Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Hầu Trời Lớp 11 Của Tản Đà được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tản Đà là một người của hai thế hệ – thời kì Hán học đã tàn và Tây học mới bắt đầu. Xuất thân trong một gia đình quan hệ phong kiến theo học chữ Hán và chữ quốc ngữ. Tản Đà có lối sống phóng khoáng, không chịu ép mình trong khuôn khổ chơi ngông với cuộc đời. Bài “Hầu Trời” là một trong những tác phẩm đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật phong cách thơ của thi sĩ.
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mộng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm.
Sao được đêm đêm lên hầu Trời!”
Câu chuyện “Hầu Trời” được bắt đầu bằng hàng loạt các chi tiết sắp xếp theo một trình tự hợp lí để tạo ra cốt truyện chặt chẽ và tự nhiên. Mở đầu câu chuyện tác giả thật khéo léo và hợp lí với tự nhiên. Tản Đà kể cho người đọc một câu chuyện về một cảm giác bang khuâng, bang khuâng của người đi trong mộng với câu hỏi nghi vấn. Thi sĩ đã tự hỏi mình “có hay không” “thật hay giả” và tác giả đã nghiêng câu hỏi về một hướng khẳng ddingj đó là sự thật của cảm xúc vẫn còn rất “thời sự”. Mới chỉ là đêm qua, cái thật của khát vọng được thỏa chỉ cho đôi cánh, tài năng tự do bay bổng. Đó là một điều hấp dẫn đặc biệt đưa người đọc từ thế giới thực bước vào cảm xúc lãng mạn cùng với tác giả và câu chuyện Hầu Trời.
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Qua ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ giữa thi sĩ và các nhân vật ;úc đầu còn là yêu cầu truyền lệnh, sai gọi, con xin đọc… những khi tiếng thơ được cất lên một cách hào hứng say xưa thì chỉ còn là mối quan hệ giữa tác giả và độc giả… Nhiệt tình, phấn khích và họ không ngần ngại gọi thi sĩ bằng anh.
Câu chuyện Hầu Trời thấp thoáng nụ cười nhẹ nhàng khôi hài vừa đạo mạo vừa suồng sã. Nó tạo lên một tiếng cười mang tinh thần dân chủ, thể hiện rõ nét con người có tính sáng tác của tác giả, thể hiện cái tôi tài hoa của tác giả. Tản Đà công khai đắc ý nói về mình:
“Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật cười!”
Để chứng minh cho Trời và các chư tiên thi sĩ đã dẫn ra hàng loạt những tác phẩm đã được in và bán dưới hạ giới. Thi sĩ cũng tự tôn tài năng của mình qua thái độ trầm trồ, thán phục, suýt xoa của các vị chư tiên. Trời khen văn tài thi tài cao cường.
“Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít? Nhời văn truốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây truyển! Êm như gió thoảng! tinh như sương! Đầm như mưa sa! lạnh như tuyết!”
Thi sĩ rất đắc ý và sung sướng tán thưởng lời thẩm định của Trời như một thước đo chính xác cho tài năng của mình. Đó là sự giàu có về nội dung đa dạng về hình thức.
Thi sĩ đã tự nhận mình là trích tiên được trời tin tưởng giao phó nhiệm vị thiên lương được lương thịnh dưới hạ giới. Khẳng định cái ngông, cái tài hoa văn học. Cuộc hầu Trời trong tưởng tượng diễn ra khoảng hai canh giờ nhưng đã để lại nỗi niềm bang khuâng và một khát khao chân thành tha thiết của thi sĩ:
“Một năm ba trăm sáu mươi đêm Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”
Hầu Trời quả là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mật thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những nãm hai mươi của thế kỉ XX. Khát vọng sống với văn thơ với những con người yêu và sành thướng văn thơ
Phân Tích Bài Thơ Tôi Yêu Em Của Puskin Lớp 11
Puskin được mệnh danh là ” Mặt trời của thi ca Nga” với những tác phẩm vô cùng xuất sắc viết về tình yêu. Hồn thơ của Puskin thường nói đến vẻ đẹp nội tâm con người cùng lòng nhân ái của tâm hồn nhân loại. Trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, ” Tôi yêu em” là một khúc ca về tinh yêu với đầy đủ cung bậc cảm xúc khi yêu, có thổn thức, có mong nhớ nhưng cũng nhiều nuối tiếc về mối tình đơn phương của tác giả.
“Tôi yêu em” dường như là một lời giãi bày tình cảm của tác giả một cách chân thành và sâu sắc nhất.
