Bạn đang xem bài viết Nhà Thơ Tố Hữu Và Những Bài Thơ Đi Cùng Đất Nước được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nhà thơ Tố Hữu và vợ. Dẫu làm thơ chỉ là “nghề tay trái”
Anh (nhà thơ Tố Hữu – BTV) vẫn thường nói làm thơ là nghề tay trái của anh vì thời gian anh dành cho thơ không nhiều. Nhưng trong thực tế ảnh hưởng của thơ anh đôi khi đã vượt xa ý muốn chủ quan của anh. Thơ anh hào hùng thúc giục mà vẫn thủ thỉ tâm tình nên có sức truyền cảm, dễ nhớ, dễ thuộc, do đó đã tác động đến cuộc đời nhiều người, ở những bước ngoặt quan trọng, khi phải chọn lựa hướng đi.
Đối với anh, làm thơ không phải để tiêu khiển, càng không phải ham danh vị, mà là để phục vụ lý tưởng cách mạng mà anh đã chọn. Anh khao khát được sáng tác như một nhu cầu bức xúc bản năng. Càng sống lâu với anh, tôi càng nhận ra cốt cách thi nhân của anh. Với trái tim tràn đầy tình yêu, một tâm hồn nhạy cảm, bao dung; tính tình lại dịu dàng trầm mặc; lại sinh ra trong một gia đình trí thức nho học vốn rất yêu và biết nhiều thơ ca dân gian của xứ Huế thơ mộng, nên anh trở thành nhà thơ trữ tình là điều dễ hiểu. Nhà thơ đó có may mắn sống trong một đất nước sôi sục cao trào cách mạng thời kỳ Mặt trận Bình dân, lại được tiếp cận với nhiều nhà cộng sản cách mạng kiên trung và tài năng, nên anh sớm đi vào con đường Cách mạng và trở thành nhà thơ của Cách mạng – điều này lâu nay các nhà lý luận văn học đã nói nhiều. Sống gần anh lâu, được biết hoàn cảnh ra đời và ý từ nhiều bài thơ, tôi chỉ xin chia sẻ một đôi cảm nhận của tôi, tuy còn rất đơn sơ.
Ở đây điều đáng lưu ý nhất là: mỗi lần đất nước có sự kiện lớn, bao giờ anh cũng có những bài thơ khó quên. Có lẽ vì chính anh là người trong cuộc, cùng tham gia tạo nên sự kiện đó. Anh viết bài “Huế tháng Tám”, khi anh là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế:
“. . . Có con chim nào trong tócnhảy nhót hót chơiHa! Nó hót cái gì vui vui
Bác Hồ cùng với nhà thơ Tố Hữu về thăm Pác Bó (1961). (Ảnh: TL). Tụng ca với trọn vẹn tình yêu nghe thiệt ngộ“Ta bên Người, người tỏa sáng trong ta Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”… Gió gió ơi! Hãy làm giông làm tốCuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươiVàng vàng bay, đẹp quá sao sao ơi!Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác”
Bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”- được ra ngay sau những ngày toàn quân và toàn dân dồn sức cho chiến dịch Điện Biên Phủ. “Ta đi tới” và “Việt Bắc” – là những bài thơ tự tuôn chảy trong anh từ niềm vui, niềm tự hào khôn tả của những ngày cùng Trung ương Đảng và Bác trở lại thủ đô sau chín năm kháng chiến. Rồi cuộc chiến tranh ác liệt 20 năm ở miền Nam, trong đó có quê hương anh. Đất nước bị chia cắt đã khơi dậy trong lòng anh biết bao cảm xúc vừa da diết vừa nóng bỏng trong một loạt bài thơ về miền Nam, về quê hương.
