Xu Hướng 6/2023 # Những Vần Thơ Cho Ngày Hội Ngộ I # Top 10 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Những Vần Thơ Cho Ngày Hội Ngộ I # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Những Vần Thơ Cho Ngày Hội Ngộ I được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

(Mượn cách viết của Trần Dần để nói về bạn.)

Ta “không đi” giửa phố giửa phường. Ta “không đi” dầu chiều nghiêng nắng tắt. Sao mắt ta ướt… Khi nghe tiếng thét gọi đàn. Vang rền trong ký ức.

Ta về cúi mặt “chân không” Phù du phía trước, rượu nồng trao tay. Ơi An Lộc có một ngày. Xua tan huyễn mộng, uống say chữ tình.

Em, Anh rã rời thân xác. Vì thức trắng ba đêm. Trong màu hồng của rượu. Cùng tiếng thét êm đềm. Nhưng vở tung ký ức. Em biết không, Anh đã viết hoa chữ BẠN trong trong trái tim mình. Là dấu ấn sau cùng trong cuộc sống. Thằng cụt chân, thằng một mắt, thằng râu dài, Thằng tóc trắng như mây, thằng tránh bụi trần trong cửa Phật… Ngoài sáu mươi mà mầy tao tá lả. BẠN anh đó vẫn sừng sững hiên ngang như núi. Anh muốn là cây cỏ để cho dáng núi có hương thơm. Người ta nhớ núi và yêu hoa bên núi. Hoa có tàn nhưng núi vẩn hiên ngang. Em trách anh, em gọi phone hoài sao không thấy bắt. Em text message,” Gặp BẠN bè rồi quên cả vợ con”. Thôi mà em, mình bên nhau đi suốt cả cuộc đường. Mà tụi nó, trời ơi, BẠN anh, 365 ngày mới có được một, nha em. Anh viết bài thơ này như là một nụ hôn tạ lỗi. Để nghe em: “Gớm! Chỉ biết BẠN mà thôi.”

Trần Trung Ngôn 344

Bỗng Nhiên Nhớ Em Sáu mươi nhìn anh vẫn còn trẻ Miệng anh cười vẫn như ngày xưa Tóc anh đen, nhìn hình em không nghĩ Anh đã già đừng nghĩ thế anh ơi.

Tình yêu dành cho anh vẫn tuyệt vời Nước trên nguồn xuôi về biển rộng Khác gì nhau đầu nguồn cuối sông Cảm ơn anh người bạn sáu mươi.

Ta gặp nhau đất trời mở rộng Con tim còn rực lửa yêu đương Ta yêu nhau cùng đi hết đoạn đường Dẫu khó tình yêu là động lực. Nắm tay em nhìn sâu vào mắt Chướng ngại nào ngăn bước chân ta Anh vẫn kể mỗi khi mình hò hẹn Trao cho nhau một nửa đời sau. Có câu thơ anh viết không thành Suốt ngày giam trong phòng đầy tranh Tranh quê hương, và tranh cuộc chiến Bao nhiêu năm trên quê hương mình. Anh yêu em, tên em là hoa Một loài hoa đặt tên Vỹ Dạ Đất quê hương có em sanh ra Bên dòng sông rất thật hiền hòa Anh mơ thấy em Vỹ DạBángiùi

Cảm ơn Em Người Bạn Đời Tôi Anh, Thấy mặt anh hốc hác. Đã ba ngày thức trắng. Bia với rượu cùng bạn bè tri kỷ. Ba hôm rồi các anh hét ngày đêm. Thấy anh vui cứ mỗi lần gặp bạn. 40 năm rồi không bỏ chử ” Mày, Tao”. Bạn anh đó, thằng này nằm bên cạnh. Còn thằng kia lại đối diện giường anh. Rồi thăm hỏi coi thằng nào còn sống. Kể nhau nghe sau trận chiến kinh hoàng. Em không trách khi anh là lính trận Đã quá nhiều nổi khổ. Đã bao năm tù tội. Đọc mail bạn anh em thấy lòng ái náy. Cho đi rồi sau lại text lại phone. Em, Cám ơn em với những lời chia sẻ. Cám ơn em cho anh trọn vẹn 3 ngày. Không gọi phone cũng chẳng Text chử nào. Vì em biết tình bạn anh không bao lâu nửa… Cám ơn em, anh lập lại cám ơn. Cho anh gởi những nụ hôn đầy trên trán. Và đính kèm thêm hai chữ ” THANK YOU”

