Xu Hướng 10/2023 # Nghị Luận: Một Câu Thơ Hay Là Một Câu Thơ Có Sức Gợi (Lưu Trọng Lư) # Top 12 Xem Nhiều | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Nghị Luận: Một Câu Thơ Hay Là Một Câu Thơ Có Sức Gợi (Lưu Trọng Lư) # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Nghị Luận: Một Câu Thơ Hay Là Một Câu Thơ Có Sức Gợi (Lưu Trọng Lư) được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nghị luận: “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi” (Lưu Trọng Lư)

Nhà văn nguyễn Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Nghĩa là phải có sức khơi gợi ở người đọc những cung bậc tình cảm sâu thẳm. Bàn về điều đó, nhà thơ Lưu Trọng Lư từng khẳng định: “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi “.

Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần, nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen, độc hại…. Người “phu chữ” của cuộc đời hẳn đã phải như chàng trai Samet trong tác phẩm của Pautovski đi khắp nơi để gom bụi quý tạo thành một bông hồng vàng giá trị. Và công việc ấy lại càng khó khăn hơn bởi khi nó hoàn thành, người đánh giá nó không ai khác ngoài độc giả. Câu thơ có tồn tại được hay không, có chỗ đứng trong lòng người đọc hay không còn phụ thuộc vào việc “sức gợi” mà nó tạo ra trong lòng người.

Nói về thơ có rất nhiều ý kiến, có người dùng những ngôn từ trau chuốt để bày tỏ quan điểm sáng tác của mình, nhưng cũng có những quan điểm thật hàm súc như của Lưu Trọng Lư. Quan niệm “hay” hay “dở” thật ra nằm trong một phạm vi rất chủ quan. Nhưng những sự chủ quan đó luôn có một điểm giao nhau và Lưu Trọng Lư đã dùng câu này để nói về điểm giao nhau đó, là điều kiện cần để câu thơ được người ta đánh giá cao.

“Sức gợi” tức là những khoảng trắng trong tác phẩm văn học, là những tín hiệu nghệ thuật mang hàm ý sâu thôi thúc người ta đọc và suy ngẫm. Gợi cho độc giả những tư tưởng, tình cảm mới mẻ cũng là gợi mở cho- người đọc đi tìm một cách hiểu khác, ở bất cứ cách hiểu nào, đó cũng là cách ta đánh giá một câu thơ hay, một nhà thơ bậc tài. Thơ hay, thơ bắt nguồn từ cảm xúc và tìm đến cảm xúc cũng là lí lẽ muôn đời của người cầm bút, như nhà phê bình Hoài Thanh nhận định: “Cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

Qua quá trình tiếp nhận mang bản chất là đồng sáng tạo nên người đọc chính là người tạo nên số phận thứ hai cho tác phẩm. Nếu bỏ qua yếu tố này, thi tác phẩm sẽ không có sức sống vì một tác phẩm không có sức gợi là một tác phẩm chết. Đặc điểm thơ muôn đời vẫn là “ý tại ngôn ngoại” và những ý ở ngoài lòi đó là nơi cần độc giả sử dụng tài năng và tâm huyết của minh, để lấp đầy “khoảng trắng” mà đến với tư tưởng tác giả. Đối với con người bình thường, ta đã thấy gì mà người ta có quá dễ dàng thì sẽ không biết quý trọng và mau chán nản.

Một câu thơ hay cũng như là một báu vật vô giá trị vậy, thôi thúc người ta tìm chiếc chìa khóa cho nó để tiếp cận tư tưởng của nhà văn. Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ảm ảnh”. Sở dĩ có sự ảm ảnh bởi vì câu thơ ấy thôi thúc người ta suy nghĩ về nó, hòa tâm của mình vào bài thơ và trăn trở tìm cho ra chiếc chia khóa thơ còn được cất giữ trong ngõ ngách tâm hồn. Cùng một câu thơ nhưng nhiều người, nhiều hoàn cảnh, nhiều số phận có nhiều cách hiểu khác nhau. Chính vì thế mà thơ có sức sống bất diệt nối tiếp từ thời đại này sang thòi đại khác, số phận này sang số phận khác.