Thơ anh qua các thời kỳ là sự khích lệ cổ vũ không nhỏ quần chúng đứng lên đấu tranh. Ngoài những bài thơ yêu nước đậm chất sử thi, thơ anh còn là sự chia sẻ, cảm thông những số phận, những cuộc đời đau khổ, không chỉ nói lên lòng trắc ẩn mà còn giáo dục, vạch ra lối đi, dìu dắt quần chúng tham gia cách mạng. Năm 2000, khi cùng anh về thăm quê, tôi rất xúc động khi anh dẫn tôi tìm về nơi anh đã từng sống cùng chú Quýt, ông già đầy tớ, chị vú em, những nhân vật thật của những bài thơ “Đi đi em”, “Lão đầy tớ”, “Vú em” và những bài “Mồ côi”, “Hai đứa bé”, “Tiếng hát sông Hương”, “Hồn chiến sĩ”. . . Đó là một gian phụ trong nhà của một người công chức giàu tại đường Chợ Cống, nơi anh làm gia sư cho con nhà chủ để có tiền đi học.
Gắn liền với vận mệnh của Đất nước là những chiến sĩ cách mạng, những nhân cách lớn mà anh kính nể. Đi vào thơ anh trước hết là hình tượng Bác Hồ. Anh đã rất thật khi viết: “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn” hay:
Ngoài những bài thơ hoàn chỉnh về Bác, như bài “Hồ Chí Minh”, “Sáng tháng Năm”, “Bác ơi”, “Theo chân Bác”… trong rất nhiều bài thơ khác, hình ảnh Bác Hồ luôn được anh liên tưởng tới.
Tôi còn nhớ bài “Bác ơi”, anh làm chỉ trong một buổi chiều và đêm 2-9-1969. Lúc Bác mất, vì biết anh Tố Hữu đang mệt nặng nên Trung ương không báo sớm cho anh tin buồn. Mãi gần trưa anh Xuân Thủy mới đến báo tin Bác đã ra đi. Tháng 9-1969, anh Tố Hữu ốm nặng phải nằm bệnh viện Việt – Xô cả tháng. Đến gần trưa hôm 2-9 có lệnh đưa xe vào bệnh viện đón anh. Tôi ngạc nhiên vì biết anh vẫn còn sốt cao. Tôi cho cháu Hoa (chị Thanh Hoa, con gái trưởng của nhà thơ – BTV) đi theo xe vào đón ba. Một lúc thì xe về. Nhưng anh lại đi ngay vào Phủ Chủ tịch bất chấp sức còn yếu. Trở về nhà trưa hôm đó, nước mắt lưng tròng, anh không nói gì, đi thẳng vào phòng mình, khóa trái cửa lại. Tôi rất lo cho tim và huyết áp của anh. Một lúc không cầm lòng được, tôi khẽ gọi cửa xin vào đem khăn mặt và nước uống cho anh. Thấy tôi, anh nghẹn ngào: “Em ơi, Bác đi rồi!”.
Tôi lặng im bên cạnh anh, vò khăn mặt vào chậu nước ấm, và rót nước đưa cho anh. Được một lúc lâu, anh hơi bình tâm lại, bảo tôi: “Em ra lo cơm nước cho cả nhà đi!”.
Tôi hiểu là anh muốn ngồi một mình để viết, nên đành lui ra. Trưa đến anh không ăn uống gì, hối hả viết bài “Bác ơi”, vừa viết vừa lau nước mắt:
“Suốt mấy đêm rày đau tiễn đưaĐời tuôn nước mắt, trời tuôn mưaChiều nay con chạy về thăm BácƯớt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa”.
Bài “Bác ơi” được anh trực tiếp đọc và được truyền đi trên đài phát thanh đúng hôm cả nước khóc tiễn đưa Bác. Những ngày tháng 9 năm ấy là những ngày nặng nề đối với anh và cả gia đình tôi.
Đến bài “Theo chân Bác”, anh cũng sáng tác trong một hoàn cảnh éo le. Cuối năm 1969 anh lại bị ốm nặng, hàng tháng phải chịu một cơn sốt cao, thường kéo dài 10 ngày, không thuốc gì chặn được. Hội đồng Bảo vệ sức khỏe Trung ương nghi anh bị ung thư máu và quyết định gửi sang chữa bệnh ở Liên Xô. Sau một thời gian kiểm tra, bạn không tìm ra nguyên nhân. Một giáo sư chuyên khoa về ung thư thử cho anh dùng mội loại thuốc (có tên là Lekeran) và tuyên bố một cách không tin tưởng rằng: anh phải chung sống lâu dài với loại thuốc này. Khi đó, anh bàn với tôi: “Thuốc này không chắc đã trúng, quỹ thời gian còn lại của anh có lẽ không còn nhiều. Anh phải làm một cái gì có ích”.
