Xu Hướng 10/2023 # Phân Tích Bài Thơ Cuối Xuân Tức Sự Của Nguyễn Trãi Tài Liệu Học Tập # Top 15 Xem Nhiều | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Phân Tích Bài Thơ Cuối Xuân Tức Sự Của Nguyễn Trãi Tài Liệu Học Tập # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Cuối Xuân Tức Sự Của Nguyễn Trãi Tài Liệu Học Tập được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Phân tích bài thơ Cuôi Xuân Tức Sự của Nguyễn Trãi. Đây là bài văn có hay, chuc các em học tốt,

Nguyễn Trãi không chỉ là một vị quan tài giỏi, có công lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là một nhà văn, nhà thơ, một đại thi hào của dân tộc. Ngoài áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo, nhà thơ lớn này còn là tác giả của hàng trăm bài thơ Quốc âm, thơ chữ Hán đặc sắc. Trong số đó, phải kể đến bài Mộ xuân tức sự nguyên văn bằng chữ Hán.

Bài thơ được nhà thơ Khương Hữu Dụng dịch thành Cuối xuân tự sự như sau:

“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn

Khách tục không ai bén mảng gần

Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan.”

Bài thơ mang tên Cuối xuân tức sự, nghĩa là tả các sự việc xảy ra trước mắt vào một ngày cuối xuân. Nguyễn Trãi viết bài thơ này khi ông đã lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Khi ấy ông đã không được tin dùng, lại bị nghi kị, gièm pha. Không gian trong bài thơ thu hẹp lại nơi phòng văn của tác giả, vắng lặng trọn ngày cửa khép, khách tục không kẻ vãng lai. Phải chăng nơi đây được ví như tiên cảnh, tách biệt hẳn với không khí ồn ào, náo nhiệt bụi bặm của phù hoa trần thế. Trọn ngày nhàn nhã, nhà thơ đang ẩn mình giữa rừng nho biển thánh, đắm mình trong hương sắc tư tưởng đạo đức của cố nhân từ các áng sách xưa lan tỏa.

“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn

Khách tục không ai bén mảng gần”

Lời thơ rất mực nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa ít nhiều chua cay, bực bội và khó chịu, mang theo tâm trạng của nhà thơ. Con người trước nay ham hành động vì nước vì dân như Nguyễn Trãi, bây giờ phải chịu bó rọ giữa phòng văn suốt ngày nhàn nhã. Nhìn cảnh đất nước lầm than, dân chúng khổ sở ông rất đau lòng mà không làm gì được.

Lúc bấy giờ các bậc công thần cũ có lòng yêu nước thương dân như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đã bị gian thần gièm pha hãm hại cả rồi. Triều đình gần như chỉ còn lại một bọn xu nịnh âm mưu kéo bè kết cánh, thực hiện mọi thủ đoạn gian ác để củng cố địa vị của mình. Nhà thơ của chúng ta đã phải lánh xa bọn gian thần tục tử ấy, từ chối mọi gần gũi giao tiếp với họ. Ông chọn cho mình thái độ lánh đục tìm trong để bảo toàn khí tiết, dù phải cam chịu một nỗi cô đơn trong sạch. Thật thanh cao biết bao khi mà nhà thơ cố gắng ẩn mình để tìm sự trong sạch, từ bỏ phú quý giàu sang để không phải sống cùng những kẻ tội đồ xáu xa.

Thật ra trong thâm tâm nhà thơ lớn này, thái độ sống ấy chẳng qua là bất đắc dĩ, cùng đường nên mới phải giam mình như vậy. Tuy phải giam mình trong một phòng văn bé nhỏ, nhưng tâm hồn ông mở ra lồng lộng gió trời. Đóng cửa đấy, nhưng mùa xuân vẫn tràn qua bằng âm thanh của tiếng cuốc khắc khoải, bằng mùi hương của hoa xoan thoảng nhẹ. Cửa đóng mà lòng vẫn giao cảm chan hòa với thiên nhiên bên ngoài:

“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan. Nhà thơ cảm nhận xuân bằng tiếng cuốc và bằng mùi hương vọng vào, ông cảm nhận ra rằng ngoài kia hoa xoan đang nở trong làn mưa bụi rắc nhẹ lay phay. Tiếng cuốc gọi hè ở đây đâu chỉ nhắc nhở cho nhà thơ biết mùa xuân sắp tàn mà phải chăng như còn đem đến cho ông âm vang một hướng vọng về đất nước như một cách cảm nhận của người xưa. Ông đã linh cảm được số phận của đất nước, số phận của nhân dân. Chim cuốc là hóa thân Thục Đế ngày nào bị mất nước, nên còn ôm mãi mối hờn khôn nguôi. Tuy trong phòng văn, nhưng chẳng phút nào nhà thơ không nghĩ đến hoàn cảnh đất nước đang buổi khó khăn. Đôi lúc lại chạnh nghĩ đến cảnh mình tuổi xuân đã muộn. Nỗi day dứt không nguôi trong lòng đã hóa thân thành từng dòng thơ hàm súc mà ta đang phân tích. Đủ thấy, dù trong hoàn cảnh nào, nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được nỗi niềm ái quốc yêu dân của mình.

Bài thơ khép lại với hình ảnh trong làn mưa bụi, hoa xoan hé mở thoảng một mùi hương. Sao lại là hoa xoan, một thứ hoa dân dã quen thuộc của quê hương mà không là hoa huệ, hoa lan ước lệ kiêu sa? Hoa nở dìu dịu trong mưa bụi lay phay thực là gợi cảm như niềm hy vọng hé nở trong lòng người, sau cuộc phong ba. Ta không thể không liên tưởng đến đôi dòng thơ của thiền sư Mãn Giác đời Lý:

“Chớ bảo xuân làn hoa lụi hết

Đêm qua sân trước một nhà mai”

Hay tả đôi câu của cụ Trạng Trình sau này:

“Chín mươi thì kể xuân đã muộn

Xuân ấy qua ngày xuân khắc còn”

Tuy mỗi người một cảnh, nhưng người xưa hầu như lúc nào cũng thắm thiết lòng tin yêu cuộc sống! Có thể xem đó là một bài học lớn cho con cháu ngày sau chăng?