Câu thơ cất lên một cảnh giản dị, chân thành như chính nỗi lòng của tác giả đang gửi gắm đến người mà mình yêu thương. Từng câu thơ chậm rãi, mang theo chút ngượng ngùng nào đó. Tác giả dùng từ ” chừng có thể, chưa hẳn” để nói về sự vương vấn gì đó chưa thật sự dứt khoát. Tác giả có lẽ đang sợ điều gì đó, sợ mình làm cho người ta sợ. Mặc dù vậy nhưng câu thơ phần nào đã bày tỏ được tình yêu say mê của tác giả, đó là tình cảm đã xuất phát từ lâu lắm rồi chứ không phải chỉ mới bắt đầu.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bỗng nhiên giọng thơ thay đổi hoàn toàn:
Tình cảm trong trái tim của người dù đã rõ ràng rồi, nhưng nhân vật lại không muốn làm khó đối phương, làm cho người ta phải khó xử. Một trái tim yêu nồng nàn nhưng cũng rất lý trí. Hai câu thơ được ngắt ra bởi từ ” nhưng”, thể hiện sự dứt khoát, rõ ràng đối với người con gái. Nhân vật ” tôi” tự ý thức được bản thân mình thế nào, dù có phải chịu ấm ức hay chuyện gì thì cũng không muốn để người con gái phải bận lòng thêm. Có lẽ nhân vật lúc này sẽ cảm thấy rất buồn và suy nghĩ, khi không biết đối phương đang nghĩ gì và muốn gì. Nhân vật ” tôi” thật sự có một trái tim đa sầu đa cảm , biết nghĩ cho cảm xúc của người khác chứ không chỉ biết đến bẻn thân mình. Cảm xúc của nhân vật ” tôi” ở đây chắc chắn đang bị dồn nén, không được thoát ra, không được bày tỏ khiến cho nhân vật trở nên khó chịu mà không biết tỏ cùng ai.
Nhưng rồi cảm xúc bỗng nhiên vỡ òa ở bốn câu thơ tiếp. Tình yêu là như vậy, cảm xúc không thể giữ lại trong trái tim, mà phải được bật tung ra. Điệp từ ” tôi yêu em” một lần nữa xuất hiện, như lời khẳng định chắc chắn về tình yêu của chàng trai:
Tình yêu của chàng trai vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên như thế nhưng giờ đây không chỉ giấu ở trong tim nữa mà đã được giãi bày thẳng thắn với cô gái. Bởi lẽ dù tình yêu âm thầm, không hi vọng nhưng đó dù sao cũng là tình cảm chân thành, không gian dối. Những câu thơ với nhịp thở trở nên nhanh hơn, dồn dập hơn, như là nhịp đập của con tim người đang yêu nồng nàn và mãnh liệt.
Điều đặc biệt xuất hiện ở câu thơ cuối, câu thơ được coi là điểm nhấn của bài thơ. Câu nói của nhân vật rất khéo léo, tinh tế khi thể hiện được tình cảm của bản thân, nhưng cũng thể hiện được sự vị tha, hi sinh vì hạnh phúc của người mình yêu. Có lẽ nhà thơ đang tự khẳng định một lần nữa tình yêu dành cho người con gái. Dù không được đền đáp nhưng tình yêu đó vẫn mãnh liệt và không chấm dứt. Tình yêu đó là một thứ tình yêu cao cả, và đáng khâm phục. Nhưng đâu đó trong tình yêu vẫn có chút ghen tuông, hờn giận. Bởi nếu không ghen thì đã không nghĩ đến người khác cũng dành tình cảm cho cô gái. Một bản hợp xướng tuyệt vời với đầy đủ cung bậc cảm xúc trong tình yêu, những điều không thể thiếu của những người đang yêu.
“Tôi yêu em” là một bài thơ vừa chân thật, gần gũi nhưng cũng vô cùng lãng mạn, đẹp đẽ. Đây được coi là một bài thơ tình xuất sắc, không thể thay thế của Puskin khi miêu tả được đầy đủ những cung bậc cảm xúc của tình yêu theo một cách tinh tế nhất.
Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Tràng Giang Lớp 11
Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang
Bài 1
Huy Cận nhà thơ xuất chúng của phong trào thơ mới, thơ của ông mang nhiều tâm trạng, nỗi buồn của chính thi nhân và nỗi sầu nhân thế. Đoạn cuối của bài thơ Tràng giang là một trong số đó.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Tác giả sử dụng từ lớp lớp để nói về hình ảnh những đám mây trên bầu trời nhiều đến nỗi tạo thành núi, được ánh nắng chiếu vào như dát màu bạc. Những cánh chim nhỏ, lẻ loi đang chao liệng trên bầu trời rộng lớn, nhìn vào hình ảnh đó tác giả cảm thấy lòng cô đơn trống trải vô cùng. Đó phải chăng là hình ảnh của chính tác giả cô đơn,quanh liêu giữa dòng đời. Huy Cận đã sử dụng biện pháp đối lập thiên nhiên với thiên nhiên đó là hình ảnh cánh chim lẻ loi giữa nền bầu trời bao la, rộng lớn. Hình ảnh “cánh chim” và “bóng chiều” cũng xuất hiện rất nhiều trong thi ca cổ điển.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hai câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, “dợn dợn” là từ láy chưa từng xuất hiện trước đó, từ láy này kết hợp với “con nước” gợi cho ta sự lên xuống của sóng biển đó cũng là nỗi nhớ đang dâng trào mãng liệt trong chính nhà thơ.
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” khói là chất xúc tác quan trọng gợi nhớ đến quê hương, tác giả khẳng định rằng đâu cần những thứ xúc tác, không cần những khung cảnh bóng chiều tà mới nhớ nhà, tình yêu và nỗi nhớ thương quê hương luôn trong sâu thẳm tâm hồn của thi nhân.
Bài thơ Tràng Giang không chỉ thể hiện cảm giác buồn hay nhớ thương quê hương thông thường, mà còn thể hiện được tâm trạng lúc bây giờ đó là nỗi đau xót trước cảnh nước mất nhà tan, đó cũng là tình cảnh chung của những thi nhân đương thời.
Bài 2
Huy Cận thơ của ông mang nhiều nỗi buồn cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn đó về những con người, kiếp người và về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang chính là nơi tác giả bài thơ nhiều tình cảm của bản thân với quê hương, đất nước. Đặc biệt trong khổ cuối thể hiện nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.
Trong ba khổ đầu, tác giả dùng biện pháp tả cảnh ngụ tình để mô tả những con người nhỏ nhoi, thấp cổ bé họng thì trong khổ cuối, ông đã hòa chung sự cô độc bản thân vào nỗi nhớ quê nhà nhớ quê lên tầng thiên nhiên cao, rộng lớn hơn nhiều: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Một câu thơ tưởng như đơn giản nhưng khiến người đọc choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Từ láy lớp lớp khiến cho chúng ta có cảm giấc mây như dày, tầng lớp và núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo. Huy Cận còn lấy cảm hứng từ trong thơ Đỗ Phủ vào bài thơ.
Các cụm từ đùn và lớp lớp khiến không gian như rộng và cao hơn rất nhiều. Điều này khiến nhân vật trữ tình đã cô độc nay lại còn nhỏ nhoi trước thiên nhiên. Hình ảnh núi mây Huy Cận còn khiến độc giả có sự liên tưởng về nỗi buồn trong lòng Huy Cận xếp chồng lớp lên nhau đó là tâm trạng sầu thảm của chính tác giả.
Giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn còn có cánh chim nhỏ bé: Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Thơ Huy Cận cánh chim không thật sự tĩnh lặng mà nó đang đập cánh chao nghiêng trong một không gian thiên nhiên vô tận.
Hai câu thơ cuối Huy Cận cảm thấy cô độc, lẻ loi và nhớ nhà da diết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Dợn dợn từ ngữ chỉ có trong thơ của Huy Cận, ông lại sáng tạo ra một từ láy riêng cho mình. Hai thanh nặng như là nỗi buồn của tác giả vào hố sâu tuyệt vọng. Từ dợn dợn tựa như những con sóng dợn buồn trong lòng nhà thơ Huy Cận.
Câu thơ cuối của Tràng giang dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê còn Huy Cận lại phát triển thêm ý thơ đó là “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, đối với ông tình yêu quê hương, đất nước trong lòng ông lúc nào cũng có sẵn mà không cần một thứ xúc tác nào khác.
Trong Tràng Giang khổ thơ cuối đặc biệt với sự u ám và thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương của chính tác giả. Qua bài thơ tác giả mong muốn cuộc sống này trở nên ý nghĩa và tốt đẹp.
Xem nhanh bài viết Phân tích bài thơ Tràng giang lớp 11 hay được tuyển chọn.