Kết thúc bài thơ Đồng chí, nhà thơ Chính Hữu viết: “Đầu súng trăng treo” hết sức ấn tượng. Chỉ bốn từ thôi mà gợi ra nhiều cách hiểu. Tác giả đã ca ngợi hình ảnh đẹp hiện lên giữa rừng khuya, đồng thời gợi cho độc giả liên tưởng: ánh trăng tượng trưng cho ánh sáng của hòa bình, đầu súng là một hình ảnh của chiến hanh. Giữa rừng khuya này, các anh chiến sĩ đang chiến đấu vì hòa bình nhân loại.

Lưu Trọng Lư hẳn đã nhiều năm gắn với nghiệp làm thơ rồi mới có thể đưa ra một định nghĩa đúng đắn như thế. Bởi đây không chỉ là tiêu chí đánh giá một câu thơ hay, mà còn là tiêu chí đánh giá một nhà thơ thực tài nữa. Trong thế giới thợ ca, người ta có thể quên đi anh là ai, anh đã sống cuộc đời như thế nào, nhưng trong hoàn cảnh mà tiếng nói thường ngày rơi vào bế tắc, người ta bỗng nhớ đến anh, và người ta ghi nhớ tên anh bằng những tình cảm, cảm xúc không lẫn lộn bao giờ.

Nhà thơ cần phải trau dồi và không ngừng nâng cao năng lực sáng tác để tạo ra những thi phẩm hay, sống với thời gian. Những tín hiệu nghệ thuật là những hình ảnh, từ ngữ, dấu câu, biện pháp tu từ khiến tác phẩm giàu sức gợi. Chính vì yêu cầu đặt ra với một câu thơ hay này mà lúc sáng tác người làm thơ luôn phải lưu ý đến tính hàm súc trong thơ. Đây là điểm phân biệt rõ giữa thơ và văn xuôi. Thơ cần một sự cô đọng rất lớn trong ngôn từ, cũng vì thế mà giàu sức gợi. Như Maiakovski từng nói: ” Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ mới thu về một chữ mà thôi. Nhưng chữ ấy làm cho rung động Triệu trái tỉm trong hàng năm dài”.

Để phát huy tối đa sức mạnh của thơ ca, để “sức gợi” của tác phẩm lan tỏa rộng ra và sâu hơn, người viết và người đọc luôn cần một sự phối hợp và thấu hiểu. Để câu thơ có sức gợi, người viết cần có đủ tâm và tài để tạo sức sống cho chính tác phẩm của mình, viết những câu thơ sâu sắc, không hời hợt, không quá bí hiểm. Người đọc cần trau dồi trình độ cảm thụ tác phẩm cùng sự thấu hiểu nhà văn để chạm đến cái tư tưởng ẩn sau lớp chữ ấy. Sự đồng điệu, cộng cảm muôn đời vẫn là cứu cánh của văn chương.

Để phát huy tối đa sức mạnh của thơ ca, để “sức gợi” của tác phẩm lan tỏa rộng ra và sâu hơn, người viết và người đọc luôn cần một sự phối hợp và thấu hiểu. Để câu thơ có sức gợi, người viết cần có đủ tâm và tài để tạo sức sống cho chính tác phẩm của mình, viết những câu thơ sâu sắc, không hời hợt, không quá bí hiểm. Người đọc cần trau dồi trình độ cảm thụ tác phẩm cùng sự thấu hiểu nhà văn để chạm đến cái tư tưởng ẩn sau lóp chữ ấy. Sự đồng điệu, cộng cảm muôn đời vẫn là cứu cánh của văn chương. Như Lep.Tônx tôi khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng,bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”.

Tiếng Thu Của Lưu Trọng Lư Có Ảnh Hưởng Thơ Tàu?

Nếu tiếng thu của Âu Dương Tu là tiếng của vật thể, kim khí, gió mưa, tiếng chân người, ngựa, thì tiếng thu của Lưu Trọng Lư là tiếng lòng thầm kín, âm thầm : Mùa thu dưới trăng mờ thổn thức. Mùa thu như một con người đang xao xuyến khôn nguôi, như đang khóc thầm, mà mặt trăng như cũng mờ đi vì sương sa hay vì nước mắt.

“TIẾNG THU” CỦA LƯU TRỌNG LƯ VỚI “THU THANH PHÚ” CỦA ÂU DƯƠNG TU

TRẦN ĐÌNH SỬ

Để minh họa việc đọc một bài thơ xuất phát từ văn bản chúng tôi chọn bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, bởi vì hiện có những cách hiểu khác nhau, và ngôn ngữ là thử thách hàng đầu để khám phá thêm ý nghĩa mới.