Thế là chúng tôi lén dọn dẹp một phòng xép nhỏ độ 3m2, chỗ chứa dụng cụ y tế phục vụ riêng cho phòng cách ly của anh, để làm nơi anh viết. Sở dĩ phải lén, vì các bác sĩ cấm anh làm việc. Phòng cách ly nơi anh và tôi ở là một căn nhà nhỏ nằm cách biệt giữa rừng thông. Vì là giữa mùa đông nên xung quanh và mái nhà phủ một lớp tuyết dày trắng xóa. Đồ đạc trong nhà chỉ có một chiếc vô tuyến đen trắng. Cả ngày anh và tôi chỉ xem được một chút đá bóng và thỉnh thoảng một vài chương trình ca múa nhạc. Tin tức không xem được vì không biết tiếng Nga. Anh hối hả viết trong khoảng thời gian giữa hai cơn sốt. Mỗi lần anh viết xong một đoạn lại gần như kiệt sức, phải nhờ tôi chép sạch lại cho anh. Tuy anh không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng, anh viết bài thơ này vội vã như bài thơ cuối của anh. Sau này anh thú nhận: trong ý nghĩa của đầu đề bài thơ “Theo chân Bác”, còn có một nghĩa ngầm là có lẽ anh cũng có thể sắp “ra đi”. May sao, một tháng sau cơn sốt định kỳ không tái phát. Coi như anh khỏi bệnh. Thật là một điều kỳ diệu. Kỳ lạ ngay cả đối với các bác sĩ của bạn. Nghe tin anh khỏe lại, đồng chí Leonid Brezhnev-Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó nhờ đồng chí Voronin cán bộ Ban Đối ngoại đem tặng anh một thùng rượu vang trắng và trứng cá đen để ăn mừng và tặng tôi một miếng lụa hoa màu tím.
Nhưng cảm động hơn là những người bạn văn Liên Xô, vốn quen biết anh Tố Hữu từ trước, hay tin anh khỏe lại cũng rất mừng. Tôi nhớ có một tối, đã khoảng chín giờ đêm, hai nhà văn Evgeny Dolmatovsky và Marian Tkachov đem xe ô tô đón chúng tôi đến chơi với gia đình nhà văn Konstantin Simonov tại căn nhà nghỉ cuối tuần ở ngoại ô Moskva. Xe chạy qua một đoạn đường dài dưới nhiệt độ -230C trong rừng trắng tuyết. Ngôi nhà làm bằng gỗ thông ghép. Vừa bước vào nhà, chúng tôi cảm thấy ấm hẳn lên. Ấm vì hơi lửa và vì vòng tay bè bạn thân yêu. Vừa hàn huyên, vừa ăn thịt cừu nướng thơm lừng. Trong khi trò chuyện, anh Tố Hữu ngâm bài thơ “Đợi anh về”. Simonov cảm động nói: “Cảm ơn anh đã dịch bài thơ rất hay. Nó đã biến thành bài thơ của anh rồi!”
Simonov tuy không hiểu tiếng Việt, nhưng có lẽ nghe nhạc điệu của bài thơ dịch mà cảm nhận được chăng? Sau này Simonov tặng anh một bài thơ, trong đó có đoạn: “Thơ tôi sẽ ngủ yên rồi, Chết trong bản dịch tuyệt vời của anh”…
Một Con Người …Cứ nghĩ như anh vẫn sống hoàiMặt hiền như ruộng lúa, nương khoaiHai con mắt đỏ bừng như lửaCái miệng cười tươi sáng dặm dài
Viết xong bài “Theo chân Bác”, anh tâm sự với tôi: “Anh có hai niềm vui, một là khỏi bệnh, hai là viết được một trường ca về Bác. Những tưởng lần này ra đi theo Bác, thế mà lại làm được một việc có ích”
Trong nhà tôi, những chỗ trang trọng nhất anh đều treo ảnh Bác: trên tường phòng khách, phòng làm việc, cả dưới mặt kính bàn giấy của anh. Hình ảnh Bác ngồi đọc báo ngoài vườn, Bác hút thuốc lá, Bác ra mặt trận, Bác tiếp văn nghệ sĩ và anh hùng chiến sĩ, v.v… đâu đâu anh cũng như thấy được ở bên Bác.