Cho Người bạn đời tôi Khoe352

Phu Nhân & Giai Nhân Ta đếm đủ…dường như 24!! Còn thiếu những ai? Hai Mươi Bốn nhắc nhở ngày xưa “4 giờ đi cộng thêm 4 giờ về Thời gian còn lại anh cho em tất cả em ơi…” Hai Mươi Bốn giờ bỏ trời đất bơ vơ.. Khi người lính trở về từ chiến địa Hai mươi bốn giờ có nghĩa Những giờ phút của yêu thương Bạn có nhớ những ngày xa xưa đó Khi trở về cùng An Lộc hôm nay? Tai Sao! Tại Sao! ở nơi nầy Chỉ vỏn vẹn có 24 người vợ? Những ngýời vợ lính hôm kia! Những con ngýời héo hắt ðợi chồng dzìa Những ngày vui chưa thỏa Những ngày thấp thỏm nghe tiếng đạn bay! Chị có tiếc nuối làm một người vợ lính? Chị ước mơ gì khi gửi phận cho anh? Ngừời xưa nói: “Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu, Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu. Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao phu tế mịch phong hầu.” ( Vương Xương Linh) Chị có tiếc, có sầu như thiếu phụ Khi ngâm câu “Chinh chiến kỷ nhân hồi”? Bây giờ, Còn lại những ai? Những ai thiếu vắng? Chưa hưởng mái ấm gia đình đã vội chia lìa? Nhìn dáng chị, những Giai Nhân “471” Trở về đây gặp lại ngày xưa? Tôi không biết…thời hoa mộng đó Có anh nào tặng chị đóa hoa tường vi? Có anh nào đưa đón chị mỗi khi …chị vừa tan lớp học? Ðường Sài Gòn…đường ruộng, đường quê Anh có đưa chị đón hoàng hôn tình tứ? Hay anh bỏ chị đi mịt mùng tứ xứ Dấu chân anh đặt khắp 4 vùng? Tôi không biết. Thực tâm tôi không hề biết. Nhưng hôm nay các chị đã về đây…24 Hai Mươi Bốn này của Một Ngàn Năm Trăm Lẻ Của Bốn Mươi năm đợi chờ. Tôi thương bạn tôi, tôi thương chị Quí mến tình đồng môn và nghĩa phu thê “Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa týõng ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Ðào hoa y cựu tiếu đông phong” (Thôi Hộ) Có bao nhiêu bạn đã bỏ chị ra đi? Có bao nhiêu phu nhân phòng không lẻ bóng? Có bao nhiêu thế hệ trẻ mất cha? Bao nhiêu măng mọc thiếu bóng tre già? Bao nhiêu gia đình mất một nửa phần hạnh phúc?!

Bángiùi 331 (Thân ái tặng quý Giai Nhân An Lộc 471)

Dư Âm Người ta định nghĩa: Dư Âm là tiếng vọng Những âm ba còn chấn động dài lâu Những âm ba vang vọng cả núi đồi Chấn động khắp sơn hà đại địa. Cũng do người ta nói: âm ba có nhiều loại Có âm ba lùng bùng màn nhỉ Có loại âm ba chưa nghe đã muốn bịt tai Có những âm vang ta muốn kéo dài Là những tiếng hát, tiếng la, tiếng cười. Hội Ngộ! Cũng giống như mọi chuyện trên đời Vậy sao buổi hội ngộ lại mang nhiều hình ảnh Vì đó là âm ba nên vóc nên hình, Âm ba cận cảnh, Âm ba của nghĩa, của tình Được xây trên những trái tim rộng mở Của máu, thịt, da, xương… đồng đội Của những giờ đối diện tử thần Là bất lực nhìn bạn chết trên tay… bâng khuâng! Là lúc bạn lên chiếm mục tiêu trong lửa đạn, giữa tiếng gầm của phóng pháo cơ Của đầu đạn 175 chạm nổ Tiếng rít của M 72 Khi dẫn quân lội sình Biết chắc có bạn đang yểm trợ. Người ta có thể hỏi: Sao lạ! Ừ thật lạ, Cũng áo quần quân phục như người ta, Cũng chỉ là cuộc họp mặt qua loa, Có chi lạ? Lạ: Người thương binh có bạn đẩy xe lăn Phục dịch như người thân thiết Lạ: Chữi thề nhưng anh em thương mến không rời Lạ: It nói chỉ cười anh em gần gủi Lạ: Bảy đại đội hơn một ngàn năm trăm Khi ra chiến trường sự chết đến thật nhanh Chết khi chưa mặc chiến y Chết khi vừa về đơn vị Sự chết đến bất ngờ như kẻ trộm vẫn xông lên vì bạn đang ở đó. Lạ: Sau bốn mươi năm họ vẫn tìm nhau Dù trước, hay sau, cũ hay mới vẫn thương yêu không rời. Dù khó khăn, dù ở muôn nơi vẫn tìm về khi nghe tiếng gọi. Đời sống ta có nhiều ngăn Chiếc tủ đời ta chứa hết chăng? Có gạn lọc để giữ những gì đáng nhớ. Nhớ khi ở quân trường Nhớ bốn ba C, hay bốn lăm D Nhớ cô bán xương xâm Nhớ Khu Sinh Hoạt Nhớ căn phòng Ba Lẻ Một Nhớ cầu tên Bến Nọc Nhớ những ngày còn học Nhớ gát tuyến D Nhớ nhảy xổm, nhớ đột kích Nhớ KBC bốn người một mâm Nhớ trước khi vào lính, ta là bạch diện thư sinh Nhớ nhiều thứ linh tinh Chẳng đáng nhớ, nhưng ta cứ nhớ. Bao nhiêu tuổi đời? Có giới hạn của thời gian, Mỗi ngày thêm cỗi. Vẫn vui khi gặp nhau. Cao thấp mập ốm, vẫn mày tao; Thương nhau thật. Bạn ngồi xe lăn nói với bạn đẩy xe Tao với mày nằm gần nhau. Tao Nhảy Dù mày ra Bộ Binh. Thằng chữi thề gặp thằng hiền như thư sinh Một đứa nói và một đứa cười Thằng đi bộ, thằng ngồi trong xe bọc sắt Thằng bắn súng nòng dài ở phía sau, thằng ôm tiểu liên xông lên phía trước. Hai thằng ở hai nơi cùng yểm trợ cho nhau. Thằng là lính Biệt Động Quân đi tăng phái, thằng Địa Phương Quân ôm súng gát cầu. Nhiều chuyện kể cho nhau nghe Nước mắt rơi, miệng cười, Bốn mươi năm gặp lại. Bốn mươi năm xa nhau Bạn về đâu? Tôi về đâu? Vợ con thế nào? gia cảnh thế nào? Dồn dập! Dồn dập! Những câu chào, Những lời thăm hỏi. Ồn ào, ai nói người đó nghe, Hả! Hả! Cứ hỏi…Hả! Hả! Trong không gian ồn ào. Người đứng bên ngoài thấy lạ. Dư âm! Dư âm! Đã chia tay nhau mà sao còn bịn rịn, Miệng nói không cần, tim ẩn giấu một niềm đau. Bángiùi ( post Mar.14-2012)

Tao nói cho tụi mày biết Chẳng có thằng nào xỉn đêm nay Thằng nào về cũng mang theo một vali thật đầy Tình nghĩa bốn mươi năm hội ngộ.