Tóm lại, tuy có nhan đề là Cuối xuân tức sự, nhưng trong bài thơ, đâu phải nhà thơ ghi toàn các sự việc. Rõ ràng là phía sau xuân đã muộn mà hoa xoan vẫn bừng nở đầy xuân kia là tấm lòng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng của một con người có nỗi niềm buồn bực, âu lo trong cô quạnh, nhưng vẫn tin yêu và hy vọng: lòng ưu dân ái quốc mãi mãi vẫn tràn đầy như sức xuân bất chấp cả tuổi tác, thời gian.

Bản dịch của nhà thơ Khương Hữu Dụng giản dị, trong sáng, thể hiện được tính cách và tâm hồn của tác giả. Về tiết tấu, bản dịch đã ít nhiều thoát khỏi khuôn sáo để có được âm điệu nhẹ nhàng, đa dạng. Có thể xem đây là một bài thơ hay, vì nó đã cô đúc được tâm tình và tư tưởng cao quý, thanh bạch của một thi hào thật đáng để cho người đời sau suy nghĩ và học hỏi.

Đứng trước cảnh đất nước lầm than, nhân dân khổ cục nhiều bậc nho sĩ tự giam mình nơi yên tĩnh. Với mong muốn là có thể giúp gĩ cho đất nước. Bài thơ không chỉ có nghệ thuât hay mà nó còn thể hiện khí phách kiên cường hiên ngang của một nho sĩ trước mặt chồng.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Phân Tích Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh Ngữ Văn 12 Tài Liệu Học Tập

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh sinh năm 1942, quê ở làng La Khê nổi tiếng với nghề trồng dâu dệt lụa thuộc huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Xuân Quỳnh yêu đời và ham hoạt động. Chị gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến chống Mĩ đau thương và anh dũng của dân tộc. Chị đi nhiều, viết nhiều, từng có mặt trong những thời gian dài ở tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình và biên giới phía Bắc. Hiện thực sôi động, phong phú thấm sâu vào hồn thơ Xuân Quỳnh. Thơ chị tươi rói sự sống, thấm đượm tình yêu gia đình, bè bạn, con người, cuộc đời, đất nước,…

Gần ba mươi năm cầm bút, chị đã sáng tác nhiều tập thờ có giá trị, tạo ấn tượng khó quên trong lòng người đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi. Ngay từ tập thơ đầu tay Tơ tằm – Chổi biếc (in chung, 1963), thơ Xuân Quỳnh đã được chú ý vì phong cách mới mẻ. Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ đã để lại cho đời nhiều bài thơ hay, nhất là thơ tình. Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Bài thơ Sóng sáng tác năm 1967, in lần đầu trong tập Hoa dọc chiến hào, xuất bản năm 1968. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh thực sự khẳng định tài năng của mình trên thi đàn Việt Nam. Bài thơ viết theo thể năm chữ, rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín, thể hiện những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Tác giả nói với mình, nói với mọi người về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn liền với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.

Đầu đề bài thơ là Sóng và cả bài thơ được dệt bằng hình tượng trung tâm ấy. Cùng với hình tượng sóng còn có một hình tượng nữa là em – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ nói về tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Sóng và em tuy hai mà mà một, có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau, làm nổi toát sự tương đồng; có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài, quấn quýt với nhau như hình với bóng, song song tồn tại từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim người con gái.

Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lí đặc biệt của một tâm hồn khao khát được yêu:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ.

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể.

Bắt đầu là hình ảnh sóng nước. Nghĩa tường minh là vậy. Không kể ở sống hay ở bể, lúc sóng cồn lên thì dữ dội, ồn ào, có thể làm lật thuyền, đắm tàu ; nhưng lúc trời yên gió lặng thì sóng lại dịu êm, lặng lẽ. Nhưng Dữ dội và dịu êm hay ồn ào và lặng lẽ thì cũng đều là sóng. Sóng luôn luôn biến đổi muôn hình muôn vẻ và hiện tượng đó cứ thường xuyên lặp đi lặp lại.

Tâm hồn của người con gái đang yêu cũng giống như sự tương phản giữa các hình thức của sóng. Đa dạng ở bên ngoài và khó hiểu ở bản chất bên trong ở cuối khổ thơ là sự bối rối, trăn trở của sóng muốn giãi bày lòng mình với bể.

Có thể thấy ngay trong khổ thơ đầu nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh. Người con gái đang khát khao tình yêu muốn hiểu tận cùng bản chất của tình yêu. Sóng không hiểu nổi mình, Sóng tìm ra tận bể để đến với không gian cao rộng, bao la.

Chủ ý của nhà thơ là mượn sóng làm biểu tượng cho tình yêu. Miêu tả sóng với những đặc điểm đối nghịch đến kì lạ cũng là để nói tới cái đa dạng, phức tạp, khó giải thích của tình yêu. Như vậy sóng nước đã chuyển nghĩa sang sóng tình, sóng nước, sóng tình đan quyện vào nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Giống như sóng, tình yêu cũng là một hiện tượng, một khái niệm khó lí giải cho rõ ràng. Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi. Khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim nhà thơ, trong trái tim tuổi trẻ cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại. Cũng như sóng, nó mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi vẫn là như vậy:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Tình yêu và khát vọng tình yêu của con người muôn đời không thay đổi. Sóng nước cũng vậy mà sóng tình cũng vậy. Nếu như Trương Chi nổi sóng tình trước nhan sắc kiều diễm của Mị Nương thì Kim Trọng cũng đã từng rơi vào khoảnh khắc Sóng tình dường đã xiêu xiêu trước vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều. Đó là những giây phút thặng hoa của tình yêu.