Dưới ảnh Bác là ảnh đồng chí Lê Duẩn cũng được trang trọng treo trong phòng làm việc của anh.
Anh Tố Hữu thường nói với tôi: “Đồng chí Lê Duẩn là người đầu tiên đưa anh vào con đường cách mạng. Anh là một cán bộ lão thành từng trải từ lúc mới thành lập Đảng. Anh am hiểu phong trào và cán bộ của cả ba miền Đất nước. Không những thế, anh là một nhà chiến lược thông tuệ và tài năng của Đảng. Nhân cách cao đẹp của người cộng sản kiên trung như anh đáng cho ta học tập noi theo”. Nhớ đến anh Lê Duẩn, anh Tố Hữu thường gợi lại câu tâm huyết giáo dục đạo đức cán bộ đảng viên: “Mỗi ngày ta nên vào Đảng một lần”.Khi anh Lê Duẩn mất, anh đã viết tặng một bài thơ dài “Nhớ về anh”. Nhưng không hiểu sao bài thơ đưa in ở Hà Nội rất khó khăn, anh phải đem in ở nhà xuất bản Đà Nẵng hàng vạn bản và gửi tặng nhiều nơi. Trong bài thơ “Mười tám thôn Vườn Trầu”, anh viết sau khi đi thăm huyện Hóc Môn, nơi địch đã giết năm đồng chí Ủy viên Trung ương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, anh nhắc đến anh Lê Duẩn, người đã đến Hóc Môn lúc đó để họp: “Lê Duẩn ẩn thiên tài”.
Nhiều lần được nghe nói chuyện, đôi lần được tiếp xúc với anh Lê Duẩn, tôi nhận ra giữa anh Lê Duẩn và anh Tố Hữu thật sự có một sự đồng điệu về lối suy nghĩ linh hoạt, khả năng nhậy bén khi đánh giá tình hình, tính quyết đoán trong công việc, và cả tính tình nhân hậu của người cộng sản.
Một người nữa mà anh Tố Hữu thương yêu, trân trọng là anh Nguyễn Chí Thanh. Hai anh cùng chung một quê là xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà hai anh ở hai làng sát gần nhau, anh Thanh ở Niêm Phò, anh Tố Hữu ở Phù Lai, cách nhau một cái cầu đá nhỏ vắt qua một nhánh hẹp của con sông Bồ. Một thời gian sau giải phóng, dân xã đã xây dựng lại cây cầu đá thành cầu xi măng và đặt tên là cầu Thanh Hữu.
Tình bạn của hai anh bắt đầu cũng thật ngộ nghĩnh. Khi mới được giác ngộ, có lần về làng, nghe đồn có anh nông dân tên Vịnh khí khái, dám đấu tranh với cường hào, anh Tố Hữu nảy ra ý định sang tuyên truyền cách mạng. Thấy anh Tố Hữu là một thanh niên học sinh thành phố còn trẻ măng, anh Thanh chưa tin, liền trả lời bâng quơ: “Mình có làm chi mô. Chỉ thấy người làng ta than sưu cao thuế nặng thì mình cũng đi theo đòi giảm sưu thuế thôi”.
Anh Tố Hữu buồn thất vọng ra về. Đến năm 1939, khi anh Tố Hữu bị bắt vào lao Thừa Phủ, gặp lại anh Thanh và được tổ chức bên ngoài giới thiệu anh Thanh là Bí thư tỉnh ủy, mới vỡ lẽ ra anh Thanh trước kia đã là cán bộ cốt cán của Đảng bộ Thừa Thiên rồi. Từ trong lao Thừa Phủ hai anh gắn bó với nhau, anh Thanh làm Bí thư, anh Tố Hữu làm Phó bí thư chi bộ nhà tù.