Buổi sáng đi ăn phở uống café Buổi chiều rượu thịt ê hề Miệng thằng nào cũng không ăn được Có thằng không ngăn được dòng nước mắt Bốn mươi năm còn sống đề gặp nhau Bốn mươi năm đâu đó chuyện bể dâu Nhưng bốn bảy mốt trước sau như một. Tiếng telephone reo từng phút một Thằng này hỏi thằng kia đứa nào mất đứa nào còn Thằng thì nhắc hồi tao vào non nước Còn thuận an mày về đó khi nào Thằng nhắc chuyện ừ tao vào thượng tứ Thằng ở núi sam, thằng ở plây cu Ôi chao ôi câu chuyện như sương mù Thằng nào cũng ráng gào lên gặp mày vui quá Nâng ly lên đêm nay mình uống đả Ngày mai có ai biết ra sao Ừ nhỉ….bốn mươi năm mà như mới hôm nào Trung đội tao vào thế cho mày ra quốc lộ Còn mấy bà ngồi nhìn chúng tôi dường như ngồ ngộ Các ông chưa phải tuổi sáu mươi Thương quá mấy anh chồng vui quá Uống cho thật đả Chai rượu này là tình là nghĩa anh em Đêm nay rượu có say mềm Không…tao say vì bạn Sách xưa nói khi hoạn nạn Mới nhìn ra đâu là nghĩa kim bằng Ừa thật vậy. Đêm nay đất trời vùng dậy Mặt trăng khuya vừa ra khỏi hàng cây Chúng ta đêm nay tụ hội nơi đây Kỷ niệm bốn mươi năm thời chinh chiến.

Bángiùi

40 năm còn lại những gì gửi Bạn

Con số 4… Ừa, chúng ta đang nhắc về con số Bốn Bốn Mươi Năm, Bốn Bảy Một về đây Bốn Mươi Năm hội ngộ lần nầy Hội Ngộ 4-40 Năm Thời Chinh Chiến.

Bốn Mươi Năm xưa gặp cơn quốc biến Bao nhiêu chàng trai từ giả bút nghiên Bao nhiêu năm làm lính? Bao nhiêu chàng trai không thể tính Chắc một điều trong số đó có hơn một ngàn năm trăm.

Bảy hai, bày ba, bảy tư, bảy lăm Là bao nhiêu năm bạn nhỉ? Có phải bốn năm lăn lóc gió sương Bốn năm khắp bốn vùng chiến thuật, mọi chiến trường? Rừng, Núi, Sình, Lầy…có đủ

Rồi, một sớm … Chấm dứt không lời từ giả Không có trống, không có kèn đưa tiển Không khai quân hiệu, bế quân hiệu Cuộc chia tay không nói được một lời Chia tay nhau đi khắp mọi nơi Vào tù, ra biển, lên rừng Bốn mươi năm thay đổi chẳng ngừng Ai biết được máy trời chuyển đổi. Sống thác rõ phân Mọi sự có phần Nhứt ẩm nhất trác giai do thiên định? Cứ vậy…và vậy Bốn mươi năm. Ừ! Đã bốn mươi năm

Tháng Ba hai không mười hai Thành phố nhỏ Sài Gòn Hoa Kỳ, đất Trích Ta về bắt tay họp mặt Bảy đại đội, 15 tiểu bang Xa và gần có Boston, Florida Oklahoma, Houston, Tếch-Xịt Atlanta-Georgia, Kansas, Missourri Washington State, Oregon Rồi Phila, Delaware, Ohio Có Nam Bắc California, San Diego…Canada Hội Ngộ, là thêm một lần hạnh ngộ Tay bắt mặt mừng có người lần đầu gặp lại Có người thiếu vắng hôm nay Có người yếu đau Có người ở xa Chiều Tiền Hội Ngộ, họp mặt đếm đầu người Dường như 50 hay bảy chục?! Tổng kết bàn giao đến lần 5 Boston. Nhìn hình đếm thử…

Thay mặt nhận lệnh anh em Hứa Hiền Phong, Thuận Lê, Quách Đình Bình Ben Nguyễn chạy vòng ngoài cùng Mai Thước, Phan Văn Đuông, Nguyễn Văn Nên, Ngân Nguyễn làm slide show Ngô Văn Hiệp và Trần Thanh Hiệp quân trang quân dụng Phạm Ngọc Lân dự phòng Dù xa cũng có phần Võ Hữu Hòa ban nhạc. Các phu nhân làm văn nghệ vui Bài Xuất Quân và Bốn Bảy Mốt hành khúc Văn nghệ, khiêu vũ…

Nhà hàng Emperal Bay ghế bọc khăn trắng muốt Như cô gái mời về nhà chồng Cổng chào, cờ quạt, âm thanh Bảng tên trên túi áo Lăng xăng làm việc Cũng có anh ngồi hút thuốc Có mấy chị tiếp tân Có tặng sách, ly, hình, áo thun Cũng có những giọt nước mắt

Các ông café, rượu mạnh Hai buổi gặp nhau Tiền Hội Ngộ chào sân Chính thức chào cờ có ba vị Đại Đội Trưởng Có đông bằng hữu anh em.

