Đoạn thơ gồm 10 câu chia làm hai phần. Hai câu thơ đầu tiên như một lối nói đưa đẩy, giao duyên trong ca dao. Giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng, tiếp nối mạch đối đáp giao duyên giã bạn, nhân vật trữ tình “ta” đã đối thoại với “mình”. Câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ làm cho lời thơ vừa là đối thoại nhưng cũng là một gạch nối để “ta” bày tỏ nỗi lòng. Không đợi cho “mình” trả lời, nhân vật “ta” tiếp tục xác định nỗi nhớ của mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa và người là nhớ tới thiên nhiên tươi đẹp của Việt Bắc, nhớ tới những con người Việt Bắc cần cù đã từng cưu mang gắn bó với kháng chiến.

Bức tranh tứ bình hiện ra sau khi ta phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này với màu xanh bát ngát của rừng già. Trên không gian lạnh lẽo, bạt ngàn thăm thẳm ấy là những đuốc lửa đốt lên ấm áp của sắc hoa chuối rừng. Cảnh vật Việt Bắc không còn hoang lạnh mà đẹp như một bức tranh. Sắc đỏ của hoa chuối rừng như thắp lên niềm tin yêu và trở thành điểm nhớ lung linh trong lòng người về xuôi. Giữa vẻ đẹp của sắc màu, hoa lá, hiện lên con người lao động làm chủ núi rừng. Con người đứng hiên ngang trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào dao gài thắt lưng tạo nên một sự phản quang lấp lánh. Câu thơ cho thấy sự khỏe khoắn, vững chãi của người dân Việt Bắc.

5. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ cuối

Liền một mạch thơ là hình ảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, hào hùng, sôi động với hình ảnh những đoàn bộ đội dân công nao nức trên các nẻo đường:

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một. “Ánh sao” để chỉ người chiến sĩ còn “mũ nan” chính là những người dân quân Việt Bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt Bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thảy với sức mạnh giống như là “nát đá”. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Và sau bao nhiêu khổ cực khó khăn, nhân dân ta đã giành được chiến thắng. Tin vui ấy lan rộng khắp từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên…

Khác với những giai điệu tình nghĩa, mượt mà ở đoạn trên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này ta thấy được một bức tranh sử thi hoành tráng, ngợi ca sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và nhân dân anh hùng. Thể thơ lục bát được thể hiện linh hoạt, giọng điệu sôi nổi, dào dạt đã tạo nên một khúc ca anh hùng tràn đầy cảm hứng tự hào về cuộc kháng chiến của dân tộc.

Kết thúc đoạn thơ, một lần nữa nhà thơ khẳng định ý nghĩa của Việt Bắc, chiếc nôi của cách mạng trong suốt chặng đường kháng chiến gian lao. Việt Bắc là nơi chở che, cưu mang, là nơi thắm thiết nghĩa tình. Với thể thơ lục bát uyển chuyển, linh hoạt, giọng điệu tâm tình, sâu lắng, thiết tha, kết cấu đối đáp “mình – ta” ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc ta đã thấy những năm tháng gian lao và anh hùng của dân tộc qua sự đằm thắm, yêu thương. Xuyên suốt những câu thơ của Tố Hữu là câu hỏi hướng về cội nguồn đạo lí. Việt Bắc xứng đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Nguồn: chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ ” Thương Vợ” Của Tú Xương trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!