Trong tù, mỗi lần đấu tranh chống khủng bố, tù nhân (như vụ chống giết hại cụ Tiết, vụ hành hạ anh Lê Chưởng), địch đem dùi cui đến đánh đập, và xịt vòi rồng xối nước dữ dội vào người tù, thì anh Thanh lại đứng ra và động viên những đồng chí to lớn khỏe mạnh đứng hàng đầu che chở cho những đồng chí yếu ớt như anh Tố Hữu. Trong khám Thừa Phủ, nhớ đồng quê, nhớ quê hương anh đã viết tặng anh Thanh (tên thật là Vịnh) bài “Nhớ đồng”.
Sau mỗi lần tranh đấu, địch chia rẽ, phân tán tù nhân đi các nhà tù khác, không hiểu sao hai anh vẫn được đi với nhau. Đến khi cách mạng thắng lợi, ra tù, hai anh trở về Thừa Thiên, lại cùng ở trong xứ ủy Trung kỳ, anh Thanh là Bí thư xứ ủy, anh Tố Hữu là Phó. Rồi các anh cùng hoạt động với nhau ở khu bốn, ở Trung ương tại Việt Bắc, tại Hà Nội, một “quan võ”, một “quan văn” nhưng thực sự là một đôi bạn tâm giao thân thiết. Những dịp gặp nhau, hai anh trao đổi không chỉ chuyện công tác mà còn chuyện quê hương, chuyện nhân tình thế thái. Anh Thanh cũng là người rất yêu thơ Tố Hữu và là một trong những “nhà phê bình thơ” chân thành của anh.
Năm 1963 khi anh Nguyễn Chí Thanh được Trung ương cử vào Nam phụ trách Trung ương Cục, anh Tố Hữu làm bài thơ “Tiễn đưa” tặng anh Thanh:
…Đã hay đâu cũng say tiền tuyếnMà vẫn bâng khuâng, mộng chiến trườngDẫu một cây chông trừ giặc MỹHơn ngàn trang giấy luận văn chương”…
Những câu thơ đó cũng chính là nguyện vọng của anh muốn trực tiếp được vào Nam công tác.
Năm 1967, khi ở miền Nam ra báo cáo với Bộ Chính trị, để chuẩn bị cho chiến dịch 1968, anh Thanh đến thăm chúng tôi. Anh vỗ vai anh Tố Hữu: “Mi làm nhiều thơ hay vào, ở rừng chiến khu, nằm võng nghe Châu Loan ngâm thơ Tố Hữu, tau mát ruột lắm”.
Trước hôm trở về Nam, anh Thanh đến thăm anh Tố Hữu và tâm sự rất lâu. Ai ngờ ba giờ sáng hôm sau, điện thoại réo, báo tin anh Nguyễn Chí Thanh bị nhồi máu cơ tim khó cứu chữa. Anh Tố Hữu tức tốc chạy vào bệnh viện thì anh Thanh đã được đưa vào phòng mổ tim và không biết gì nữa. Anh Thanh ra đi, với anh Tố Hữu có lẽ đau đớn như mất một người anh ruột. Anh viết bài thơ viếng:
Ở đâu nghèo đói gọi xung phongLon nước mo cơm lội khắp đồngỞ đâu tiền tuyến kêu anh đếnVượt núi băng rừng, lại tiến công!
Ôi! Sống như Anh, sống trọn đờiSáng trong như ngọc, một Con Người!Thanh ơi! Anh mất rồi chăng đấy?Cứ thấy như Anh nở miệng cười!
Còn biết bao nhiêu “tâm hồn đẹp” đã vào thơ anh. Không chỉ những đồng chí lãnh tụ tiêu biểu, tài năng, đức độ mà anh quý trọng, anh còn viết nhiều về những con người anh hùng trong quần chúng nhân dân. Để viết về những con người đẹp nhất đó, anh có thói quen, nói đúng hơn là một nguyên tắc, là phải tiếp cận nhân vật. Anh nói: “Thơ bằng hành động điển hình, tránh trừu tượng; làm sao cho thơ được quần chúng hiểu, yêu mến”. Anh luôn tìm cách gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe tâm tư mỗi con người.