Tiếng hô hùng hồn…Vào hàng, Phắt! Lịnh ban ra tập họp Nhạc trổi khơi mào bản Xuất quân Đủ màu áo trận, Có đại lễ, tiểu lễ Có màu áo hoa rừng, áo xanh sóng biển Có anh SĐ 7, SĐ 5, SĐ 1 Truyền Tin, Biệt Động, Nhảy Dù Súng nòng dài, Thiết Giáp Có Địa Phương Quân, Tiểu Khu, Biệt Khu Máy ảnh nhấp nháy

Nói sao cho hết những cảm tình Còn lại gì sau bốn mươi năm? Nhìn lại những quân trang Máy PRC 25, PRC 10 Trái 72, trái 26, dây ba-chạc Nón sắt hai lớp, giày saut Chiếc lưới ngụy trang… Ôi bốn mươi năm Một Thời Chinh Chiến.

Ba ngày hai đêm tiếng cười sảng khoái Café, thuốc lá, rựơu, bia Thức đêm và từ giả chia tay Hỏi thăm bạn từng ngày Đếm lại những hành trang còn mất Sáu mươi năm cuộc đời Nhìn lại thưở đi qua Và nhìn thấy tuổi thêm già, sống thêm sống thọ Còn bao lần hội ngộ. Bao năm? Còn lại bao nhiêu người? Câu hỏi chưa có giải đáp.

Thôi thì cố gắng gặp nhau Hỏi thăm lấy số điện thoại Ba ngày cố nói cho thật nhiều Cố ghi vào trí những đường nhăn Những vết chân chim trên khóe mắt… Khòc, Cười, và tay nắm cho thật chặt Ghi vào tâm: Là những giờ sống bên nhau Là những tiếng chưỡi thề rất ngọt Dường như không còn tuổi tác Náo động cả mấy góc phố, con đường, Quán café, tiệm ăn, sân khu nhà ở. Con chim se-sẽ mở tròn mắt nhìn ngơ ngác Con Sóc dừng trên nhánh cây thông Con mèo ở cuối dãy phòng Và cả bầu trời màu xanh, mây trắng đứng lặng im Tất cả chào mừng cuộc hạnh ngộ

Ta gặp lại nhau Ta thấy được nhau Cười cho thật nhiều Biết đâu ta sẽ sống thêm nhiều năm… Tâm ta thanh thản.

Nói không hết, Nên ghi vội mấy hàng, Trên đường về chiếc xe bềnh bồng như đi trên mây Cảm ơn cuộc hạnh ngộ.

Bángiùi Little Saigon, Nam CA 2012

Post Mar. 19-2012 Các anh hội ngộ đã về, Nhìn trang ảnh mới chợt nao nao lòng Oai nghi một thuở hôm nào Giờ đang mở lại một thời chinh nhân Gặp nhau sao kể niềm vui Tao,mày còn có đứa nào nữa đây? Cờ bay,quân nhạc trổi dài Cất cao tiếng hát tưởng ngày xa xưa Còn đây một phút gửi về Linh hồn bạn hữu một thời liệt oanh Chinh y, vũ khí trưng bày Giữ gìn như giữ màu cờ không phai Cờ bay trên ngọn cờ bay Là hồn đất Việt không thay màu cờ Các anh- chiến sĩ oai hùng Hôm nay gặp lại tưng bừng niềm vui Rượu vui,vui ngất hồn say Cho nhau sống lại một ngày liệt oanh Kể nhau nghe chuyện di hành Đồn xa đánh giặc không nề hiểm nguy… Đã xin sống lại một ngày Tao, mày nâng cốc bỏ ngày xa nhau Ngày mai,xin chậm thời gian Cho nâng mãi cốc rượu đầy tình thân Bốn mươi năm thấy thật gần, Để cho tình bạn ân cần hôm nay Chia tay xin nhớ ngày này Anloc hội ngộ chúng mình gặp nhau… T.H.

ANH ĐI HỘI NGỘ

( Post Mar. 19-2012) Anh đi hội ngộ em cùng bước Gặp lại người xưa thấy nghẹn lòng Áo xanh nón lệch nghiêng vầng trán Nhìn dáng phong trần sao quá yêu. Tuổi trai mười tám ngày xưa ấy Sao cứ như là mới hôm nay Rượu nâng bước nhảy thêm lả lướt Dạ vũ quay cuồng đêm cũng say Anh đi tìm lại thời xưa cũ Giầy bốt, áo xanh của núi rừng Bạn anh còn đó bao người nhỉ Kể chuyện thằng đi đã chẳng về. Đêm say rượu uống mềm môi nhá Để bỏ ngày qua vắng bạn bè Vui đi -còn nhớ thời chinh chiến Tròn bốn mươi năm của chúng mình. Em gặp lại người trai Anloc Đủ sắc màu quân chủng ngày xưa Tóc chẳng xanh đượm tình chiến hữu Ngồi quanh nhau nhắc chuyện quân trường. Đêm sâu lắng phủ mờ khói thuốc Thấy mắt cay mai đã xa rồi Chim chắp cánh bay về muôn nẻo Dặm đường xa-hẹn buổi tương phùng.T.H.

