Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối Cua Hồ Chí Minh Tuyệt Hay được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí MinhBài làm
Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng viết:
Giản dị và thực tế như cuộc sống đời thường, thơ văn của Bác đi vào lòng người rất nhẹ nhàng, tình cảm để khi đọc lên những dòng thơ của Người, tâm hồn ta như đọng lại một điều khắc khoải. Nói như Xuân Diệu khi đọc Nhật kí trong tù:”càng đọc càng hay,càng kính trọng người tù Hồ Chí Minh”. Thơ Bác luôn có một nguồn cảm hứng mới mẻ và rất tinh tế, đặc biệt trong 28 chữ của bài thơ “chiều tối” đã ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường Tĩnh Tây đến Thiên Bảo với cái nhìn man mác và hết sức bình dị, gần gũi của nhà lãnh tụ tài ba, kiệt xuất-Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị lỗi lạc, mà Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Với phong cách vừa cổ điển, vừa hiện đại, Bác đã có nhiều đóng góp cho nền thơ ca văn chương một công trình tác phẩm đồ sộ. Đó cũng là một cái tên mà cả con dân Việt đều ghi tạc trong tim với lòng kính trọng vô bờ. Dù hoàn cảnh trong lao, hay đang làm cách mạng thì những dòng thơ của Người vẫn luôn sáng và ánh lên một tinh thần lạc quan, yêu đời, một niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Đối với bài thơ “Mộ” ( “Chiều tối”) nằm trong tập “Nhật kí trong tù” đã thể hiện được tinh thần và phong thái cao đẹp của nhà thơ. Xuyên suốt cả bài thơ chỉ có bốn câu viết theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường thi cùng cái nhìn giản đơn, tả lại cảnh núi rừng nơi thôn dã vào lúc chiều tà. Không những thế, đằng sau những câu thơ ấy còn có cả khát vọng tự do cho bản thân và ước mơ quay về quê hương để tiếp tục sứ mệnh làm cách mạng của Người
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không. Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Dịch thơ:
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh cảnh xế chiều trên đường Bác bị giải lao. Khung cảnh ấy chợt trở nên đơn sơ, để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên sơn cước khi về chiều:
Hai câu thơ đầu hiện lên với nét chấm phá nhẹ nhàng của sự vật và thiên nhiên nơi núi rừng hoang dã với hai nét chính là “cánh chim” và “chòm mây”. Hai hình ảnh ấy vừa là ảnh thực, cũng là những chi tiết quen thuộc trong thơ ca thời xưa. Với nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, bút pháp chấm phá, tô điểm, bài thơ đã thể hiện được nét cổ điển đặc trưng bao trùm xuyên suốt toàn bài. Sau một ngay kiếm ăn mệt mỏi, vật vã, cánh chim bay về tổ “tìm chốn ngủ”. Đó chính là dấu hiệu báo hết một ngày, thời điểm của buổi chiều đã dần kết thúc và trở nên tĩnh mịch sắp sửa tối. Phải chăng, đó là cái nhìn cao rộng trong không gian mênh mông của thiên cảnh, qua đó gợi tả lên tư tưởng của nhà thơ “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”.buổi chiều tà với ánh hoàng hôn ấy dường như ta đã gặp đâu đó trong thơ, giống như Bà huyện Thanh Quan đã từng buồn trước khung cảnh ấy :”chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn”. Cánh chim và “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” đã miêu tả được thời gian bóng chiều trong sự u hoài, buồn thiu. Cánh chim mệt mỏi, chòm mây cô đơn buồn, lặng lẽ trôi giữa tầng trời vô định. Đó là biện pháp ẩn dụ, nhân hóa của sự vật để nó trở nên sống động, thực tế hơn, cũng có thể nói lên được tâm trạng con người đang mỏi mệt, chơi vơi trong tháng ngày gian khổ. Sự tìm về của cánh chim cũng là sự trôi đi của tầng mây, đó là sự tương phản giữa hai chủ thể sự vật. ” Chim mỏi” còn có chốn rừng để tìm về, còn với tầng mây lại “lơ lững”, trôi vô định, không biết đi về nơi đâu. Hình như, đó là tâm trạng buồn của Bác trước khung cảnh của đất trời bao la, la nỗi buồn và cô đơn trong cảnh xế chiều hiu quạnh. Như Lý Bạch trong bài “Độc toạn Kinh Đình san” đã từng viết:
Khác với các nhà thơ khác, trong thơ cổ,cánh chim thường bay đi vô tận trên bầu trời bao la để đi tìm những cảm xác xa xăm, phiêu dạt, mang chút phóng khoáng. Còn cánh chim trong thơ bác lại hết sức gần gũi, bình yên. Sau ngày dài kiếm ăn tất tưởi, chim chỉ muốn trở về tổ để nghỉ ngơi. Đây chính là vẻ đẹp tâm hồn trong thơ Hồ Chí Minh, là vẻ đẹp của giá trị nhân đạo sâu sắc với tình thương bao la nhân ái của Người đối với cảnh vật. Bác như đồng cảm với cánh chim kia, cũng như đồng cảm với chính mình. Hai câu thơ “Quyện điểu quy lâm” và “cô vân mạn mạn” đã gợi tả một nỗi buồn của sự lẻ loi, đơn chiếc cũng là nỗi buồn của người tù trên đất khách quê người. Trong hai ý thơ trên khi dịch ra nghĩa, người dịch đã dịch không sát bởi lẽ, trong thơ Bác có quá nhiều ẩn ý và sự tài tình khiến người ta không thể khai tỏa được hết ý nghĩa của nó. Nếu như trong phần phiên âm là nỗi buồn sầu tột độ thì ở phần dịch nghĩa chỉ mới khái quát được một phần của cảm xúc đó. Chòm mây trôi nhè nhẹ giữa tầng không như chính tâm hồn người tù chiến sĩ đang ung dung tự tại trong giờ bị giải lao. Ngoại cảnh trời chiều đã được nhà thơ thả hồn vào đó để xua đi cái ú ám, trĩu nặng của khung cảnh lúc chiều tối. Dù cô đơn, buồn đượm trong lòng như tác giat không hề phủ nhận điều đó. Phải chăng, đó chính là “tinh thần thép” trong sự vĩ đại của con người làm cách mạng-Hồ Chí Minh.
“Trong thơ Bác, trữ tình và tự sự, lãng mạn và hiện thực, cổ động và giáo dục, phản ánh và triết lí… đã kết hợp với nhau chặt chẽ một cách nghệ thuật”(Hoàng Trung Thông). Cảnh chiều tả nơi vùng sơn cước có chút phảng phất buồn trong lòng người, cũng là tâm trạng của người tù trước hoàn cảnh nhưng không hề bi lụy. “Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời Thịnh Đường”(Nguyễn Đức Hùng). Cảnh chiều gợi lên hiu hắt, có chút văng vẳng và bâng khuâng, cũng có cái gì đó man mác, ảm đạm, thê lương trong lòng người. Nhưng tất cả đều nhanh chóng có sự chuyển biến ở hai câu thơ sau xua đi cái hiu hắt, buồn thiu của khung cảnh chiều tà nơi rừng núi hoang vu:
Hai câu cuối chính là bức tranh sinh hoạt của con người nơi núi rừng sơn cước với những hình ảnh gần gũi, bình dị nơi đây. Ở câu thơ thứ ba :” Cô em xóm núi xay ngô tối” đã gợi tả hình tượng của con người mang nét mộc mạc, đời thường của cuộc sống. Đó là hình ảnh một cô gái nghèo miền núi Trung Hoa đang xay ngô- một công việc mệt nhọc vào lúc chiều tối nơi rừng núi heo hút. Sự xuất hiện của con người nhỏ bé khiến câu thơ trở nên độc đáo và bức tranh ấy cxung đã trở nên hoàn thiện hơn khi bao gồm cả hình tượng “cô em xóm núi”. Qua những hình ảnh đó, dường như có chút gì của sự thua thớt, vắng vẻ khiến ta liên tưởng đến những dòng thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Hình ảnh con người xuất hiện trong khoảng rộng của thiên nhiên núi rừng. Nhưng không giống với Bà huyện Thanh Quan khi tạo dựng hình ảnh con người nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ vô tận, bao la. Thì trong bài “chiều tối” lại là hình ảnh con người lao động với sức sống tràn đầy và khỏe khoắn toát lên vẻ đẹp của cô thôn nữ đậm chất xóm núi. Người phụ nữ đã xuất hiện nhiều lần trong thơ ca, văn chương. Hầu hết, họ xuất hiện trong thơ cổ thu đều mang nỗi buồn chia lìa, đau khổ trong thời chiến tranh, sinh li tử biệt, hay giang dở tình duyên. Đến với thơ của Vương Xương Linh đời Đường từng oán rằng:
Dịch thơ
Không giống điều đó, hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Chí Minh được gợi tả với một nét đẹp sống động, mạnh mẽ, yêu lao động trong cảnh sinh hoạt của miền núi trên đất Trung Hoa. Hình ảnh cô gái xay ngô trong “chiều tối” toát lên một vẻ mạnh mẽ, khỏe khoắn, đầy sức sống cùng sự trẻ trung của cô gái miền núi. Không bị hòa lẫn bởi cảnh sắc và không gian rừng núi, mà trái lại, cô gái ấy chính là điểm sang của bức tranh miền rừng kia.