Lớp 11 –
Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Lớp 11 Hay Đầy Đủ
Bài tham khảo phân tích bài thơ Tràng Giang trong Ngữ Văn 11, bài phân tích mẫu giúp các anh/chị làm văn tốt hơn.
Nếu như nhắc đến các nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới phải nói đến Huy Cận, thơ của ông mang nỗi u sầu, nỗi niềm của tác giả trước thời đại đặc biệt là bài thơ Tràng Giang, bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
“Tràng giang” được tác giả sử dụng trong khổ thơ đó là từ Hán Việt có nghĩa là con sông dài, trên dòng sông đó sóng không dữ dội mà lại nhẹ nhàng chỉ là sóng gợn nhẹ nhàng, con sông như mang theo nỗi buồn, những con sóng nhỏ cứ xô vào nhau nối tiếp nhau đến tận chân trời, mỗi con sóng như chất chứa tâm sự buồn của tác giả.
Trên dòng sông dài vô tận đó, tác giả bắt gặp hình ảnh con thuyền “xuôi mái nước song song”, con thuyền cũng không buồn là mà để mặc trôi theo dòng nước. “Thuyền về nước lại” hình ảnh có phần đối lập, thuyền và nước vốn gắn bó với nhau nhưng thực tế thì mỗi con sóng chỉ xuôi theo thuyền chốc lát rồi vội vã chia xa. Trong dòng thơ thứ 3 của khổ đầu tiên đó là sự chia ly của cảnh vật đó cũng là ẩn dụ cho hình ảnh của con người.
Trong dòng thơ cuối “Củi một cành khô lạc mấy dòng” tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “củi” được đưa lên đầu câu nhằm nhấn mạnh cành củi khô nhỏ bé trôi nổi, bấp bênh giữa dòng đời vô định đó cũng chính là số phận của thi nhân đương thời.
Khép lại khổ đầu tiên là sự cô đơn, nỗi sầu nhân thế nhưng khổ 2 tâm trạng của thia nhân cũng không khá hơn:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Trong không gian rộng lớn của dòng sông thấp thoáng xuất hiện những cồn nhỏ rải rác, thưa thớt, gió thổi đìu hiu càng làm cho khung cảnh trở nên trống vắng, buồn tẻ. Tác giả như muốn tìm kiếm hình ảnh của con người cố gắng lắng nghe âm thanh của phiên chợ chiều ở một nơi nào đó nhưng lại không có, nỗi buồn vì thế màn càng nhân lên gấp bội.
Trong hai câu thơ cuối tác giả đã dùng biện pháp tương phản đối lập, đó là hình ảnh giữa nắng xuống và trời lên, giữa sông dài và trời rộng để cho thấy sự nhỏ bé của con người trước vụ trụ bao la.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh bèo trôi đã được nhiều tác giả sử dụng, bèo trôi thường để nói về thân phận trôi nổi, bấp bênh của con người và trong Tràng Giang chúng lại xuất hiện để nói về những kiếp người trôi nổi trong xã hội. Từ không được sử dụng liên tiếp đó là không đò, không cầu như muốn nói rằng sự sống quanh đây thật ảm đạm, chỉ có những bãi cát vàng trải dài tận chân trời.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tác giả yêu thích thơ Đường và trong khổ thơ cuối người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh “mây” “núi bạc” vừa cổ điển lại quen thuộc. Một cánh chim nhỏ lẻ loi cô đơn giữa nền bầu trời rộng lớn, nhìn vào bầu trời tác giả nhớ đến quê hương, nỗi nhớ quê hương da diết những này quê hương không còn nữa. Xưa kia Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà, nhưng nhà thơ Huy Cận “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, nỗi nhớ trong lòng nhà thơ như trực sẵn, không cần bất kì chất xúc tác nào cũng khiến ông nhớ quê da diết.
Mặc dù bài thơ Tràng Giang mang nỗi buồn, cô đơn, lẻ loi nhưng vẫn thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của nhà thơ. Những hình ảnh thân thuộc như dòng sông, con thuyền, bến đò…đó là những cảnh vật giản dị, quen thuộc được sử dụng để để giải bày cảm xúc, tình cảm qua đó bộc lộ tình yêu quê hương thầm kín của chính tác giả.
Vừa rồi là hướng dẫn phân tích bài thơ Tràng Giang Huy Cận trong chương trình lớp 11 trở thành tư liệu tham khảo hữu ích.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Hầu Trời Lớp 11 Của Tản Đà trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!