Khát vọng tình yêu khác hẳn ước vọng tình yêu. Ước vọng chỉ mới là ước và mong, còn khát vọng thì đã là sự đam mê cháy bỏng, mãnh liệt, không giới hạn. Nét đặc trưng nhất của tình yêu là vậy. Tình yêu không bó hẹp trong phạm vi lứa tuổi nào nhưng khái niệm về tình yêu thường gắn liền với tuổi trẻ, cái tuổi tre non đủ lá và đào tơ mơn mởn. Ở lứa tuổi mùa xuân của đời người, tình yêu phát triển mạnh mẽ nhất và mang đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy cơ thể thanh xuân, làm bồi hồi trái tim trong ngực trẻ, khiến trái tim lúc nào cũng thổn thức nhớ mong. Như vậy, khát vọng tình yêu gắn liền với ngực trẻ và chỉ có ngực trẻ mới đủ chỗ chứa khát vọng tình yêu. Vì thế nhà thơ Xuân Diệu đã viết:

Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo,

Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu.

Ở một bài thơ khác, Xuân Quỳnh viết:

Tiếng yêu từ những ngày xưa,

Vượt qua năm tháng bây giờ đến ta.

Tiếng yêu từ những ngày xa,

Trải bao cay đắng vẫn là vẹn nguyên.

(Những năm tháng không quên)

Tự nhiên như hơi thở, cần thiết như cơm ăn áo mặc hằng ngày, ấy thế mà tình yêu là gì thì không ai giải thích nổi. Sức quyến rũ ghê gớm của nó có lẽ là ở đó chăng? Xuân Quỳnh phân vân tự hỏi rồi tự giải đáp:

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Khi yêu, người ta thường có nhu cầu tự tìm hiểu và phân tích. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường đầy bí ẩn, không thể giải thích hết được nguyên nhân và thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Xuân Diệu băn khoăn: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Còn Xuân Quỳnh lại bộc lộ nỗi băn khoăn của mình một cách hồn nhiên, dung dị. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời, làm sao mà hiểu hết được. Nó cũng tự nhiên như quy luật thiên nhiên và cũng khó hiểu, chứa đựng nhiều bí ẩn như thiên nhiên vậy.

Nếu Sóng tìm ra tận bể để tự hiểu mình thì em cũng tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em. Trước không gian bao la là biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi từ ngàn xưa vốn là những băn khoăn, triết lí mang tầm vũ trụ. Bao câu hỏi cứ vương vấn trong tâm hồn em, làm cho em trăn trở, thao thức không nguôi:

Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? Khó mà trả lời cho chính xác, song vẫn có thể nói rằng: Sóng bắt đầu từ gió. Có gió mới có sóng, tất nhiên là vậy. Thế Gió bắt đầu từ đâu?Câu trả lời không dễ bởi nó đi vào phạm trù vô tận: vũ trụ này từ đâu mà có?

Thế là tuy đã ra tận bể mà sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em cũng đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu nơi anh mà nào em đã hiểu em? Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói? Hay giống như nàng Kiều bắt đầu yêu chàng Kim từ sắc ngựa tuyết in, có pha màu áo? (Truyện Kiều).

Câu thơ Em cũng không biết nữa thể hiện sự hồn nhiên của người con gái. Thương biết bao nhiêu cái lắc đầu phân vân ấy. Mà biết để làm gì?! Truy nguyên cho chính xác để làm gì bởi em và anh chỉ cần hiểu rằng ta yêu nhau là đủ.

Tâm trạng của người con gái đang yêu ấy là điển hình chăng? Điều thiêng liêng nhất, tuyệt diệu nhất trong tình yêu là sự đồng cảm, hòa hợp sâu xa giữa hai tâm hồn, hai nửa cuộc đời tự nguyện gắn bó với nhau để tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, vĩnh viễn:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.

Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Nhà thơ vẫn mượn chuyện sóng để nói chuyện người. Anh ơi, tình yêu của em cũng là sóng và chính là sóng đó! Chỉ có sóng đại dương mênh mông mới có thể so sánh được với khát vọng tình yêu của em.

Con sóng dưới lòng sâu, Con sóng trên mặt nước là những cung bậc khác nhau của nỗi em nhớ anh. Sóng trên mặt nước dù có lớn cũng còn có thể lựa chiều mà vượt, chứ Con sóng dưới lòng sâu âm thầm khó nhận thấy mới thực sự dữ dội và khó lường. Nhưng trên mặt nước hay dưới lòng sâu, con sóng đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, sóng có đối tượng để ve vuốt, vỗ về, có cái đích để đi đâu về đâu cũng nhớ, lúc nào cũng không quên, ngày cũng như đêm:

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngũ được.

Nỗi nhớ có cái biểu hiện trên bề mặt mà cũng có cái ẩn chứa tận dưới lòng sâu. Vắng anh, em nhớ. Đó là nỗi nhớ thể hiện trên bề mặt. Giận anh mà nhớ mới là nỗi nhớ dưới lòng sâu, da diết, khắc khoải, thổn thức đến trào nước mắt, đến cắn chặt môi chảy máu chưa hẳn nguôi ngoai. Nó cuồn cuộn, dạt dào như những đợt sóng triền miên vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong bài thơ này là nhịp sóng nhưng rõ nhất, dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này.

Thức mà nhớ, không nói làm gì, trong mơ mà nhớ là nỗi nhớ không chịu ngủ yên. Ôi! Tình yêu là vậy! Em yêu anh, em là vậy: Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức. Nỗi nhớ hiển hiện trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi vào tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Khao khát yêu thương của người con gái mãnh liệt nhưng cũng thật tự nhiên: sóng khao khát tới bờ, cũng như em luôn khao khát có anh. Tình yêu của người con gái ở đây vừa chân thành, tha thiết, vừa trong sáng, thủy chung.

Cách thể hiện tình cảm của Xuân Quỳnh như vậy có tự nhiên, sỗ sàng quá chăng? Liệu có phá vỡ nét đẹp cổ truyền của người con gái Việt Nam khi yêu là thẹn thùng, e ấp? Hoàn toàn không! Mượn hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói lên khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình. Điều đó hiếm thấy trong thơ ca Việt Nam trước đó.