Sự chảy trôi của thời gian trong mạch thơ đã mở ra một không gian khác. Hình tượng thơ đang có sự vận động từ tói đến sáng, từ buồn đến vui :”bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” (“xay hết lò than đã rực hồng”). Ở câu cuối, điệp từ “bao túc” được lặp lại đã tạo nên mối liên hoàn, nhịp nhàng vừa là vòng quay của cối xay ngô với động tác uyển chuyển, vừa diễn tả vòng lưu chuyển của thời gian khi chuyển từ tối đến sáng, từ chiều tối bất chợt hiện lên ánh sáng của “lò than đã rực hồng”. Trong câu kết bài, ở cuối dòng bỗng xuất hiện chữ “hồng” như bao quát được vẻ đẹp và sự sinh động trong cả bài thơ. Chữ “hồng” xuất hiện đã xua tan đi cái tối tăm của khung cảnh, đồng thời chấm phá cho bức tranh để nó trở nên đặc sắc, diễm lệ. bong tối đã buông xuống nơi núi rừng, ánh than “hồng xuất hiện như phủ sáng tàn cục của một ngày. Với chữ ‘hồng’ đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhạc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác” (Nguyễn Trung Thông). Có thể nói, đó là hình ảnh đẹp nhất bài thơ, gợi nên sự đầm ấm, hạnh phúc trong ngọn lửa gia đình, ánh lửa hồng gợi nên niềm lạc quan, yêu đời, ngập tràn ánh sáng. Chữ “hồng được đặt cuối bài thơ đã soi rõ vẻ đẹp của toàn bài và đặc biệt là hình ảnh cô thiếu nữ, tỏa ánh sáng và hơi ấm để xua đi vẻ đượm buồn và u ám của cảnh lúc chiều tà. Cảnh chiều tối ở xóm núi còn mang tính ước lệ đặc sắc, mở rộng liên tưởng đến cảm xúc của người nghệ sĩ. Đó cũng là lời tâm sự mang nặng tâm trạng buồn của nhà thơ với nỗi niềm nhớ nhà da diết:
” Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn”
(Chiều hôm nhớ nhà)
Bài thơ “chiều tối” đã thành công trong sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn người thi sĩ và người tù chính trị đầy lãng mạn và tài hoa. Đó cũng là những lời tâm sự đầy xúc cảm của người Cộng sản Hồ Chí Minh. Dẫu trong hoàn cảnh tù đày nhưng lời thơ bác vẫn mang đậm phong cách phóng khoáng, yêu đời, lạc quan cùng nỗi niềm và hy vọng về tương lai tươi sáng. Bao trùm và xuyên suốt bài thơ chỉ đơn giản là những hình ảnh về thiên nhiên và con người nơi núi rừng nhưng đã toát lên được vẻ đẹp về phẩm chất và tâm hồn người lãnh tụ yêu nước Hồ Chí Minh.
Bùi Phương Thảo
Mở Bài Và Kết Bài Cho Bài Thơ Chiều Tối
Chiều Tối ( Mộ), trích Nhật Kí trong tù- Hồ Chí Minh Mở bài. Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Ngoài văn chính luận người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng, trong đó nổi bật nhất là nhật ký trong tù. Đây được xem như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường chuyển lao đầy vất vả của người tù, nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép, người đã vượt qua hoàn cảnh tù đầy để hướng về cuộc sống. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của Tập thơ Nhật Ký Trong Tù. Thân bài. Tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam, sau 15 ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Bị giam cầm suốt 14 tháng và chuyển đi, chuyển lại suốt gần 30 nhà lao ở tỉnh Quảng Tây, trong thời gian này người đã sáng tác Nhật Kí Trong Tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Chiều Tối (mộ), được xem là bài thơ tiêu biểu của tập thơ được sáng tác trên đường chuyển lao từ tỉnh Tây đến Thiên Bảo. Kết bài. Bài thơ Chiều tối đã để lại ấn tượng trong lòng độc giả về những bức tranh thiên nhiên và con người miền Sơn cước, qua những nét vẽ vừa cổ điển, vừa hiện đại. Bài thơ đã làm cho người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái, bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Dù phải sống trong hoàn cảnh tù đầy nơi đất khách quê người, nhưng Bác vẫn vượt lên trên tất cả sự khổ đau, đoạn đầy về thể xác, để đem đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút./.