Nhan đề Tiếng thu không phải là mới của Lưu Trọng Lư. Đặt trong ngữ cảnh văn học Trung Quốc mà các nhà thơ Việt Nam lúc ấy không xa lạ, thì ta thấy từ đời Tống, Âu Dương Tu đã có bài Thu thanh phú – bài phú tiếng thu. Dù chúng ta chưa biết họ Lưu có chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tác phẩm của họ Âu Dương hay không, thì cái tiếng thu kia vẫn là một ngữ cảnh nghệ thuật. Ta sẽ từ cái chung mà tìm ra cái khu biệt.

Một buổi tối Âu Dương Tu đang ngồi đọc sách trong thư phòng thì bỗng nhiên nghe thấy có âm thanh lạ, thoạt đầu nghe lác đác, rồi sau nghe rào rào, như sóng vỗ, như gió mưa cùng ập đến, tiếng va đập vào mọi vật nghe loảng xoảng như tiếng sắt, tiếng vàng, tiếng binh khí chạm nhau, như có nhiều người ngựa cùng nhịp bước tới. Bảo tiểu đồng ra ngoài xem thì thấy trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc giữa trời, bốn bề vắng lặng. Thì ra tiếng thu vô hình chỉ dội đến trong lòng.

Hai tác giả đời Thanh tuyển chọn bài phú này nhận xét : tiếng thu vô hình mà viết như là có thực, thật hay, đến cuối bài phú lại thể hiện cái ý phiền muộn của con người, đời người từ bé đến già đã chịu bao nhiêu thay đổi, giống như mọi vật đã trải qua từ xuân đến thu. Đó là tiếng thu, một tiếng thu buồn của đời người, mà nghe như là tiếng các vật thể dội vang vào trong lòng. Trong thơ ca Trung Quốc, theo học giả Nhật Tiểu Vĩ Giao Nhất, kể từ Kinh Thi cho đến đời Hán, mùa thu đã xuất hiện nhưng chưa buồn. Từ đời Ngụy Tấn trở đi thu buồn trở thành cảm thức cố định với các hình ảnh : cỏ cây điêu linh, đời người ngắn ngủi, quả phụ nhớ chồng. Người ta liên hệ mùa thu thuộc kim, kim khắc mộc, mùa thu là hình quan, là đao búa đối với cỏ cây. Mùa thu còn là mùa âm khí thịnh, mối sầu bi như giăng mắc khắp nơi. Với truyền thống đó thì phú tiếng thu của Âu Dương Tu mới ra đời.

Nét khu biệt thứ nhất của bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là mang hình thức câu hỏi. Cả bài thơ chín dòng (không phải tám dòng như thể ngũ luật !) tạo thành ba câu hỏi. Đây là biện pháp thường gặp của Lưu Trọng Lư. Trong tập Tiếng thu có 52 bài thơ mà đã có 21 bài sử dụng câu hỏi. Nhưng ở bài Tiếng thu này thì cả bài đều là câu hỏi với dấu hỏi ở cuối mỗi câu. Hình thức câu hỏi này cho thấy bài thơ không phải là mô tả cảnh mùa thu, mà là hỏi về sự cảm nhận tiếng thu. Bài thơ thực chất cũng không phải là bức tranh thiên nhiên, mặc dù có những màu sắc, đường nét. Trước đây cũng đã có người nhầm bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là thơ tả cảnh ! Hình thức ba câu hỏi đã chứng tỏ bài thơ không thuộc hình thức thơ ngũ ngôn truyền thống, mà là thơ điệu nói hiện đại với những câu thơ câu nào cũng vắt dòng, dòng này tràn sang dòng kia, mặc dù mỗi dòng vẫn là năm chữ. Theo bản in năm 1939 thì bài thơ chỉ viết hoa có ba chữ “Em” đầu câu hỏi, không viết hoa các chữ đầu dòng còn lại. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, nó đòi hỏi người ta phải cảm nhận nó khác với cách cảm nhận thơ Đường lấy ý họa làm chính. Điều thú vị mà chúng tôi đã nhận xét là thơ mới đã đến lâu rồi, mà người ta vẫn thưởng thức nó theo con mắt, tập quán thưởng thức thơ Đường ! Năng lực, thói quen thưởng thức thơ của người đọc, dù người đọc là nhà thơ, cũng thường lạc hậu so với thực tế sáng tạo thơ ca.