Những Vần Thơ Tha Hương

Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ Nguyễn Bính đã làm một chuyến “Hành phương Nam”*. Xa nơi chôn rau cắt rốn của mình có gần sáu trăm cây số, nghĩa là vẫn loanh quanh trên dải đất Việt Nam này, mà ông đã phải thốt lên:

“Chén rượu tha hương trời: đắng lắm! Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông.” (Xuân tha hương – Huế 1942)   Hiện nay có hơn ba triệu người Việt đang sống ở hải ngoại – hơn ba triệu linh hồn tha hương!    Tha hương nghĩa là rời bỏ làng quê của mình mà đi đến một nơi khác, một phương trời khác để lập nghiệp, để làm ăn sinh sống. Cũng có thể vì một lý do nào đó, phải rời bỏ quê hương…   Đã có lúc tôi nghĩ rằng chỉ trong thơ của người Việt mới có nỗi niềm tha hương. Bởi con người Việt Nam ta vốn mang gốc gác nhà nông, những cư dân trồng lúa nước, rất gắn bó với làng quê của mình. Mỗi lúc đi xa là thấy nhớ, thấy thương quê mình đến đứt ruột và còn không quên bảo nhau:         “Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”    Hóa ra tôi đã nhầm. Tình cảm đối với quê hương xứ sở dường như là một “thuộc tính” của nhân loại. Gần một trăm năm trước, nhà thơ Nga I.Bunin sau khi rời nước Nga sang sống lưu vong ở Pháp đã từng viết:                              “Là con thú có hang, con chim có tổ Sao trái tim non trẻ của tôi khổ đau đến thế Nhà của cha tôi mà tôi từ bỏ Và nói lời vĩnh biệt quê hương…” I. Bunin tự so sánh mình với cầm thú, cho rằng thân phận của mình không bằng cầm thú, có nỗi cay đắng tủi, nhục nào hơn? Với một người nặng lòng với đất nước như ông, có nỗi đau đớn nào hơn khi phải “nói lời vĩnh biệt quê hương” ? Nhiều người Việt bỏ nước ra đi trong những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX ít nhiều cũng mang tâm trạng giống I. Bunin. Tha hương đối với những con người này không chỉ mang ý nghĩa di cư, đi đến một phương trời xa lạ nào đó để mưu sinh mà đã trở thành một sự bắt buộc, một áp lực. Mà thực sự, chẳng có ai bắt buộc cả. Tình cảnh bất đắc dĩ ấy đã được nhà thơ Cao Tần nói đến bằng những câu thơ: “Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non” (Chốn tạm dung) Một khi đã bất đắc dĩ, cuộc sống nơi đất khách quê người chẳng khác gì một gánh nặng. Trong suy nghĩ của Cao Tần, dẫu có sống đến hết đời, quê người cũng chỉ là “chốn tạm dung”, vô nghĩa đến mức nhà thơ đã phải tự hỏi: “Ta làm gì cho hết nửa đời sau?”  Cùng chung cảnh ngộ, nhà thơ Thanh Nam đã thể hiện tâm trạng đau đớn, xót xa về thân phận của mình và chắc hẳn đây cũng là tâm trạng của không ít người: “Quê người nghĩ xót thân lưu lạc Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du Thức ngủ một mình trong tủi nhục Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ”  (Thơ xuân đất khách) Nhà thơ Du Tử Lê, một sĩ quan trong quân đội Sài Gòn, sau khi sang Mỹ đã có những vần thơ mang đỉnh điểm của sự tuyệt vọng: “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Đời lưu vong không cả một ngôi mồ Vùi đất lạ thịt xương e khó rã Hồn không đi sao trở lại quê nhà … Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi Cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối Biết đâu chừng xác tôi hẳn đến nơi” (Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển) Du Tử Lê định cư tại California – một bang nằm ở bờ Tây nước Mỹ. Bờ Tây nước Mỹ với quê hương ông cùng chung một Thái Bình Dương. Người Việt Nam có câu: “Lá rụng về cội”. Có rất thấm thía điều này, Du Tử Lê mới viết nên những câu thơ thấm đẫm nước mắt như vậy. Cứ mỗi lần đọc “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”, tôi như nhìn thấy một người đàn ông Việt Nam tuổi không còn trẻ, mỗi buổi chiều ra đứng bên bờ Thái Bình Dương mà trông vọng cố quốc… Như thế, nỗi niềm tha hương đối với một số người Việt ở Bắc Mỹ không chỉ dừng lại ở nỗi nhớ quê nhà, xa hơn nữa, đó là tâm trạng “mất quê hương”. Và có lẽ tâm trạng này chỉ xuất hiện ở những người ra đi với suy nghĩ  “một đi không trở lại”. Do đó, mới có thể đau buồn và tuyệt vọng đến thế! Thơ của người Việt đang sinh sống tại Đông Âu cũng nói rất nhiều đến nỗi niềm tha hương, tuy không dữ dội như một số bài thơ của người Việt định cư ở Bắc Mỹ,. So với người Việt ở Bắc Mỹ, người Việt ở Đông Âu có hoàn cảnh khác hơn. Phần lớn những người Việt di cư đến Đông Âu là vào những năm 90 của thế kỷ XX – những năm đất nước bắt đầu đổi mới và mở cửa. Sự ra đi của họ nhẹ nhàng hơn, mục đích cũng khác hơn. Trong thơ của họ, người ta không thấy tâm trạng “mất quê hương”, nhưng cái mặc cảm tha hương vẫn đeo đẳng, vẫn là một gánh nặng: “Tha hương Sớm chiều trĩu nặng. Đêm Khúc hát dân ca Thêm buồn nơi xứ lạ. Quê hương mẹ già đau đáu Đứa con biền biệt nơi đâu?” (Khúc hát nơi tha hương – Linh Lam) hay: “Tha hương đi giữa dòng đời Buồn vui thì cũng xứ người mà thôi” ( Không đề – Thanh Hiên) “Đã bao năm rồi Em và tôi phiêu bạt, Đã bao năm rồi Chân ta không chạm đất, Làm kẻ mộng du, lơ lửng xứ người…” (Thu cảm – Lâm Hải Phong) Cũng cần phải nói thêm rằng nửa đầu những năm 90 thế kỷ XX, sống trên đất Đông Âu, người Việt muốn tìm một tờ báo mới xuất bản từ trong nước cũng khó như tìm một lọ cà muối hay một mớ rau muống. Internet lại chưa có, sự liên hệ với trong nước gặp rất nhiều trở ngại. Trong hoàn cảnh đó, nỗi nhớ quê hương xứ sở, nhớ người thân… càng nhân lên gấp bội. Nỗi nhớ ấy có khi được biểu hiện rất cụ thể: “Con đi làm người biệt xứ Quả sung muối chín đậm bùi Bếp tro ủ niêu tép mạt Đêm nằm day dứt khôn nguôi”. (Lê Tử Vũ) hoặc: “Ba mươi Tết mẹ đồ xôi, rước ông Vải chưa? Bàn thờ ngát hương, những bông hoa đỏ Nồi bánh chưng reo, bếp tường vôi lở Tấm lưng còng in bóng đung đưa (Xuân về nhớ mẹ – Lan Hải Thu Quỳnh) Những lúc Tết đến Xuân về, nỗi buồn nhớ quê nhà càng cháy bỏng. Lợi Hồng Diệp, một người đang sống tại Ba Lan, đã nói về một cái Tết tha hương hết sức cô đọng và xúc động: Ở đây đông lạnh quá xuân ơi! Khói hương níu kéo giao thừa tới Tàn rơi cháy ruột khách quê người”. (Xuân tha hương – Lợi Hồng Diệp) Với nhiều người Việt xa xứ, quê hương luôn là gốc rễ, là sợi dây ràng buộc. Nhờ đó, nhiều nhà thơ đã có những ý nghĩ rất trong sáng và đẹp đẽ: “Ở nơi đó, tuổi thơ tôi đã sống Tôi yêu thương bằng tất cả tâm hồn Dẫu lưu lạc khắp chân trời góc bể Giấc mơ nào cũng bóng dáng quê hương” (Tổ quốc- Nguyễn Huy Hoàng) Dù ở Bắc Mỹ, Đông Âu hay bất cứ một nơi nào khác trên địa cầu, chỉ khi nào trong lòng của mỗi một con người Việt Nam có quê hương thì mới có nỗi niềm tha hương. Những vần thơ tha hương của người Việt ở hải ngoại mang đậm dấu ấn của một thời kỳ lịch sử. Bước sang thế kỷ XXI, những khoảng cách xa xôi ngày càng được thu hẹp lại bởi xu hướng toàn cầu hóa. Những khoảng cách trong lòng người cũng dần dần mất đi. Chỉ có tình yêu quê hương trong mỗi con người Việt Nam luôn luôn là điều không thể mất. Nhưng mặc cảm tha hương có lẽ sẽ không còn nặng nề như trước.