Ở những đoạn thơ trên, nhân vật trữ tình nhờ lời sóng để che giấu tâm trạng, nhưng đến đây thì đã bỏ luôn cái vỏ nhân hóa vay mượn ấy đi để trái tim tự thốt nên lời. Trái tim em không chịu vòng vo, úp mở nữa mà nó đòi nói thật, bởi nó đang tràn đầy tình yêu anh và tình yêu ấy cũng đã chín muồi:

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương.

Nỗi nhớ trong tình yêu còn được gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô biên. Với thời gian, nó không có ngày đêm. Với không gian, nó chẳng có nhiều phương hướng. Không gian có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, chứ tình yêu của em thì chỉ có một phương, đó là anh. Em yêu anh và chỉ biết có anh. Nếu tình yêu là một quy luật của cuộc sống thì sự thủy chung lại là quy luật của tình yêu. Lời thề nguyền của người con gái trong bài thơ này giản dị mà sâu sắc, xúc động: Nơi nào em cũng nghĩ, Hướng về anh – một phương. Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau. Họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưởi ấm cho nhau.

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn, bay bổng tới đâu chăng nữa cũng vẫn gắn chặt với đời thường, mà đời thường thì lại nhiều dâu bể. Vì thế, những người yêu nhau ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời, với niềm tin cuối củng sẽ tới đích.

Trở lại chuyện sóng nước:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở.

Hãy nhìn những con sóng dại dương: dù gió xô bão giạt đến phương nào đi nữa, cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng vậy, cho dù gặp bao khó khăn, thử thách em cũng vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh. Cũng như ông bà mình xưa:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo

Ngũ lục sống cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.

Quyết tâm ấy thiêng liêng như một lời thề vàng đá.

Niềm tin và nghị lực em đã tìm thấy ở sóng và ở chính mình. Khi đã yêu thực lòng, dù muôn vời cách trở, chúng mình vẫn đến được với nhau. Khẳng định như thế là muốn an ủi, động viên mình mà cũng là an ủi, động viên người yêu để có thêm ý chí, nghị lực trên con đường đến với hạnh phúc.

Gian nan, thử thách là điều không thể thiếu đối với tình yêu. Trong những bài thơ sau này, Xuân Quỳnh khẳng định tình yêu đẹp là tình yêu đã trải qua nhiều thử thách:

Tình ta như hàng cây

Đã qua mùa bão gió

Tình ta như dòng sông

Đã yên ngày thác lũ.

(Thơ tình cuối mùa thu)

Khi hai người đã thực sự yêu nhau thì không một trở lực nào ngăn cản nổi:

Tay ta nắm lấy tay người,

Dẫu qua trăm núi ngàn đồi cũng qua.

(Hát ru)

Đẹp là thế, thiêng liêng là thế nhưng tình yêu cũng thật ngắn ngủi, mong manh, khó giữ:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa.

Trong thực tế, tình yêu có khi chỉ là một khoảnh khắc:

Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi

(Nói cùng anh – Xuân Quỳnh)

Hoặc:

Anh đã thấy một điều mong manh nhất,

Là tình yêu, là tình yêu ngát hương.

(Để Trung Quân)

Bởi thế khi yêu, con người luôn khắc khoải và trăn trở. Tuy không hiện lên thành chữ thành lời trong đoạn thơ nhưng thấp thoáng đâu đó một chút lo âu rất chính dáng. Liệu tình yêu có thể vượt qua những quy luật tất yếu của cuộc đời chăng? Vì thế nên ngay trong lúc tình yêu say đắm nhất, nhà thơ vẫn không hoàn toàn thoát li hiện tại. Trong cái nồng nhiệt hết mình vẫn thấp thoáng dự cảm lo âu không dứt.

Mọi chuyện rồi sẽ qua đi: cuộc đời, năm tháng và mây kia thì cứ bay mãi vào cõi xa xăm, vô định. Tình yêu cũng thế, vì tình yêu bao giờ cũng gắn liền với một con người cụ thể, gắn liền với cái hữu hạn của đời người. Muốn vượt ra ngoài giới hạn đó, chỉ có một cách là hòa tan tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu để ngàn vạn năm sau, những con sóng dại dương vẫn cất cao lời ngợi ca tình yêu bất diệt.

Nỗi trăn trở đến lúc này đã thành sự bức bách, thôi thúc:

Làm sao được tan ra,

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính. Tình yêu bây giờ không còn bé nhỏ, đơn lẻ mà đã hòa quyện vào sóng nước đại dương vĩnh hằng. Mỗi chữ, mỗi câu trong đoạn thơ đều được tác giả chọn lựa, sắp xếp khéo léo nên có giá trị biểu cảm rất cao.

Sóng là một bài thơ tình xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng; vừa ý nhị, sâu xa. Người đọc yêu mến và nhớ mãi bài thơ Sóng vì nó không chỉ đơn thuần là thơ mà còn là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ, một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương. Thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho phong cách của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, vẫn giữ được nét đẹp cổ điển của thơ ca dân tộc, đồng thời lại có những khám phá, sáng tạo nghệ thuật mới lạ và độc đáo. Nếu đánh giá Xuân Quỳnh là nhà thơ viết về tình yêu hay nhất trong đội ngũ các nhà thơ hiện đại thì chắc cũng không có gì là quá đáng.

Phân Tích “Thú Lâm Tuyền” Của Bác Hồ Trong Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Tài Liệu Học Tập

-“Thú lâm tuyền” là niềm vui thú được sống với rừng, suối. Đây là một nét thanh cao, một nét đẹp cao quý có truyền thống từ xa xưa.

-Niềm vui thú được sống với rừng, suối thể hiện trong Tức cảnh Pác Bó:

+ Câu thơ đầu nói về nơi ở của người chiến sĩ: nhịp 4/3 (sáng ra bờ suối I tối vào hang), nhịp điệu tạo thành hai vế sóng đôi. Câu thơ toát lên một cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào. Không gian: suối – hang, thời gian: sáng – tối, hoạt động: vào – ra. Nghệ thuật đối làm nổi bật thiên nhiên hoang sơ, nếp sống hài hòa, gắn bó với thiên nhiên của Bác. Giọng điệu cấu thơ rất thoải mái cho thấy sự ung dung, sự hòa nhịp của Bác Hồ với núi rừng nơi đây. Cuộc sống đều đặn với khung cảnh bờ suối bình dị, với nơi ở là hang tối.