Dấu hỏi đặt cuối mỗi câu rất quan trọng. Nếu bỏ nó đi thì câu thơ “Em không nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức” sẽ trở thành một câu khẳng định cộc lốc, võ đoán và chẳng có thi vị gì. Cả ba câu đều như thế. Hơn nữa, nếu không có dấu hỏi thì từ “Em” còn có thể được hiểu ở ngôi thứ nhất, lúc đó câu thơ có nghĩa là : “Tôi không nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức”. Cả ba câu đều như thế. Và bài thơ lúc đó sẽ là sự thổ lộ nỗi lòng của một người điếc không nghe được tiếng thu !

Nói như vậy để thấy rằng ý nghĩa của câu hỏi là hết sức quan trọng. Nó là cơ sở ngữ nghĩa của bài thơ, là dấu hiệu dễ thấy về lời thơ như một hành vi, một thái độ, một băn khoăn. Ba câu hỏi xếp theo bút pháp tu từ sóng đôi mà người Trung Quốc thường gọi là “bài tỷ”, có tác dụng tạo giai điệu. Không có câu hỏi, chỉ thuần túy sóng đôi cũng đã tạo thành được giai điệu. Một khi câu hỏi được tạo thành sóng đôi thì nó là giai điệu hỏi, xoáy xâu vào tâm hồn người. Nếu bài thơ này có hồn vía thì hồn vía trước hết thể hiện ở ba câu hỏi này.

Nét khu biệt thứ hai là câu hỏi theo lối phủ định :

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức ?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ ?

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô ?(*)

Chúng tôi có nhận xét, vì sao bài thơ dùng câu hỏi phủ định ? Nếu dùng câu hỏi kiểu : “Em có nghe mùa thu… Em có nghe rạo rực… Em có nghe rừng thu…” thì ý chung của câu hỏi không có gì thay đổi. Nhưng nhà thơ lại dùng chữ “không”. Có thể vì vần bằng ở đây nghe êm ái, ngọt ngào nhưng không chỉ có thế. Việc lựa chọn hình thức kiểu câu hỏi nào phụ thuộc vào cảm giác nội tại, thiết thân của người hỏi đối với người được hỏi. Cái cảm giác nội tại ấy sẽ là tiền giả định để người ta nêu ra phát ngôn. Chọn từ “không” nhà thơ thể hiện cái mặc cảm vô thức về nỗi cô đơn không người chia sẻ. Nhạc thu, cảnh thu tuy có thể hay và đẹp, nhưng thế gian ai người đồng cảm đây ? Vấn đề xốn xang của bài thơ là ai đồng cảm, chứ không phải cảnh có hay, màu có đẹp hay không. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở đây : tiếng thu thật tha thiết, vậy mà dường như em không nghe. Có những dự cảm nào đó về sự thờ ơ của em và bài thơ hỏi ba lần : “Em không nghe… mùa thu… ? … ?”. Câu hỏi nêu ra nhẹ nhàng êm ái để khêu gợi lòng đồng cảm, nhưng trong khi nêu đã mang sẵn mặc cảm cô đơn, vừa khao khát đồng cảm, vừa không tin vào khả năng đồng cảm. Anh đã nghe tất cả, đó là một tiền giả định của câu hỏi. Vậy em không nghe thấy sao, một tiền giả định khác. Trong câu hỏi ở thể phủ định của các câu thơ đã hàm chứa một mâu thuẫn nội tại, tiềm ẩn mơ hồ giữa hai tâm hồn. Đó là cái buồn sâu xa, mới mẻ của bài Tiếng thu, mà cũng là của Thơ mới nói chung. Cùng trong một tiếng thu mà người thì nghe thấy, người thì không nghe.