Đà Lạt tháng 6 – 2011

* Tên một bài thơ của Nguyễn Bính

Những Vần Thơ Ca Ngợi Đảng

(QBĐT) – Viết về Đảng, về Bác, các thế hệ nhà thơ Việt Nam đều ca ngợi và bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng trước công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc, đối với bản thân bằng những vần thơ chân thành, giàu cảm xúc.

Đầu thế kỷ 20, thấu hiểu được nỗi khổ đau của nhân dân Việt Nam khi phải chịu ách thống trị của thực dân – phong kiến trong đêm trường nô lệ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sớm ra đi tìm đường cứu nước. Với lòng yêu nước nồng nàn, Người đã nhận ra ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tìm thấy con đường đúng đắn, phù hợp nhất để giải phóng dân tộc. Nhà thơ Chế Lan Viên với niềm kính yêu vô hạn và cảm xúc mãnh liệt đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã tái hiện giây phút thiêng liêng và hạnh phúc vô bờ bến của Bác và cũng là của nhân dân Việt Nam khi được tiếp xúc với bản Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin:

Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin.

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!” Hình của Đảng lồng trong hình của nước Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.(Người đi tìm hình của nước)

Sau khi đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, Người nhanh chóng bắt tay vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào trong nước, nhằm trang bị cho giai cấp công nhân Việt Nam kiến thức lý luận chính trị khoa học và tiến bộ để xúc tiến thành lập một chính đảng vô sản đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng. Và ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã được thành lập trên nền tảng kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong nước. Đây là một sự kiện lịch sử trọng đại trong tiến trình cách mạng Việt Nam, mở ra trang sử mới, tươi sáng hơn cho dân tộc. Ánh sáng của những chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn mà Đảng đề ra đã soi rọi vào mọi tâm hồn, lý trí của nhân dân Việt Nam, xua đi cảnh tối tăm, u ám và mang lại niềm tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, niềm lạc quan về tương lai dân tộc. Trải qua thực tiễn đấu tranh, uy tín và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng ngày càng được nâng cao. Điều đó đã được nhà cách mạng Trường Chinh – nhà thơ Sóng Hồng diễn tả một cách cụ thể, gợi cảm qua hình ảnh ẩn dụ:

Bình minh bừng sáng ở phương đông Xé toạc màn sương phủ cánh đồng Đêm sẽ qua đi, ngày sẽ lại Trời quang, mây tạnh, ánh dương hồng.(Tin tưởng)

Còn với Tố Hữu – nhà thơ cộng sản đã gắn bó cả cuộc đời với Đảng và cách mạng, một trong những người học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có một loạt bài ca ngợi Đảng, như: Với Đảng, mùa xuân, Một nhành xuân, Bài ca xuân 61, Bài ca xuân 67, Bài ca xuân 68… Với Tố Hữu, Đảng luôn là niềm tin, là lẽ sống, lẽ yêu đời. Trong bài Ba mươi năm đời ta có Đảng, với những vần thơ cô đọng súc tích, Tố Hữu đã thể hiện niềm tự hào, tin tưởng đối với Đảng, đối với chế độ xã hội mới; đồng thời nhà thơ cũng đề cao sức mạnh cũng như vai trò của Đảng đối với dân tộc và lòng biết ơn sâu nặng của nhân dân đối với Đảng:

Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt Đảng ta đây, xương sắt da đồng Đảng ta, muôn vạn công nông Đảng ta, muôn vạn tấm lòng, niềm tin Đảng ta Mác – Lê nin vĩ đại Lại hồi sinh, trả lại cho ta Trời cao đất rộng bao la Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.