+ Câu thơ thứ hai nói về việc ăn uống của người chiến sĩ: lương thực, thực phẩm đầy đủ, sẵn sàng. Đó chỉ là những thứ rất dân dã, sẵn có của núi rừng như cháo bẹ, rau măng. Câu thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê, tái hiện chân thật cuộc sống của người chiến sĩ Cách mạng. Giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh; câu thơ vẫn tiếp tục mạch cảm xúc hòa nhịp với cuộc sống núi rừng. Cuộc sống nơi đây nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Người luôn vui thích, bằng lòng với cuộc sống ấy. Thậm chí Người còn cảm thấy rất thoải mái, rất sảng khoái.

+ Câu thơ thứ ba nói về nơi làm việc của người chiến sĩ: vẫn là một thứ tự nhiên của núi rừng nơi đây: bàn đá. Từ láy chông chênh vừa tạo hình, vừa gợi cảm. Đó là thế không vững chãi vì không có chỗ dựa. Bàn làm việc là tảng đá không chắc chắn nhưng Người vẫn làm việc say sưa, khỏe khoắn với công việc: dịch sử Đảng. Phép đối (đối ý, đối thanh) cho thấy điều kiện làm việc rất đơn sơ nhưng công việc rất lớn lao. Câu thơ mang giọng điệu mạnh mẽ, khắc họa chân thực, sinh động phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ.

+ Ba câu thơ đầu thể hiện một cách đầy đủ niềm vui thú được sống với ‘ùng, suôi của Bác Hồ. Cuộc sống của Bác nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Bác hoa nhịp với cuộc sống núi rừng ấy, với suôi, với hang, với cháo bẹ, với rau măng, với bàn đá. Cuộc sông đó với Người không những không nghèo khổ, thiếu thốn mà còn dư thừa, sang trọng. Có được điều đó là do tinh thần lạc quan của Bác. Vì thế, cuộc đời cách mạng với Bác thật là sang.

– Học sinh thấy rõ sự giống và khác nhau giữa “thú lâm tuyền” của người xưa và của Hồ Chí Minh. Đó đều là sự thích thú được sống cùng thiên nhiên. Nhưng người xưa gặp lúc thời thế đảo lộn, cảm thấy bất lực trước thời thế thường tìm đến chốn ẩn dật làm bạn cùng núi rừng, hoa cỏ để giữ tâm hồn trong sạch. Đó là lôi sông “lánh đục về trong”, “an bần lạc đạo”. Còn Hồ Chí Minh sông hòa nhịp với núi rừng để hoạt động cách mạng. Cuộc sống lâm tuyền là một biểu hiện của cuộc đời cách mạng, cuộc đời của một chiến sĩ (chứ không phải cuộc đời của một ẩn sĩ như người xưa). Vì thế, “thú lâm tuyền” của Bác Hồ thể hiện cốt cách cao đẹp của một người chiến sĩ cách mạng.

Bình Bài Thơ “Chiều Xuân” Của Anh Thơ Tài Liệu Học Tập

Anh Thơ( 1921-2005) quê ở Bắc Giang, từ nhỏ bà đã tìm đến văn thơ để giải thoát và tự khẳng định mình. Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt tình phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca bà từng là ủy viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam, bà đã để lại nhiều tập thơ có ý nghĩa tinh thần và nghệ thuật sâu sắc. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình.

Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã có nhiều tác phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng. Cảnh quê hương thanh bình yên ả của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941.

Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu là một bức tranh quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”

Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không phải bên sông có đông người lên xuống mà là một bến vắng, con đò cũng không phải là con đò nối nhíp cầu hai cảng mà là con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân. Tất cả cảnh vật như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một cái gì đó đến từ nơi xa thẳm. Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi và “chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với bức tranh xuân tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm ả nhưng cũng thật buồn, chất chứa tâm trạn buồn não nề của chủ thế tôi đang cô đơn, khao khát đợi chờ, hỏi thăm. Khổ thơ như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.

Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.”

Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh động:”Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật có động nhưng thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tĩnh nay càng thêm tĩnh, càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.

Tác giả lại đi vào chỉ tiết hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:

“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng”, có những chú cò con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại có sự xuất hiện thêm bóng dáng của thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc, nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ, nàng yếu thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mơ mộng với nỗi buồn vu vơ, nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.

Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh chiều mưa xuân đẹp đến như thế.

Phân Tích Hình Ảnh Của Bác Hồ Qua Hai Bài Ngắm Trăng Và Tức Cảnh Pác Pó Tài Liệu Học Tập

Gợi ý

Từ những ý thơ của Người, lúc nào ta cũng thấy toát lên một phong thái ung dung, là tinh thần lạc quan trong cuộc sống Cách Mạng đầy gian khổ.Dù trong hoàn cảnh “cháo bẹ rau măng” hay “bàn đá chông chênh”, thi nhân vẫn vui vẻ mà viết lên rằng: “Cuộc đời Cách Mạng thật là sang”.