Ôn Tập Bài Chiều Tối ( Mộ) Sgk Ngữ Văn 11
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Người không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Một trong số đó là bài thơ “Chiều tối”. (Nêu vấn đề theo đề bài)
Bài thơ thuộc tập thơ “Nhật kí trong tù” – viết trong khoảng thời gian người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải đi khắp các nhà lao ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). “Chiều tối” là bài thứ 31 trong 134 bài của tập thơ, được gợi cảm hứng trong lần Người bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Hai câu đầu: khung cảnh thiên nhiên núi rừng Quảng Tây buổi chiều tối.“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. (“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không”.) Bằng bút pháp chấm phá trong thơ cổ, chỉ với vài nét vẽ “chim” và “mây”, Bác đã vẽ ra bức tranh núi rừng Quảng Tây buổi chiều tối. Trong thơ ca cổ, hình ảnh cánh “chim” thường tượng trưng cho thời gian chiều tối: “Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao) “Chim hôm thoi thót về rừng” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du) Thế nên, ngay đầu bài thơ, dù không có một từ chỉ thời gian nhưng người đọc vẫn cảm nhận được không gian sắp về tối. Tuy nhiên, thi liệu cổ ấy (“chim”) đã được Bác vận dụng sáng tạo. Trong thơ xưa, hình ảnh cánh chim thường được miêu tả qua trạng thái bên ngoài của nó (bay). Còn trong thơ Bác, Người cảm nhận sâu sắc trạng thái bên trong của nó : “chim mỏi” sau một ngày kiếm ăn vất vả. Tấm lòng thương yêu vô bờ bến của con người “chỉ biết quên mình cho hết thảy” đã đồng cảm với cánh chim mỏi mệt ấy. Bức tranh núi rừng buổi chiều muộn còn có “mây”. Đây cũng là thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” ( Thu điếu – Nguyễn Khuyến) “Cô vân độc khứ nhàn” (Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình – Thơ Lí Bạch) Nếu như hình ảnh đám mây trong thơ ca xưa thường gợi ra sự nhàn tản, thoát tục của một nhà nho tìm về với chốn làng quê ẩn dật thì trong thơ Bác, nó là hình ảnh của hiện thực. Trên đường chuyển lao, ánh mắt Bá hướng lên cao và bắt gặp đám mây trôi chầm chậm, lơ lửng (“mạn mạn”) trên bầu trời. Đám mây ấy gợi ra không gian tĩnh lặng nhưng cũng thanh bình, thơ mộng của vùng rừng núi buổi chiều muộn. Những cụm từ “quyện điểu” (chim mỏi) và “cô vân” (đám mây lẻ) vừa gợi tả cảnh, vừa gợi lên tâm trạng của con người. Sau một ngày bị giải đi bộ vất vả trên đường rừng núi gập ghềnh, chân tay lại bị xiềng xích, chờ đợi phía trước lại là một nhà lao khác chật chội, bẩn thỉu; lại đang ở nơi đất khách quê người nên Bác cũng cảm thấy mệt mỏi, cô đơn. Tuy vậy, ánh mắt Bác vẫn hướng lên bầu trời, đồng cảm với cánh chim “mỏi”, thả hồn theo đám mây lẻ trôi lững lờ. Phải có một tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết và một phong thái ung dung, tự tại, vượt lên trên hoàn cảnh thì mới có thể chan hòa cùng với thiên nhiên như thế. Hai câu đầu vừa đậm màu sắc cổ điển với bút pháp chấm phá và những hình ảnh thơ cổ; vừa đậm tính hiện đại với vẻ đẹp tâm hồn của người tù – chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là “chất tình” dào dạt và chất “thép” cứng cỏi thường gặp trong thơ Người.Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống con người miền sơn cước:“Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than đã rực hồng”. (“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.) Trên con đường chuyển lao, ánh mắt người tù cộng sản nhận ra người lao động trong công việc: cô gái xóm núi xay ngô. Cũng như các nhà thơ, nhà văn xưa, tấm lòng nhân đạo của họ hướng về những con người yếu đuối: người phụ nữ có số phận bất hạnh (Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; nàng Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ; nàng chinh phụ lẻ loi chờ chồng trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn…); Bác cũng hướng tới người phụ nữ, nhưng trong thơ Bác, đó lại là một người phụ nữ lao động bình thường, giản dị trong lao động. Đó chính là tình yêu thương của một chiến sĩ cộng sản đối với con người thuộc giai cấp vô sản, nhân dân lao động – đối tượng mà người dành cả cuộc đời mình đấu tranh vì họ. Điệp ngữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được lặp lại ở đầu câu bốn, gợi tả những vòng xoay liên tục, liên tục của cái cối xay ngô. Những vòng xoay liên tục ấy gợi ra không khí làm việc miệt mài, chăm chỉ và vẻ đẹp khỏe khoắn trong lao động của cô gái xóm núi. Cuối bài thơ là chữ “hồng”, được xem là “nhãn tự” của bài thơ. Một chữ “hồng” gợi không gian sáng rực, gợi không khí ấm áp, tươi vui. Thế đấy, dù đang mệt mỏi, cô đơn là thế, chỉ cần nhìn thấy người lao động