Sức mạnh to lớn của Đảng đã bao trùm, bất diệt trong lịch sử dân tộc bởi Đảng đã được xây dựng bằng trí tuệ minh triết của lãnh tụ và niềm tin tuyệt đối của nhân dân cùng sự đoàn kết chung sức chung lòng của những người cộng sản:

Đảng Cộng sản Việt Nam, là một đó Kim Tự Tháp diệu kỳ trong vũ trụ Hồ Chí Minh là đỉnh sáng: ngôi sao Và thân mình dám ngạo cả trời cao Là vai gắn của biết bao đồng chí Và nền tảng vững vàng hơn chiến luỹ Là nhân dân, là dân tộc quật cường. (Gánh – Xuân Diệu)

Ở mọi lúc mọi nơi, nhân dân vẫn luôn là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng và phát triển Đảng. Đã có biết bao người con của Đảng được nhân dân nuôi dưỡng, chăm sóc, chở che đùm bọc. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng, nhân dân càng thể hiện niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng:

– Thằng này là cộng sản Không được đứa nào chôn! – Không được đứa nào chôn! Lũ chúng vừa quay lưng Chiếc quan tài sơn son Đã đưa anh về mộ.

Đi theo sau hồn anh Cả làng quê đường phố Cả lớn nhỏ, gái trai Đám càng đi càng dài Càng dài càng đông mãi.(Mồ anh hoa nở – Thanh Hải)

Lịch sử đấu tranh, xây dựng và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chúng ta luôn cảm thấy vinh dự, tự hào khi người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, là Bác – một con người chủ nghĩa Mác sinh ra (Hải Như):

Bà mẹ lo cho cả năm chục triệu đứa con Khối óc tinh tường Mắt nhìn sáng rõ Trái tim dũng cảm… Có một bà mẹ nào như vậy? Đảng Cộng sản Việt Nam – đó chính là bà mẹ ấy!(Bà mẹ)

Hình ảnh so sánh Đảng với Bà mẹ đã phần nào thể hiện vai trò, tránh nhiệm của Đảng đối với nhân dân cũng như thể hiện tấm lòng của nhân dân ta đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Một điều dễ nhận thấy là những vần thơ ca ngợi Đảng đều có giọng điệu hào hùng mà chân thành tha thiết. Đó là tình cảm, tấm lòng của nhân dân ta dâng lên Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại.

Những Truyện Cười Kinh Dị Cho Ngày Halloween

Sắp đến ngày Halloween truyện cười 69 xin tổng hợp lại các câu truyện cười kinh dị hay để những lúc tụ họp trong ngày này , cùng kể nhau nghe !

1 . Chuyện hai con ma

Hai con ma tình cờ gặp nhau trong nghĩa trang.

Ma 1: Nhìn mặt mày ngu thế, mới chết à?

Ma 2: Uhm, mới chết hôm kia.

Ma 1: Ồ vậy anh em mình chết cùng ngày rồi, thế sao mày chết?

Ma 2: Tao bị chết cóng. Mới đầu tay chân tao đông cứng đau nhức vô cùng, rồi tao thiếp đi. Chết êm lắm mày ạ. Còn mày thì sao?

Ma 1: Tao bị vợ cắm sừng.

Ma 2: Sao vợ ngoại tình mà mày phải chết?

Ma 1: Biết vợ ngoại tình nên tao giả vờ đi công tác xa rồi về nhà bất ngờ, thấy vợ đang nằm khỏa thân trên giường. Tức quá tao chạy đi tìm thằng tình nhân kia. Lên gác xép không có, vào nhà kho cũng không, định vào nhà tắm tìm thì tao mệt quá lên cơn đau tim lăn ra chết.

Ma 2: Thế vợ chú mày tên gì?

Ma 1: $%#@$#%$#

Nghe đến đây Ma 2 lao vào đánh Ma 1, vừa đánh vừa chửi:

– Thằng ngu, sao mày không tìm trong tủ lạnh trước. Nếu mày tìm trong đó trước thì tao với mày đâu phải chết.

2 . Ma cũng tuân thủ luật giao thông

Trước nghĩa địa có hai con ma đang đi dạo, chợt thấy có một chiếc ôtô đỗ gần đó và trong xe là một cặp tình nhân.

Hai con ma bàn nhau cướp xe đi chơi một chuyến. Thực ra hai con ma cũng chẳng phải tốn công lắm vì vừa thấy hai con ma là đôi tình nhân bỏ của chạy lấy người luôn.

Chợt một con ma bảo:

– Chờ tao chút!

Nói xong rồi hớt hải chạy vô nghĩa địa, một lúc lâu sau nó mới quay trở ra vác theo hai tấm bia mộ.

Con ma kia ngạc nhiên hỏi:

– Mày vác theo mấy cục bia này làm gì vây?

– Thế mày định đi ôtô mà không mang theo giấy tờ tuỳ thân à?

Vào một đêm khuya thanh vắng, có hai mẹ con nhà nọ vẫn còn thức vì đứa bé phải học bài, bỗng nó kêu lên.

– Mẹ ơi, con nhìn thấy ma.

Bà mẹ bình thản:

– Không có đâu con, đừng sợ.