– Không chỉ có bài thơ Tức cảnh Pác Bó, Tẩu Lộ(Đi đường) cũng thể hiện ý chí của người chiến sĩ Cách Mạng này.Những câu thơ như chứa một sức mạnh ngàn cân.Dù đang trên đường đi với bao xiềng xích trên người, ấy vậy mà Người vẫn không nghĩ đến nỗi khó khăn hiện tại ấy, vẫn cất lên cái tâm hồn thi sĩ của mình, vẫn ung dung ngắm nhìn cảnh núi non:

“Tẩu lộ tài chi tẩu lộ nan/Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”

– Hồ Chí Minh là một thi nhân có tình yêu gắn liền với thiên nhiên.Những hình ảnh trong bài thơ này đã chứng mình điều đó.Có thể kể tiêu biểu đó là bài thơ Ngắm Trăng với hình ảnh nhân-nguyệt, nguyệt-nhân.(“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt, Nguyệt tòng song thích khán thi gia”).Dường như cái chấn song kia không thể ngăn cách giữa hai người bạn là vầng trăng và thi sĩ.Cả hai như đối xứng với nhau, nhìn nhau thật lâu, thật thân thiết.Dù ở trong mọi hoàn cảnh, tình cảm của Bác vẫn không đổi, vẫn luôn dành tấm lòng cho thiên nhiên như một người bạn đồng hành.

– Thiên nhiên gắn bó với bác trong từng nguồn cảm hứng, trong từng câu thơ không chỉ với tư cách là một người bạn, mà còn là một người mang lại cho Người những bài học cuộc đời rất quý giá mà giản dị.Đọc Đi đường, ta nhận ra điều đó.Núi cứ trùng trùng điệp điệp mọc ra trước mắt, như muốn ngăn bước chân người đi(“Trùng san chi ngoại hựu trùng san/Trùng san đăng đáo cao phong hậu”).Và rồi cuối cùng, khi vượt qua bao núi non ấy, trước mắt ta dường như là cả một khoảng trời mênh mông trong tầm mắt:”Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.Từ việc “tẩu lộ” đơn thuần, ta cũng ngẫm ra được một chân lí hết sức giản dị mà thấu đáo:Hãy vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn để có được niềm vui chiến thắng, đặc biệt là vượt lên để chiến thắng bản thân mình.

Qua bài thơ “Ngắm trăng”

– Mặc dù ở trong hoàn cảnh bị giam hãm trong tù: ko có rượu cũng chẳng có hoa nhưng Bác Hồ vẫn ko hề chán nản tuyệt vọng mà ngược lại người vẫn luôn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn thế nữa Người đã hoàn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để rồi đắm mình trong không gian rộng lớn mênh mông và thơ mộng cùng ánh trăng ở ngoài song sắt nhà tù tối tăm dơ bẩn kia

Qua bài thơ:”đi đường”

– Từ nhà ngục này chuyển sang nhà ngục khác mà chân tay lại bị chói nhưng Bác đã vượt lên trên hoàn cảnh ấy vượt qua bao hiểm trở cũng như khó khăn trên đường đi với tâm hồn thi sĩ Bác đã viết nên những vần thơ rất hay này thể hiện tình yêu của mình với thiên nhiên, như muốn hòa vào thiên nhiên hùng vĩ với “núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mới đọc câu thơ này lên đã đủ thấy những thử thách to lớn đối với người leo nó và dường như ko ai có thể vượt qua được nhất là ở trong tình trạng bị áp giài chân tay bị chói chặt như Bác thì khó ai tin được Người có thể vượt qua muôn trùng núi như vậy thế nhưng Người đã làm được để rồi:”thu vào tầm mắt muôn trùng núi non”

Từ đây ta có thể thấy ý chí quyết tâm vượt qua mọi gian nan của Bác ko điều gì có thể sánh được vượt qua bao núi Bác tưởng tượng như chính những ngọn núi ấy là bạn đồng hành của mình chứ hoàn toàn ko phải là nhưng trở ngại cản bước chân của mình

Qua bài thơ “tức cảnh Pác bó”

– ở vảo một hoàn cảnh hoàn toàn khác so với 2 bài trước vì Bác vẫn được tự do nhưng Người lại vấp phải nhưng khó khăn khác khó khăn về măt vật chất ; Bác đang làm một công việc hết sức trọng đại vạch đượng cho Cách Mạng đó là: “dịch sử Đảng” và đáng nhẽ ra nó phải được thực hiện trong một căn phòng đầy đủ tiện nghi nhưng thực tế Bác đã làm việc đo trên một chiếc bàn đá lại còn chông chênh không vững nhưng Bác vẫn không hề than vãn mà vẫn làm với một tâm thế rất khoan thai, thoải mái. Hình ảnh Bác hiện lên là hình ảnh một con người dù cho ở bất kì hoàn cảnh nào Người vẫn luôn hướng về phía trước và luôn thể hiện niềm vui đối với cách mạng, được sống và hòa mình vào thiên nhiên

Tóm lại, vượt lên trên mọi hoàn cảnh dù là khó khăn nhất Bác vẫn luôn giữ cho mình một phong thái ung dung một tinh thần thép và 1 tâm thế tĩnh tại khoan thai, Người rất yêu thiên nhiên vì thế trong mọi hoàn cảnh Người lun hòa mình vào với thiên nhiên và tạo nên những vần thơ mang đầy chất hiện thực này

chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ “Cảnh Ngày Hè” Của Nguyễn Trãi

Thiên nhiên cuộc sống là nguồn cảm hứng bất tận cho mỗi con người nghệ sĩ sáng tạo. Tuy nhiên mỗi con người nghệ sĩ lại tiếp cận nó ở những phương thức khác nhau. Người thì nâng niu say đắm vẻ đẹp của mùa xuân. Kẻ thì luyến tiếc những chiếc lá vàng rơi xào xạc của mùa thu hay cũng có người rạo rực một tình yêu cuộc sống tha thiết trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp. Nguyễn Trãi – một vị anh hùng nhưng cũng là một nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Ông lại có nguồn cảm hứng gợi lên trong khung cảnh hè. Bài thơ “Cảnh ngày hè” chính là một trong những tác phẩm được ra đời trong nguồn cảm hứng ấy. Đến với bài thơ ta không chỉ bị lôi cuốn trước vẻ đẹp căng tràn sức sống của thiên nhiên mà còn phải suy nghĩ, khâm phục trước tình cảm tha thiết với thiên nhiên, với dân, với đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ “Cảnh ngày hè” được rút ra từ tập thơ “Quốc Âm Thi Tập”. Đây là bài thơ số 43 trong phần “Bảo kính cảnh giới”. Bằng thể thơ thất ngôn xen lẫn câu thơ lục ngôn. Kết hợp với sự lựa chọn ngôn từ, hình ảnh vô cùng dân gian nhưng giàu sức gợi cảm. Nhà thơ Nguyễn Trãi đã gợi vẽ lên khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người vào ngày hè. Qua bức tranh đó ta còn thấy ánh người lên vẻ đẹp tâm hồn của thi sĩ, nghệ sĩ của tác giả. Nguyễn Trãi – một con người đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, lúc nào cũng rộng mở tâm hồn để đón nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Và lần này con người ấy đến với thiên nhiên trong tâm thế dặc biệt, thậm trí còn gọi là hiếm hoi vì với một người như Nguyễn Trãi khó mà có những giây phút bình yên, thảnh thơi đến như vậy.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường,”

