Xu Hướng 3/2023 # Phân Tích Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 5 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Phân Tích Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Bài làm

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ qua bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”, “Tre Việt Nam”. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”.

Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim.

Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ.

Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ cánh đồng mênh mông, từ dòng sông bến nước – nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đến những năm tháng “hồi chiến tranh ở rừng” gian khổ, vất vả, ánh trăng từ kí ức tuổi thơ ấy đã thành “tri kỉ”, thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai dấu mốc thờ gian “hồi nhỏ” và “hồi chiến tranh” đã khiến cho ánh trăng trở nên gần gũi và nghĩa tình ở khổ thơ tiếp:

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi.

Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo

  Từ hồi về thành phố

Quen đèn điện của gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Ở hai câu thơ sau của khổ thơ này, giọng thơ chùng xuống khiến người đọc nghèn nghẹn. Và đặc biệt cách dùng từ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi.

Để rồi ở khổ thơ tiếp, tác giả đã tạo ra tình huống đặc biệt khiến tác giả nhận ra:

Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn-đinh tối om,

Vội bật tung cửa sổ,

Đột ngột vầng trăng tròn.

Đến khổ thơ này thì tứ thơ đã đột ngột thay đổi, có lẽ chính bản thân tác giả thay đổi lớn nên mới dẫn đến sự thay đổi bất ngờ của tứ thơ như thế này. Sau chiến tranh, tác giả trở về với cuộc sống thường ngày, bận rộn với thực tại và có thể đã “quên mất” quá khứ, quên mất người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Chính cuộc sống đủ đầy hiện tại với đèn điện sáng trưng, ánh trăng trở nên mờ nhạt. Đến khi “đèn điện tắt” tác giả mới giật mình, thảng thốt nhận ra căn phòng tối om và nhận ra lương tâm mình đã thay đổi. Từ “thình lình” được tác giả dùng một cách độc đáo, có thể nói đây chính là “sự không vững” trong tâm hồn, một sự chuyển biến bất ngờ, nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên không vững. Cửa sổ “bật tung”, có một điều khiến tác giả cảm thấy hổ thẹn “đột ngột vầng trăng tròn”. Câu thơ này có ý thơ rất lạ, nói đúng hơn là từ ngữ rất lạ, vầng trăng không thể “đột ngột” tròn được, bởi vốn dĩ từ xưa đến nay nó vẫn tròn như thế, chỉ có con người vô tâm mới không nhận ra điều đó.

Thực sự đến khổ thơ này, tác giả đã nhận ra sự vô tâm, hờ hừng của bản thân đối với quá khứ, đối với “người bạn tri kỉ” một thời gắn bó. Với 4 câu thơ ngắn gọn, nhưng lại khiến người đọc thấy lương tâm của mình rung động lạ kì.

Đối diện với ánh trăng, tác giả nhận ra “có cái gì rưng rưng”, là ánh trăng rưng rưng hay là lòng người rưng rưng, có lẽ là cả hai. Một sự hội ngộ bất ngờ và đầy day dứt của tác giả. Ánh trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn tròn đầy và thủy chung như xưa, chỉ có con người đổi thay.

Đến khổ thơ cuối, tứ thơ trở nên sắc nhọn:

Vầng trăng tròn vành vạnh

 Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật minh

Một phép đối lập song song đủ khiến cho lương tâm của con người được thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều. Cách dùng từ “vành vạnh”, “phăng phắc” đủ để người đọc nhận ra sự nghiêm khắc của ánh trăng khiến cho con người “giật minh”, thức tỉnh. Dù cuộc sống đổi thay, con người thay đổi, ánh trăng vẫn thế, bao dung và rộng lượng. Khổ thơ cuối đã gieo vào lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả và thức tỉnh những người đang dần lãng quên đi quá khứ.

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy với tứ thơ lạ, độc đáo, cách viết mới mẻ, hấp dẫn, từ ngữ “độc” và hơn hết là tình cảm của tác giả đã để lại trong lòng người đọc nhiều bài học sâu sắc nhất.

Ánh Trăng Của Nguyễn Duy

Đề bài: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

“Cát trắng” và “Ánh trăng” là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

Níu váy bà đi chợ Bình Lâm

Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm

“Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, “Ánh trăng”, “Đò Lèn”… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ “Ánh trăng” rút trong tập thơ cùng tên, được tác già viết vào năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lăng quên.

Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam” câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ “Ánh trăng ” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phảỉ chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dỏng chảy của thời gian, kỉ niệm?

Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng tràng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sông với đồng – với “sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng tạ dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… Chỉ có trăng sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em.. ” (Trăng sáng sân nhà em)”.

Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:

vầng trăng thành tri kỉ.”

“Và vầng trăng, vầng trăng Đất nước

Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”.

Các tao nhân ngày xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt “, còn anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ trăng Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “hồi chiến tranh ở rừng – vầng trăng thành trì kỉ”

Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – Một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

“Trần trụi với thiên nhiên

Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ” “vầng trăng tình nghĩa ” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa”

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: ở buynh đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:

như người dưng qua đường.”

Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành. .

Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc. Cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành” của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:

“Thình lình đèn điện tắt

đột ngột vầng trăng tròn.”

Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:

Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, “trong bài “Nguyệt cầm” viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách thế mà người lính cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. “Rưng rưng” nghĩa là yì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lệ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:,.. “như là đồng, là bể, như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hòi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

“Ánh trăng” là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân – đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

Từ khóa tìm kiếm

phân tích bài thơ ánh trăng của nguyễn duy

anh trang cua nguyen duy

Sơ Đồ Tư Duy Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy

Gửi bài viết qua email

Lưu bài viết này

Sơ đồ tư duy bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Đăng lúc: Thứ bảy – 30/11/2013 19:56. Đã xem 18063

Chuyên mục :

Ánh Trăng

Một tác phẩm không thể thiếu khi ôn thi vào lớp 10

Tác giả bài viết:

Hội ôn thi vào lớp 10

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://thivao10.com là vi phạm bản quyền

Từ khóa:

Sơ đồ tư duy bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Đánh giá bài viết

52

14

3.7

/

5

Phân Tích Đạo Lý Uống Nước Nhớ Nguồn Qua Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy

Phân tích đạo lý uống nước nhớ nguồn qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy

-Trăng đã từ lâu đi vào trong lòng người qua rất nhiều tác phẩm văn học. Trăng không rực rỡ chói chang như mặt trời, nhưng trăng lại là nguồn cảm xúc để cho ta gợi lên những nỗi niềm sâu lắng.

-Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam bài thơ Ánh trăng thật đặc sắc. Ba khổ cuối của đoạn thơ gợi nhắc chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

b.Triển khai:

-Ở những khổ thơ đầu, tác giả kể về thuở nhỏ, lúc chiến tranh, trăng và con người chung sống thân thương, tri kỉ. Khi cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương, với những vật dụng ngày càng hiện đại thì con người quên đi ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường.

-Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co uốn khúc. Cuộc sống hiện đại luôn có những biến động bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị cùa quá khứ gian lao mà nghĩa tình:

thình lình đèn điện tắt phòng buynh đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn.

-Nhà thơ chỉ sử dụng bốn câu, hai mươi từ, các từ thình lình, vội, đột ngột diễn tả tình thái đầy biểu cảm thể hiện sự bất ngờ, ngẫu nhiên của cuộc tri ngộ. Hoàn cảnh gặp gỡ đó khiến nhà thơ bàng hoàng. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc ánh trăng cho ánh điện. Ở đây còn là sự thức tỉnh và gợi nhớ cho ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị trong cuộc sổng. Hành động bật tung diên tả trạng thái cảm xúc thật mạnh mẽ, bất ngờ, có cái gì đó như là thảng thốt, lo âu trong hình ảnh vội bật tung cứa số.

-Vâng trăng tròn đâu phải khi đèn điện tắt mới có. Cũng như nhũng năm tháng của quá khứ, vẻ đẹp cùa đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Nhưng đột ngột vầng trăng tròn lạ là một biên cố. Chính biến cố này đã cánh tinh tâm hồn nhà thơ.

-Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường trong khổ thơ thứ tư chính là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chú đề tác phẩm. Chính vì sự xuất hiện đột ngộ trong đặc biệt trong bối cảnh đặc biệt ấy, vầng trăng xuât hiện bât ngờ mà tự nhiên đã gọi lại bao nghĩa tình. Một sự việc xay ra, kéo con người về quá khứ. Noi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương, người ta chăng mấy lúc cần, ít khi chú ý đến ánh trăng. Sự xua hiện đột ngột của vầng trăng ờ tình huống đặc biệt mới tự nhiên gây ấn tượng mạnh. Chính sự xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao kỉ niệm nghĩa tình: ngứa mặt lên nhìn mặt có cái gì nmg rung như là đông Ici bê như Ici sông là rùng.

-Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này, như có một cái nhìn đầy áy náy, xót xa: ngừa mặt lèn nhìn mặt. Hai chừ mặt trong vần thơ mặt trăng và mặt người cùng đôi diện đàm tủm. Nhà thơ đối diện với vầng trăng cũng là đối diện cũng chính là đối diện với lương tâm cùa mình. Đây là sự đối diện với quá khứ và hiện tại, giữa sự thủy chung và bội bạc, giữa lòng vị tha và thói ích kỉ.

-Trăng chẳng nói, chẳng trách, thế mà người lính như cảm thấy có cái gì đó rung rưng. Rung rung nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra và sắp khóc. Quá khứ ùa vè bao kỉ niệm đẹp của một đòi ngưòi ùa về, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với done, với sông, với bể, với rừng.

-Cấu trúc câu thơ song hành, nghệ thuật so sánh với điệp tù’ là cho ta thấy ngòi bút của tác giả thật tài hoa. Sự gặp gỡ bất ngờ giữa người và trăng là sự gặp gỡ những người bạn, những tâm hồn tri âm tri ki. Nhà thơ xúc động nghẹn ngào vì gặp lại cố nhân, gặp lại một gương mặt thân yêu và cũng chính là gương mặt cùa chính tâm hồn mình. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột cùa vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí của nhà thơ về hình ảnh thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hòa hiện hình trong nỗi nhớ, trong cảm xúc rưng rưng cùa một con người đang sống giữa phố phường hiện đại. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh:

-Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầv, viên mãn, thuỷ chung. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng im phăng phắc, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng, vầng trăng dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. Ánh trăng hay cũng chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Chỉ im lặng thôi vầng trăng đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đây u tôi. Ánh trăng là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là hiện thân của lòng bao dung trắc ẩn. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.

-Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái giật mình của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lay quá khứ đê soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mồi con người. Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm cùa nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức am ảnh thật lớn đối với người đọc. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch, chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng độc đáo và hàm súc của ngôn ngữ, hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thìa.

-Đoạn thơ với thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ.

-Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi nhất của cuộc đời. Đoạn thơ không chỉ là lời tự nhắc nhờ bản thân của Nguyễn Duy mà còn là thông điệp của tác giả muốn gửi gắm đến mọi người về thái độ sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!