cần cù, chăm chỉ trong cuộc sống đời thường, tâm hồn Bác đã rực lên niềm vui, ấm áp trở lại. Không như quy luật thông thường, chiều rồi chuyển dần về tối, cuối bài thơ lại là không gian sáng rực. Cái tài tình của Bác cũng là ở chỗ này. Cả bài thơ không có một chữ “tối”, thế mà người đọc vẫn thấy thời gian đã về tối rồi. Chính cái ánh lửa đỏ rực của lò than khiến người ta nhận ra điều đó, bởi trời có tối thì nhìn từ xa mới thấy được ánh lửa đỏ rực lên. Cùng với sự vận động của thời gian là sự vận động trong tư tưởng của Người: từ buồn sang vui, từ lạnh lẽo cô đơn sang ấm nóng tình người. Bác là thế đấy: dạt dào tình yêu – yêu con người, yêu cuộc sống mà vẫn luôn cứng cỏi, kiên cường, luôn lạc quan, yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, tương lai. Hình ảnh con người trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên và mạch thơ vận động hướng về sự sống, về ánh sáng ấy khiến hai câu sau đậm tính hiện đại. Cả bài thơ chỉ với hai mươi tám chữ mà chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc, ý nghĩa. Người đọc không thể nào quên được một tâm hồn thi sĩ chan chứa tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người, yêu cuộc sống và cũng không thể nào quên được bản lĩnh “thép” của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh – dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn ung dung tự tại, lạc quan, yêu đời, vượt lên trên tất cả để vui với niềm vui của người lao động, để hướng về phía ánh sáng, tương lai. Tóm lại, “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu của tập “Nhật kí trong tù”. Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và tinh thần hiện đại làm bài thơ vừa có dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt cổ kính vừa mang đậm tinh thần thời đại. Bài thơ vẽ ra bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người miền sơn cước mà Bác thấy trên đường chuyển lao, từ đó người đọc thấy được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống; tinh thần lạc quan yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, tin tưởng vào tương lai của thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho “những vần thơ thép” mà vẫn “mênh mông bát ngát tình” của Bác. Nghệ thuật cả bài thơ: Với hệ thống từ ngữ cô đọng, hàm súc, thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn…bài thơ bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống; kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh, luôn ung dung, tự tại và lạc quan trong mọi cảnh ngộ đời sống.
LUYỆN TẬP BÀI CHIỀU TỐIDựa vào kiến thức cơ bản và phương pháp làm bài nghị luận văn học về bài thơ, đoạn thơ, học sinh luyện tập với các đề sau: Đề 1: Phân tích bài thơ “Chiều tối” (Mộ) của Hồ Chí Minh. Đề 2: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ “Chiều tối” (Mộ) của Hồ Chí Minh.
Bài viết sưu tầm.
Phân Tích Bài Ca Dao Khăn Thương Nhớ Ai?
Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai?
Hướng dẫn
Ca dao yêu thương, tình nghĩa Việt Nam có những bài thật sâu sắc da diết về nỗi nhớ yêu đương: “Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ”, “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”… Mênh mông là biển thương trời nhớ hiển hiện trong thế giới ngôn từ mộc mạc bình dị. Không thể không nhắc tới một bài ca dao như vậy – Khăn thương nhớ ai?
Nhớ thương trong bài thơ trở nên có cung bậc, sắc điệu qua những biểu tượng nghệ thuật quen thuộc mà gợi cảm. Người con gái mượn chiếc khăn, nhờ ngọn đèn nói hộ tâm trạng mình. Cô cũng gửi vào ánh mắt da diết không lời, để rồi khép lại bài ca dao là những khắc khoải âu lo về tương lai hạnh phúc. Trong hệ thống biểu tượng ấy, chiếc khăn được nhắc đến đầu tiên. Một chiếc khăn kỉ vật của gặp gỡ đôi lứa chăng? Một chiếc khăn từ đó phải chăng đã là hình bóng người thương gần gũi quấn quýt bên người con gái? Chẳng thế mà đôi lứa xưa khi trao lời gửi ý thường mượn đến hình ảnh chiếc khăn “Gửi khăn, gửi túi, gửi lời / Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”. Động thái trữ tình của chiếc khăn trong bài ca dao này thật đặc biệt. Nó “thương nhớ ai” mà “rơi xuống đất”, mà “vắt lên vai”? Những vận động trái chiều của khăn trong nghệ thuật phối hợp, hai thanh bằng trắc mở ra một không gian ngập tràn nhung nhớ. Một tâm trạng bối rối, bồi hồi khiến con người “ra ngẩn vào ngơ” tưởng không còn chủ động trong bước đi, dáng đứng (Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đông lửa, như ngồi đống than). Đặc biệt là hình ảnh “Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt”, nỗi nhớ sao mà âm thầm, chỉ có khăn chia sẻ bên cạnh. Những giọt nước mắt lặng lẽ, không “đầm đầm như mưa” mà lắng đọng, chất chứa suy tư.