Bằng câu thơ lục ngôn kết hợp với nhịp thơ 1/2/3 nhằm thể hiện phong thái ung dung, tự do tự tại của tác giả cùng cánh sử dụng từ ngữ vô cùng dân dã, giản dị “Rồi” gợi lên sự nhàn rỗi không vướng bận việc gì phải suy nghĩ. Mở ra hoàn cảnh đặc biệt của nhân vật trữ tình: rỗi rãi giữa ngày dài, có cả một khoảng thời gian chỉ để ngồi hóng mát. Tất cả gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh một con người thư thái thanh thản trong khí trời mát mẻ trong lành. Với con người luôn nặng lòng vì nước vì dân thì những giây phút thư thái thanh thản ấy thật đáng quý biết bao. Và cũng chính trong giây phút thanh thản ấy, Nguyễn Trãi đã tự rộng mở lòng mình đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Núp bóng lưng của một đấng anh hùng, tâm hồn thi sĩ đã có những rung động vô cùng tinh tế chỉ qua những hình ảnh vô cùng bình dị nhưng lại gợi tả đầy cảm xúc như thế

“Hòe lục đùn đùn tán rợp gương.

Thạch lựu hiên còn phun thước đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”

       Nếu nói “Thi trung hữu họa” – trong thơ có họa thì những vần thơ của Nguyễn Trãi thực sự là một bức họa đẹp bằng ngôn từ. Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh gợi tả cảnh mùa hè rực rỡ. Đó là vẻ đẹp trong trẻo dân dã đầy sức sống chứ không xa xôi như những hình ảnh mang tính tượng trưng, ước lệ vốn đã quen thuộc trong thơ ca trung đại. Khác hẳn với các nhà thơ cùng thời khi viết về thiên nhiên thường lựa chọn những hình ảnh mang tính tượng trưng như là tùng trúc cúc mai, còn Nguyễn Trãi lại lựa chọn những hình ảnh rất đỗi gần gũi quen thuộc với người dân Việt Nam khi hè về. Đó là hình ảnh bóng hòe xanh rợp, là bông hoa lựu như đốm lửa gọi hè về và một sắc hồng của bông hoa sen với hương thơm đã nhạt dần theo gió. Gợi lên hình ảnh quê hương đất Việt tươi đẹp nhưng lại rất đỗi gần gũi, thân thuộc. Nhưng sự tài tình của Nguyễn Trãi còn ở chỗ qua việc lựa chọn màu sắc cho bức tranh. Đây là sự lựa chọn, phối màu rất hài hòa của hội họa. Bên cạnh gam lạnh là sắc xanh tán hòe. Tác giả đã khéo léo phối vào đó là gam nóng đỏ của hoa lựu, hồng của sen. Kết hợp với các cụm từ giàu sức gợi tả hình ảnh như là “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Khiến khung cảnh thiên nhiên ngày hè lại vô cùng sinh động, không hề im lìm tĩnh lặng. Sắc xanh của tán hòe không hề tĩnh tại mà nó đang bung tỏa, lan rộng và tuôn trào ra che rộng bóng rợp thêm. Cũng chỉ với một từ “phun” mà ta lại như thấy bông hoa lựu kia lại chứa đựng cả sức lửa ngày hè bị dồn nén, đang bật tung trào ra. Ao sen cũng không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ mà còn thể hiện sự lan tỏa, sự chuyển động của mùi hương ấy khắp không gian. Qua đó ta thấy Nguyễn Trãi là một người họa sĩ ngôn từ đa tài, một con người tinh tế nhạy cảm. Một trái tim tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên đất nước đã vẽ vẽ lên bức họa tươi đẹp như vậy. Nhưng trong thơ của Nguyễn Trãi không chỉ có họa, có hương mà còn có cả những thanh âm muôn vẻ của cuộc sống thường nhật. Và trong không gian cảnh hè ấy, hình ảnh con người hiện lên với sự sung túc, hạnh phúc trong lao động.

“Lao xao chợ cá làng ngư phụ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

     Hiếm có một câu thơ nào mà dường như mỗi từ mỗi chữ như ẩn chứa một niềm vui xôn xao đến lạ. Điều đặc biệt ở chỗ niềm vui mà tác giả tìm thấy lại không phải là thú vui tao nhã cầm kì thi họa mà được gợi lên từ những điều hết sức bình dị, đời thường thậm chí thỉnh thoảng những điều bình dị ấy với con người vô tâm ất sẽ dễ dàng bỏ qua. Chỉ một âm thanh mang nét đặc trưng của mùa hè – tiếng ve, chỉ với tiếng lao xao của một phiên chợ cá từ xa vọng lại nhưng đủ ngân lên trong lòng con người thi sĩ với biết bao cảm xúc. Phải chăng sự xốn xao xúc động trong tâm hồn nhà thơ như muốn nhấn mạnh âm thanh đặc biệt qua từ láy “rắn rỏi” và “lao xao”. Cùng với phép đảo ngữ lại làm bật lên cái âm thanh sôi động, náo nhiệt, xóa tan không khí quạnh hiu, cô tịch lúc ‘tịch dương”. Tất cả gợi tả lên một bức tranh cuộc sống bình dị, dân dã mà rất đỗi vui tươi. Chợ vốn là hình ảnh biểu thị sự thái bình no ấm trong tâm thức người Việt. Chợ càng đông vui, lao xao thì chứng tỏ đất nước bình yên, thịnh vượng dân đầy đủ ấm no. Tiếng lao xao chợ cá làng ngư phụ chính là âm thanh báo hiệu mùa đánh bắt bội thu của ngư dân. Lại thêm tiếng ve ngân xa trong bóng chiều đang dần buông như gợi vẽ lên cuộc sống rất đỗi yên bình trong trẻo nơi thôn dã. Hình ảnh dáng chiều hoàng hôn thực tế không chỉ có trong thơ của Nguyễn Trãi mà trong thơ của Bà huyện Thanh Quan hình ảnh này cũng xuất hiện:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