Những tấm gương anh hùng của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Thị Lý, mẹ Suốt, mẹ Diệm, Hồ Giáo, đội nữ dân quân Hàm Rồng, đơn vị pháo cao xạ nữ Quảng Bình…đều là nguồn cảm hứng cho thơ sau khi anh được gặp. Năm 1962, sau khi đi làm việc với Tỉnh ủy Hưng Yên anh về thăm quê anh hùng thủy lợi Phạm Thị Vách, mắt thấy tai nghe về nỗi khổ “sống ngâm da, chết ngâm xương”, quanh năm thiếu đói của người nông dân vùng chiêm trũng, anh đã viết bài “Giữa ngày xuân”. Anh ghi trong sổ tay công tác: “Hãy chân thật như mảnh đất, như những con người bình thường mà vĩ đại này. Để những đau khổ, dũng cảm của con người tự nói lên. Chớ kêu gào thêm. Chớ thêm son phấn. Hãy giản dị, rất giản dị, như tất cả những sự thật vĩ đại, như nhân dân lao động vĩ đại. Nhưng đừng tầm thường, dễ dãi trong cảm xúc nghệ thuật. Và hãy tươi, tươi như sự sống, không chút cứng nhắc. Qua tất cả, trong tất cả, hãy toát lên lòng yêu cuộc sống, yêu con người, yêu Đất nước Việt Nam đẹp đẽ của ta. Làm sao cho thấm vào lòng người, chói sáng trước mắt mọi người hình ảnh lớn lao của người con gái anh hùng”…
Khi đi công tác tại vùng mỏ Quảng Ninh về, anh ghi trong nhật ký: “Đời sống của công nhân đầy gian khổ, anh dũng, phải sống trong đó mà sáng tạo. Đó là công bằng. Đó là nhân phẩm”. Nhiều ý thơ, câu thơ về người thợ mỏ còn dang dở sau đó. Nhưng có lẽ anh không có thì giờ viết tiếp bởi công tác khẩn cấp hàng ngày kéo anh đi.
Như thế đấy, những số phận chìm nổi của con người, những tình huống thăng trầm của Đất nước, những tấm gương chiến đấu hy sinh cho sự tồn vong của Tổ quốc đều là những nguồn cảm hứng vô tận của thơ Anh…
Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Nhà Thơ Nguyễn Đình Thi Và Những Bài Thơ Đi Cùng Năm Tháng Mới Nhất
Yêu em đời anh bừng sáng chói
Những sớm chiều dầu dãi gió sương
Những đêm băng mình trong đạn khói
Những buồn vui về giữa lúa thơm
Trên những nẻo đường không biết mỏi
Anh mang em như ngọn đèn chiếu rọi
Như trái tim anh đập không ngừng
Cách nghìn sông núi vẫn bên nhau
Em ơi đường chiến đấu dài lâu
Trong gian khổ vẫn chan hoà ánh sáng
Đời anh có em như ngày có nắng
Yêu em anh yêu cả mọi người
Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
– Nụ cười của em
Hoa nhỏ vàng hoe nghiêng xuống toả thơm.
Dừng chân trong mưa bay
Liếp nhà ai ánh lửa
Yên lặng đứng trước nhau
Em em nhìn đi đâu
Em sao em không nói
Mưa rơi ướt mái đầu
Mỗi đứa một khăn gói
Chiều mờ gió hút
Nào đồng chí bắt tay
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
Để anh trên sườn núi vắng
Không biết có bao giờ trở lại
Một ngày về tìm anh ở đâu
Giữa rừng nghìn lối cỏ lau
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn
Tiếng hát bay lên cao phấp phới
Như gió xuân rũ lá bạch dương
Như những mảng trời xanh đang vẫy
Như tiếng chim trên tuyết trắng hồng
Sơn La những lũng đầy sương
Những đồi vàng hoe lúa chín
Những buổi rời tay bịn rịn
Châu đi quấn quýt bờ mương
Ta tới núi xanh và suối bạc
Ngang trời Tam Đảo đứng nghiêng nghiêng
Ôi Cao Vân, Phú Minh, Quảng Nạp
Trái tim ta đập ở Thái Nguyên
Mở Bài Đất Nước Cùng 7 Đoạn Hay Nhất
Mẫu mở bài đất nước tham khảo
Mở bài 1
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mĩ như Bằng Việt, Lâm Thị Mĩ Dạ, Phạm Tiến Duật. Đây là lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa, không chỉ có trình độ văn hóa, có niềm say mê lí tưởng, mà còn trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vì vậy, những trang thơ của họ luôn cháy bỏng nhiệt tình yêu nước và nóng bỏng hiện thực của cuộc kháng chiến. Đất nước là một bài thơ như vậy. Nó là đứa con tinh thần, là khát vọng chất chứa của tác giả, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ hướng về cuộc kháng chiến chung của dân tộc.