“Khăn thương nhớ ai?” đã trở thành điệp khúc da diết của tiếng gọi thương nhớ trong suốt phần đầu của bài ca dao. Theo thể cách vắt dòng, nỗi thương nhớ ở điệp khúc này đã gọi ra, hay là biểu hiện ở mọi động thái phía sau. Chiếc khăn trong nghệ thuật nhân hóa đã thay lời người mang khăn, nâng niu gìn giữ khăn mà thổ lộ nỗi niềm. Kín đáo mà vẫn rất mãnh liệt.
Nếu như nửa đầu bài ca là nỗi nhớ dâng đầy trong không gian thì hình ảnh ngọn đèn trong đêm không tắt lại khắc họa thêm một chiều thời gian nữa để nỗi nhớ hiển hiện đằng đẵng: “Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt”. Hình ảnh ấy vẽ ra bóng tối canh chày. Hình ảnh ấy đậm khắc bóng hình một người con gái lặng lẽ thao thức với nỗi nhớ trong đêm. Ánh đèn không tắt là ngọn lửa tình yêu ủ mãi trong tim. Ánh đèn không tắt là dằng dặc chờ đợi tưởng đến độ mỏi mòn đi vì nhung nhớ. “Khăn chùi nước mắt”, “Mà đèn không tắt” cách bắt vần và việc sử dụng thanh trắc kết nối hai biểu tượng khăn, đèn trong một trạng huống thông nhất. Đôi mắt người nhớ nhung đã thấp thoáng hiện ra từ giọt nước mắt ở những câu thơ trước, đến đây trực tiếp hiện hữu: “Mắt thương nhớ ai/ Mắt ngủ không yên”. Cái nét bút “điểm nhãn” của dân gian gói ghém được thật nhiều tâm trạng. Nỗi ưu tư trở nên nặng trĩu. Hiện ra trong cảm nhận của người đọc là ánh mắt nhớ thương trằn trọc trong đêm vắng, một mình một bóng với ngọn đèn khuya. Nỗi nhớ trong tình yêu có sức mạnh chi phôi thật lớn. Nỗi nhớ biểu hiện ra bên ngoài nhờ khăn, đèn, rồi lặn vào bên trong qua ánh mắt người nhung nhớ. Nhưng trong cách nói “Mắt ngủ không yên” dường như đã thấp thoáng những da diết khắc khoải đan xen của một sắc diện tâm trạng khác không chỉ còn là nỗi nhớ. Thì đây, những câu kết đã hé mở điều đó với người đọc: “Đêm qua em những lo phiền – lo vì một nỗi không yên một bề”.
Hóa ra không chỉ có nhớ. Còn là phấp phỏng lo phiền “không yên một bề” nữa. Bài ca dao đang từ thể vãn bôn có mạch liên kết “thương nhớ ai” kết nối tất cả các biểu tượng đến đây trải ra mênh mông nhiều chiều và ngổn ngang những nỗi niềm tâm trạng khác nhau. Em – nhân vật trữ tình – cô gái trong bài thơ còn lo phiền, “không yên một bề”. Tâm trạng thì đã rõ qua cách gọi tên. Nhưng “không yên một bề” – “một bề” lo lắng dằng dặc ấy là gì đằng sau sự nhớ thương mãnh liệt kia? Có lẽ đó là cái “một bề” của những phấp phỏng về tương lai hạnh phúc lứa đôi. “Khăn thương nhớ ai?”/ “Đèn thương nhớ ai?”, “Mắt thương nhớ ai?” – nhưng liệu có ai đang thương nhớ đến mất ăn mất ngủ, đến ngẩn ngơ ngơ ngẩn như mình không? Và từ yêu đương, gửi trao, thương nhớ, đến “Ước gì ta ở một nhà” là cả một khoảng cách vô cùng nằm ở giữa. Thân phận phụ thuộc, khó có thể tự quyết định cuộc đời mình trong xã hội xưa, những ràng buộc khắt khe tỏa chiết tình yêu hạnh phúc tự do, những nỗi lo lắng thể hiện “Thương anh chẳng dám nói ra/ Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời”… tất cả đó phải chăng là “một bề” lo lắng trong tâm hồn người con gái?