      Tuy nhiên cảnh hoàng hôn được gợi tả trong đây phủ nhuốm một nỗi buồn của sự đơn côi mang nặng nỗi phiền muộn u ẩn của con người khách lữ thứ. Nhưng bóng tịch dương trong thơ của Nguyễn Trãi lại ngược lại không hề gợi cảm giác đơn côi buồn bã mà chỉ gợi cuộc sống yên ả thanh bình. Vậy sự khác biệt này không phải sự khác nhau do cánh lựa chọn hình ảnh, từ ngữ mà chính cảm xúc trong tâm hồn mỗi người nghệ sĩ. Nguyễn Trãi vẫn tha thiết với đất nước ngay cả khi ông lui về cuộc sống ở ẩn trưởng như chỉ sống cho riêng mình. Trong cuộc sống gắn bó với giây phút thảnh thơi ấy, Nguyễn Trãi vẫn mở rộng lòng mình ra đón nhận những rung động của thiên nhiên, cuộc sống của người dân. Ẩn sau những câu thơ này ngời sáng lên tình yêu thiết tha của Nguyễn Trãi dành cho cuộc sống, nhân dân và đất nước. Sống giữa vòng tay bình yên của mẹ thiên nhiên, giữa cuộc sống “vô ưu vô tư” như lại gợi thức trong Nguyễn Trãi niềm mong ước mà ông theo đuổi suốt cả cuộc đời này. Đó là niềm mong ước muôn dân hạnh phúc

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Ở hai câu thơ này có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp của dân gian với vẻ đẹp của bác học. Cụ thể tác giả chọn từ ngữ dân gian “Dẽ” có nghĩa là lẽ có để thể hiện niềm khao khát mong ước vô cùng tha thiết của chính mình. Kết hợp với việc sử dụng hình ảnh điển tích, điển có “Ngu cầm” một nét đặc trưng của văn chương bác học thời trung đại. Nhà thơ Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm mong ước canh cánh trong lòng mình. Tác giả tha thiết mong muốn cho nhân dân no ấm hạnh phúc ở muôn phương để “khắp nơi không một tiếng oán hờn”. Để diễn tả niềm mong ước đó, Nguyễn Trãi có nhắc đến Ngu cầm. Đây là cây đàn nổi tiếng thời vua Nghiêu, vua Thuấn vô cùng thịnh trị. Ở thời đấy vua Thuấn có khúc “Nam Phong” để ngợi ca cuộc sống dân giàu đủ. Nguyễn Trãi mong muốn có đàn của vua Thuấn để đàn một khúc Nam Phong đem lại cuộc sống muôn dân ấm no, vui tươi và hạnh phúc. Lấy gương báu thời xưa để răn mình. Nếu như với Nguyễn Bỉnh Khiêm “nhàn” là tránh xa phú quý quay về hòa hợp với thiên nhiên để giữ trọn cốt cách thì qua “Cảnh ngày hè”, vị anh hùng dân tộc đã khẳng định triết lí “nhàn” của mình: Sự nhàn rỗi, thảnh thơi luôn phải song hành với cuộc sống nhân dân no đủ, bình yên. Có thể nói kết thúc bằng hai câu thơ này tạo nên sự bất ngờ với người đọc. Hóa ra đoạn kết “Cảnh ngày hè” không phải thiên nhiên mà là con người. Mọi nỗi lo âu, vui buồn của nhà thơ đều xuất phát từ cuộc sống muôn dân. Ông tìm thấy ý nghĩa và nguồn hạnh phúc của cuộc đời mình từ niềm vui của nhân dân. So với phong thái ung dung, nhàn rỗi lúc đầu bài thơ thì ở câu thơ cuối này tạo nên bất ngờ cho người đọc. Con người ấy nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Không một giây phút nào con người ấy nguôi nghĩ về đất nước trong cả những giây phút tưởng chỉ sống cho riêng mình. “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn với nhịp thơ đa dạng và linh hoạt. Bài thơ đã thoát khỏi tính quy phạm khuôn thước của văn học trung đại bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, qua cách miêu tả thiên nhiên và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng các động từ mạnh, các từ tượng thanh được sử dụng liên tiếp làm cho bức tranh mùa hè không phải là hình ảnh tĩnh trên trang giấy mà căng tràn nhựa sống. Nguyễn Trãi đã đưa ngôn ngữ thơ ca về gần với ngôn ngữ đời sống, mở đường cho khuynh hướng dân tộc hóa, bình dị hóa của thơ ca Việt Nam sau này. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện một cách đầy chân thực và sinh động. Nhưng đọc bài thơ, ta không chỉ đơn thuần thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên mùa hè rực rỡ, sống động mà còn cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, thanh cao của hồn thơ Nguyễn Trãi. Một hồn thơ đã bắt rễ sâu vào đời sống thiên nhiên, một cảm xúc thơ đã hòa nhịp với mạch sống nhân dân, dân tộc. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng “Thơ khởi phát từ trong lòng người ta”. Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua “Cảnh ngày hè” ta không chỉ ngưỡng mộ tài năng của nhà văn hóa lớn mà ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu quê hương, dân tộc của Nguyễn Trãi tha thiết hơn bao hết.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Cuối Xuân Tức Sự Của Nguyễn Trãi Tài Liệu Học Tập trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!