Mở bài 2
Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ oanh liệt của dân tộc, hình tượng Đất nước lớn lao, đẹp đẽ luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong nhiều sáng tác thơ ca. Chúng ta từng biết đến hình ảnh một Đất nước hào hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thơ Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, một Đất nước cổ kính mang hồn quê Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. Chúng ta từng biết đến một Đất nước hóa thân thành dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh và một Đất nước hài hòa giữa dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nguyễn Khoa Điềm cũng góp vào đề tài Đất nước một tiếng thơ riêng đem lại cho người đọc những rung động thẩm mĩ mới. Ông đã tâm sự :”Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh một Đất nước giản dị nhất, gần gũi nhất. Đó là cách để tôi đi vào lòng người đọc đồng thời cũng là cách để tôi đi con đường riêng không lặp lại người khác”.
Mở bài 3
Tiêu biểu cho những lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa, tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt, phải kể đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ngay từ đầu khi đến với thơ ca, ông đã định hình cho mình một phong cách nghệ thuật riêng – kiểu thơ trữ tình chính luận. Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, thể hiện một chiều sâu văn hóa mang đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước. Để rồi mang một hành trang văn hóa chuẩn bị chu đáo trước khi bước vào chiến trường. Đoạn trích “Đất nước” nằm ở phần đầu chương 5 của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, được nhà thơ viết tại chiến khu Trị – Thiên nhòa khói lửa. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Và kêu gọi họ xuống đường hướng về nhân dân, hòa nhập với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Mở bài 4
Trong những thi phẩm hay viết về đề tài Đất nước, không thể không kể tới bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường tạo ra một khoảng cách nhất định để chiêm ngưỡng Tổ quốc. Bằng đôi mắt của lịch sử, của thời đại mà khắc tạc nên một Đất nước kì vĩ, lớn lao như Đất nước hình tia chớp trong thơ của Trần Mạnh Hảo, Đất nước mênh mông rừng vàng biển bạc trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Còn Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn Đất nước ở một tầm rất gần để phát hiện ra khuôn mặt mới của Đất nước mình giản dị, đời thường, gần gũi nhưng không kém phần cao cả và thiêng liêng. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, kêu gọi những tuổi trẻ sinh viên cùng tham gia hòa chung với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Mở bài 5
Giữa một dàn giao hưởng với những tiếng ca hùng tráng, thiết tha về Đất nước, người đọc vẫn nhận ra được tiếng thơ rất riêng của Nguyễn Khoa Điềm với thi phẩm “Đất nước” trích từ bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Những vần thơ mang chất trữ tình chính luận của ông không khô khan giáo điều mà rung động dạt dào cảm xúc. Với đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành tựu cho thơ ca chống Mĩ về đề tài Đất nước bằng một cái nhìn toàn diện, cách nói mới mẻ không lặp lại con đường đi của người khác. Đoạn trích là lời kêu gọi thiết tha của tác giả với các bạn sinh viên tuổi trẻ cùng xuống đường, hướng về cuộc kháng chiến chung của dân tộc.
Mở bài 6
Trong những năm tháng kháng chiến oanh liệt của dân tộc, Đất nước luôn là nguồn cảm hứng lớn lao, bất tận. Các nhà thơ viết về Đất nước bằng tất cả niềm tự hào của riêng họ. Trong những vần thơ mến yêu, dạt dào nguồn cảm hứng ấy, phải kể đến bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn trích nằm trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” năm 1971 tại chiến khu Trị – Thiên. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được ấp ủ và hình thành trong một khoảng thời gian khá dài từ năm 1948 đến năm 1955 và được viết liền mạch trong cảm xúc dồn nén. Bởi vậy, những ai đã nghe các vần thơ của ông đều không thể nào quên hình ảnh một Đất nước gần gũi, giản dị nhưng không kém phần cao cả thiêng liêng.