Tiếng tơ lòng của người dân lao động về yêu thương tình nghĩa đã cất lên như vậy đó. Thương nhớ không lửng lơ. Thương nhớ cứ muốn neo đậu vào khát vọng về một mái ấm sum họp và tình nghĩa muối mặn, gừng cay. Đó là điều làm nên cảm nhận sâu sắc của người đọc về tiếng nói trữ tình trong bài ca. Chiếc khăn, ngọn đèn và đôi mắt thương nhớ, những biểu tượng truyền thông ấy cứ thế mà thấm vào tâm hồn Việt Nam, chúng ta còn thấp thoáng nhận ra điều đó trong những tiếng thơ hiện đại: “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh / Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây / Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh / Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây” (Nguyễn Đình Thi)
Nguồn: chúng tôi id=”M201269ScriptRootC940950″>
Đề Bài: Phân Tích Đoạn Thơ Trong Bài Thơ “Tây Tiến” Của Quang Dũng
Đề bài : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đềm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. (Ngữ văn 12 – tập I, tr.89) Đáp án – Hướng dẫn làm bài I. Giới thiệu vài nét về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và bút pháp (xem ở đề trước) II. Phân tích – bình giảng đoạn thơ 1. Trước hết, tác giả gửi về Tây Tiến nỗi nhớ rừng núi, nỗi nhớ về đơn vị cũ đến da diết “chơi vơi” – Nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ, đoạn thơ bao trùm lên cả không gian và thời gian. Nỗi nhớ ấy như trào dâng cả tâm hồn đến mức không kìm nén nổi, đã cất lên thành tiếng gọi: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Chú ý phân tích từ láy “chơi vơi” rất đặc sắc, vừa gợi cảm, vừa gợi hình: nỗi nhớ da diết, cháy bỏng như có hình, có khối gợi được một không gian bao la, thời gian như xa thẳm. 2. Hình ảnh núi rừng trùng điệp hoang sơ mà nên thơ khỏe đẹp và con đường hành quân gian khổ của người lính “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Những địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” gợi lên không gian hoang sơ nơi xứ lạ. Câu thơ trên tả sương rất dữ dội. Câu dưới, cảm giác mệt mỏi của người lính như được xua đi bởi một hình ảnh đẹp lung linh như trong cõi mộng “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Câu thơ có nhiều cách hiểu, nhưng cách dễ hiểu được người đọc chấp nhận là tả cảnh đoàn người đốt đuốc đi trong đêm mịt mù hơi sương trông lung linh như những bông hoa. Đúng là “một hình ảnh thơ mang đậm tâm hồn thi nhân”. Câu thơ được viết hầu hết là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, chơi vơi, tài hoa và lãng mạn. b. Tiếp tục cảm hứng lãng mạn ấy, khung cảnh núi rừng hiểm trở với thác lũ mưa nguồn, dữ dội, hoang sơ, heo hút, điệp trùng và độ cao ngất trời của Tây Bắc cứ sống dậy trước mắt người đọc. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” c. Hai câu thơ đầu diễn tả độ cao ngất trời và sự chênh vênh heo hút của núi đèo Tây Bắc. Chú ý các từ láy rất giàu giá trị tạo hình được sử dụng với mật độ cao: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” Thủ pháp điệp từ, đối lập được khai thác triệt để. Câu thơ đầu nghe như có tiếng thở nặng nhọc của người lính. Câu sau có chữ “ngửi”; “súng ngửi trời” được sử dụng rất bạo và có tính chất tinh nghịch rất “tếu” thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời, có cái gì đó như là thách thức với gian khổ, hiểm nguy của người lính. d. Hai câu sau: Câu thứ ba có sự ngắt nhịp ở giữa như bẻ đôi, diễn tả hai sườn núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. – Câu thứ tư toàn thanh bằng, tạo cảm giác lâng lâng, chơi vơi. Có thể hình dung người lính đã nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm, đến đây như dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa để thấy nhà ai đó thấp thoáng ẩn hiện một không gian mịt mù sương rừng mưa núi như trôi “bồng bềnh” giữa biển khơi. Câu thơ tạo ấn tượng như thực, như ảo rất thú vị. 3. Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân a. Hai câu thơ tiếp theo vừa tiếp nối mạch cảm xúc về thiên nhiên Tây Bắc, vừa làm nổi rõ hình ảnh người lính: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Tây Bắc dữ dội, hoang sơ, không chỉ được mở ra chiều không gian, theo những địa danh xứ lạ: “Sài Khao”, “Mường Lát” mà còn được kéo dài theo chiều dài thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm”. Dường như nơi ấy chỉ có thác gầm cọp hú suốt ngày đêm. b. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, hoang dã ấy, nổi bật lên hình ảnh người lính “gục lên súng mũ bỏ quên đời” giữa chặng đường hành quân dãi dầu gian khổ. Câu thơ có thể hiểu theo hai nghĩa: Người lính mệt mớỉ gục lên súng mũ ngủ quên hết thày sự đời. Và cũng có thể hiểu theo nghĩa thứ hai: Người lính chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Hiểu theo cách này làm nổi bật hơn khí phách và chất bi tráng của người lính. c. Giữa những kỉ niệm đầy hi sinh, gian khổ, 2 đoạn thơ được Quang Dũng khép lại bằng hình ảnh “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”, một hình ảnh bình dị ấm áp đầy tình người và ngọt ngào tình quân dân, gợi không khí gia đình của đồng bào dân tộc, đặc biệt là những cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng, có tấm lòng thơm thảo đón tiếp niềm nở các anh bộ đội Tây Tiến.