Lát sau đứa bé lại la lên:

– Mẹ ơi con nhìn thấy ma thật mà, nó đang bay ngoài cửa sổ kia kìa.

Bà mẹ vẫn bình thản:

– Không có ma đâu, học bài đi con.

Lần này đứa bé lại la lên:

– Mẹ ơi con nhìn thấy ma thật đó.

Bà mẹ nhìn nó và bảo:

– Chứ nãy giờ mày tưởng tao là mẹ của mày à?

(Xỉu!!!)

Vào lúc gần 12 giờ đêm, có một anh chàng trạc tuổi 20 đứng giữa một cánh đồng trống để đón xe buýt về thành phố.

Anh ta đứng mãi mà chẳng thấy một chiếc xe nào chạy ngang. Đến đúng 12 giờ đêm có một chiếc xe chạy đến, anh ta vội vẫy chiếc xe và xin được đi nhờ vào thành phố.

Sau khi leo lên xe anh ta ngủ thiếp đi vì mệt mỏi.

Trời mưa rất to và một tiếng sét đánh xuống nghe chói tai đã làm cho anh chàng tỉnh giấc. Anh ta đã mất hồn khi không nhìn thấy tài xế mà xe vẫn chạy.

Anh ta đã la lớn: Ma…Ma…!

Bất ngờ có tiếng đằng sau nói lại:

– Ma cái gì mà ma, xe chết máy tao đẩy mệt muốn chết đây này.

5 . Con ma có đuổi kịp không?

Sau một đêm dài say sưa, hai gã thanh niên rời quán bar, nhảy vào ôtô và khởi động máy.

Sau vài phút, một ông già xuất hiện ngoài cửa sổ và gõ nhẹ vào kính.

Một gã thất kinh la lên:

– Nhìn ra ngoài cửa sổ kìa. Ma!

Người lái xe tăng tốc nhưng khuôn mặt của ông vẫn già vẫn ở nguyên chỗ cửa sổ. Gã bạn đồng hành hạ kính cửa sổ, hỏi:

– Ông muốn gì?

Người đàn ông điềm đạm hỏi lại:

– Các anh có thuốc lá không?

Run lập cập, anh chàng đưa thuốc cho ông ta rồi vừa quay cửa sổ lên vừa hét lớn với người lái xe:

– Nhấn ga mạnh lên!

Vài phút sau, họ lấy lại được bình tĩnh và bắt đầu cười cợt. Người lái xe nói:

– Tớ cóc hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng đừng lo, đồng hồ tốc độ đang chỉ 80 dặm một giờ, con ma đó không đuổi kịp đâu.

Đột nhiên, một tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ vang lên và ông già lại xuất hiện.

– Lại ông ta kìa!

Người đồng hành hét lên.

Anh ta hạ kính cửa sổ và run run hỏi:

– Sao đấy?

– Các anh có lửa không?

Anh chàng ném chiếc bật lửa ra khỏi cửa sổ rồi gào lên:

– Đạp ga hết cỡ đi!

Họ phóng xe với tốc độ 100 dặm một giờ, cố gắng quên đi những gì vừa nghe và thấy, thì đột nhiên lại có tiếng gõ.

– Chúa ơi! Hắn ta quay lại!

Anh chàng không cầm lái kéo cửa sổ xuống và hét lên trong sự kinh hoàng tột độ:

– Cái gì nữa đây?

Ông già nhẹ nhàng đáp:

– Các anh có cần tôi giúp kéo ra khỏi vũng lầy không?

Một anh lái taxi về khuya lúc 12h đêm bất chợt thấy một cô gái mặc áo trắng vẫy, tin là trên đời làm gì có ma quỷ, anh ta cho cô gái lên xe.

Cô gái lên ghế sau ngồi và lạnh lùng nói: Cho tôi về gần nghĩa trang thành phố. Hơi rờn rợn, anh tài cho xe lăn bánh. Đi được một quãng, vô tình nhìn sau gương chiếu hậu không thấy cô gái đâu, giật mình anh tài phanh dúi xe một cái quay lại nhìn. Cô gái vẫn ngồi nguyên đó nhìn anh với cặp mắt trừng trừng giận giữ và không nói câu nào.

Sau một lúc hoàn hồn, một chút đức tin nhỏ nhoi còn sót lại là làm gì có ma quỷ, anh tiếp tục cho xe lăn bánh với tốc độ cao hơn mong nhanh chóng chấm dứt hành trình. Rồi lại không nén được tò mò, anh lại liếc lên gương chiếu hậu, cô gái lại biến mất.

Hoảng loạn thật sự, anh phanh khựng chiếc xe lại và quay lại nhìn, cô gái với đôi mắt trừng trừng bốc lửa nhìn anh, mồm và mũi nhỏ ra những giọt máu tươi chết chóc. Vẫn chất giọng lạnh lùng pha chút gằn vì giận giữ, cô gái cất lời:

– Mày điên à, tao thù oán gì với mày mà 2 lần tao cúi xuống buộc dây giày, mày phanh dúi xe làm tao chảy máu mũi máu mồm thế này.

Cô luôn hy vọng có người nào đó đi cùng đường với mình cho đỡ sợ.

Một hôm cô thấy có một chàng trai đạp cùng chiều với mình. Mừng quá, cô chạy lên để đi cùng, sau một lúc trò chuyện, cô gái nói:

– Em sợ ma lắm, đi một mình đoạn đường này em sợ lắm, cảm ơn vì đã có anh đi cùng!

Chàng trai mỉm cười nhìn cô gái, trìu mến:

– Hồi còn sống anh cũng thế!

Nguồn : Truyện cười vnexpress

Cập nhật thông tin chi tiết về Những Vần Thơ Cho Ngày Hội Ngộ I trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!