Mở bài 7
Đất nước là một đề tài muôn thuở. Chừng nào mỗi con người vẫn là con đẻ của một dân tộc, của một mảnh đất chừng ấy con người ta vẫn còn viết về cái mảnh đất thiêng liêng được gọi là Tổ quốc. Mỗi thời có một cảm nhận riêng, nhưng tất cả đều xuất phát từ một tấm lòng chung. Đó là sự thiết tha, sự thủy chung với giang sơn, Tổ quốc. Nếu thiếu điều này thì dù sự am hiểu văn hóa phong phú đến đâu, tư duy dù sắc sảo đến đâu cũng không giúp cho thi sĩ viết nên những tiếng thơ có khả năng rung động hàng triệu trái tim con người. Nhưng đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta mới thực sự cảm nhận hình ảnh Đất nước một cách chân thật, gần gũi và giản dị nhất.
Giới Thiệu Về Nhà Thơ Tố Hữu Và Bài Thơ Khi Con Tu Hú
Nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Ông giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Ông đã từng bị bắt, sau đó vượt ngục. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ông tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Sau cách mạng ông tham gia giữ nhiều chức vụ như: Ủy viên Bộ Chính trị; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
2. Sự nghiệp sáng tác
Bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Những bài thơ đầu tiên của ông được sáng tác từ năm 1937 – 1938. Tố Hữu là nhà thơ có nhiều cống hiến cho cách mạng và thơ ca Việt Nam. Ở ông có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ ca. Tố Hữu là nhà thơ viết rất hay, rất thật, rất cảm động về lí tưởng tổ quốc, về Bác Hồ hay về người lính, người mẹ. Ông còn được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng với những vần thơ làm rung động trái tim của nhiều thế hệ người đọc. Tố Hữu có các tập thơ nổi tiếng như: Từ ấy (1937 – 1946), Việt Bắc (1946 – 1954), Gió lộng (1955 – 1961), Ra trận (1962 – 1971), Máu và hoa (1972 – 1977)… Với những đóng góp của mình ông đã nhận được nhiều giải thưởng như: Gỉai nhất Gỉai thưởng văn học Hội nhà văn Việt Nam; Gỉai thưởng văn học ASEAN; Gỉai thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật.
“Khi con tu hú” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của tập thơ “Từ ấy”. Đó là tiếng lòng của chàng thanh niên 19 tuổi say mê lí tưởng, tha thiết yêu đời, hăng hái hoạt động, bị giam cầm, tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Bài thơ được viết theo thể lục bát với phương thức biểu đạt là miêu tả và biểu cảm. Trong đoạn thơ tác giả đã chỉ ra những cảm nhận về mùa hè qua từng giác quan để từ đó thể hiện khao khát vượt ra khỏi phòng giam để cảm nhận được không gian mùa hè.
Đọc bài thơ ta sẽ thấy tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc như hoán dụ ở phần tiêu đề khiến nó trở nên đa nghĩa gợi nhiều cách hiểu sáng tạo cho người đọc. Cách liệt kê cũng được tác giả sử dụng vô cùng sáng tạo trong từng vần thơ. Bài thơ là bức tranh mùa hè được tác giả cảm nhận thông qua tiếng chim tu hú kêu. Hàng loạt hình ảnh mùa hè vui tươi nhộn nhịp tràn đầy sức sống hiện ra trước mắt người chiến sĩ cách mạng khiến họ khao khát được trông thấy, được cảm nhận, được chạm vào và được nếm thử những hương vị tươi mới của mùa hè.
Qua bài thơ ta đã thấy được khả năng quan sát tinh tế cũng như ngòi bút miêu tả xuất sắc của Tố Hữu.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Thơ Tố Hữu Và Những Bài Thơ Đi Cùng Đất Nước trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!