Phân Tích Bài Thơ Ngày Xuân Dặn Các Con Của Nguyễn Khuyến
Phân tích bài thơ Ngày xuân dặn các con của Nguyễn Khuyến Hướng dẫn Nguyễn Khuyến để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Riêng về mảng thơ viết về gia đình đã có hàng chục bài; bài nào cũng ân tình, ân cần và tha thiết. Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm có hai bài theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương. Bài thơ dịch của Vũ Mộng Hùng được đánh giá là bài thơ … Hướng dẫn
Nguyễn Khuyến để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Riêng về mảng thơ viết về gia đình đã có hàng chục bài; bài nào cũng ân tình, ân cần và tha thiết. Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm có hai bài theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương. Bài thơ dịch của Vũ Mộng Hùng được đánh giá là bài thơ dịch hay nhất.
Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy nghiệp nhà: nghiệp nho gia, thanh bạch và cần kiệm. Đó là nội dung bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-l này.
Nhiều tài liệu cho biết: thân sinh Nguyễn Khuyến là một ông đồ nghèo. Vợ Nguyễn Khuyến là một phụ nữ đảm đang “hay lam hay làm, thắt lưng bó qua, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu…”. Nhà nghèo, bà từng bán thêm chiếc yếm để chạy đủ tiền cho chồng đi thi; khi chồng đã đỗ ông Nghè, vinh quy, thì vợ đang cấy mướn ở một đồng xa, mới chạy tắt đồng về. Thuở thiếu thời, Nguyễn Khuyến có lúc phải vừa đánh dậm vừa đi học. Sau hơn mười năm làm quan, Nguyễn Khuyến trở về làng cũ sống cuộc đời thanh bạch trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, nơi vườn Bùi thuộc vùng đồng chiêm nước trũng huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy gia phong nếp nhà: “Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta”. Năm chữ Hán “ngô tự ái ngô lư” thể hiện một cách kín đáo, thâm trầm niềm tự hào về nghiệp nhà nho gia thanh bạch.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, người cha nói rõ với các con về cái sự nghèo của nhà mình. Chẳng có ruộng tứ bề, vàng bạc đầy kho, mà sau khi đi làm quan xa, lui về “vườn Bùi chốn cũ” gia sản chỉ có “không đầy chín sào đất” và “một bó sách” của gia tiên để lại. Thật là thanh bạch đáng kính. Vũ Mộng Hùng đã dịch rất hay hai câu thơ đăng đối hài hòa:
Mới đọc qua phần luận tưởng như tả cảnh. Thời tiết không thuận, trời u ám “khói dày” lại “mưa ít”. Núi để làm bạn thì núi trở thành xa tắp trong những ngày đầu xuân. Cúc là bạn cũ thì cúc cũng chỉ nở lơ thơ cạnh tường. Thoáng một chút cô đơn. Hình ảnh người cha có tâm hồn thanh cao, trong sáng, có phong thái ung dung hiện lên sau vần thơ:
Phần luận mang tính hàm nghĩa nhất là hai thi liệu “sơn sắc” (sắc núi) và “cúc hoa” (hoa cúc). Nó đem đến liên tưởng về Đào Tiềm (365 – 427), một danh sĩ cao khiết ở đời Tấn; người mà nhà thơ Nguyễn Khuyến hay nhắc đến: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (Thu vịnh), “Thơ Đào ngâm vịnh đưa câu rượu” (Vịnh mùa hè),… Sắc núi và hoa cúc trong thơ Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến những vần thơ của Đào Tiềm:
Nguyễn Khuyến đã noi gương Đào Tiềm để giữ vững khí tiết và nếp sống thanh bần của một nhà nho giữa thời loạn lạc. Các con cũng nên noi gương cha để giữ lấy nghiệp nhà. Đó là tính hàm nghĩa của phần luận bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-ỉ.
“Đừng quên lúa, đậu, cà” là đừng quên nghề nông, phải biết gắn bó với quê hương ruộng đồng, chan hòa với chốn quê… Trong bài số 2 “Ngày xuân dạy các con”, Nguyễn Khuyến phàn nàn giữa thời loạn lạc cha đã già yếu “thếmà các con hãy còn say sưa đàn hát mãi”:
(Tác giả tự dịch)
Như ta đã biết, con cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan biết nối chí cha, giữ nghiệp nhà, thi đỗ Phó bảng. Con thành đạt sao bố mẹ không vui? Bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-ỉ là một bài thơ rất hay; hay vì lời đạm mà tình sâu, đó là tình cha – con sâu nặng: hết lòng chăm sóc dạy bảo và thương yêu các con.
Nguồn: chúng tôi
Cho thuê phòng trọ Cho thuê phòng trọ hà nội Cho thuê phòng quận 7 Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối Cua Hồ Chí Minh Tuyệt Hay trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!