Sự đối lập giữa người nghe và người không nghe thấy tiếng thu đã có trong bài phú Tiếng thu của Âu Dương Tu. Trong bài phú, Âu Dương Tu đã nghe thấy hết, còn tiểu đồng thì không nghe thấy gì. Tác giả tuyển và bình chú bài này là Ngô Sở Tài và Ngô Điều Hậu nhận xét : “[tiểu đồng] chỉ thấy mà không nghe, diệu !”. “Diệu” là vì qua tương phản này đã lột tả được tiếng thu vô hình, hư ảo, không phải ai cũng nghe thấy, nó đề cao sự tinh tế của Âu Dương Tu. Tiểu đồng không nghe thấy là chuyện thường cũng không ai bắt nó phải nghe thấy, một mình Âu Dương Tu nghe thấy và thể hiện là đủ rồi, không cần phải có ai nghe thêm nữa bởi ông là người phát hiện tiếng thu. Trong bài thơ của mình Lưu Trọng Lư làm một phát hiện khác : có những tấm lòng có thể không nghe thấy tiếng thu. Tiếng thu mà ông miêu tả càng thiết tha, càng da diết, thì sự không nghe thấy càng đáng tiếc, đáng buồn. Cái niềm tin rằng mình nghe thấy thì ai cũng nghe thấy của thời xưa không còn nữa. Do đó, câu hỏi phủ định trong bài thơ mang đậm ý vị của một lời than hơn là một lời chất vấn, than thân mình cô độc ngay trong cảm nhận về cuộc đời. Lời than này họa điệu với những thổn thức, rạo rực, tiếng kêu…

Nét khu biệt thứ ba : Nếu tiếng thu của Âu Dương Tu là tiếng của vật thể, kim khí, gió mưa, tiếng chân người, ngựa, thì tiếng thu của Lưu Trọng Lư là tiếng lòng thầm kín, âm thầm : Mùa thu dưới trăng mờ thổn thức. Mùa thu như một con người đang xao xuyến khôn nguôi, như đang khóc thầm, mà mặt trăng như cũng mờ đi vì sương sa hay vì nước mắt. Đó là tiếng buồn của mùa thu nói chung, nhưng không còn là tiếng của mùa thu thuộc kim và âm khí thịnh, mà là tiếng lòng con người phóng chiếu vào mùa thu. Hình ảnh cô phụ nhớ chồng là một môtíp thơ lâu đời có từ thời Hán, Ngụy bên Trung Quốc. Những câu như : “Lòng thiếp cảm ngao ngán, Mặt trời vội về Tây, Nhớ chàng suốt năm canh”, “Nhớ chàng buồn đứt ruột, Trăng sáng chiếu vào giường, Sông Ngân xoay về Tây”, “Chàng đi xa khổ mãi, Tại làm sao không về”, có thể bắt gặp rất nhiều. Nhưng Lưu Trọng Lư không kể lể nỗi lòng, mà nói tới cảm giác rạo rực của hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ. Có người đem tách “Hình ảnh kẻ chinh phu, Trong lòng người cô phụ” ra khỏi câu hỏi tự nhiên, liền mạch : “Em không nghe rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ”, để rồi cho rằng đó là hình ảnh văn xuôi, chẳng có chất thơ tý nào ! Tách ra như thế thì câu nào cũng vô nghĩa. Đây là bài thơ mà câu thơ vắt dòng, hình ảnh kẻ chinh phu là chủ ngữ của câu phụ, còn rạo rực là vị ngữ ! Cái mới của Lưu Trọng Lư là lắng nghe tiếng rạo rực trong lòng người. Hình ảnh “lá thu kêu xào xạc” cũng là một ẩn dụ. Xào xạc là tiếng kêu than của lá, họa điệu cùng tiếng thổn thức, rạo rực ở trên. Hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô” là một hình ảnh đẹp lộng lẫy. Nhưng đồng màu mà không đồng cảm, bởi con nai vàng đạp trên lá vàng khô, khi lá thu “kêu” xào xạc – “Đạp” là một động tác rất mạnh, dùng sức, như nói : đạp cửa xông vào, đạp bằng chông gai, đạp xe, đạp đổ, v.v… Ở đây con nai không phải “bước”, “đứng”, “chạy” mà là “đạp”, một động tác có tính chất phũ phàng, dù là ngơ ngác, vô tình. “Ngơ ngác” là trạng thái lạc lõng, không biết gì xung quanh. “Con nai vàng ngơ ngác” trở thành biểu tượng cho cái đẹp vô tình, ngây thơ, lạc lõng. Nếu bảo bức tranh đẹp vì con nai vàng trong rừng thu vàng, thì hóa ra mấy chữ “đạp”, “ngơ ngác”, “kêu xào xạc” không có ích gì để hiểu hình tượng con nai vàng hay sao ?

Giai điệu chính của bài Tiếng thu là điệp khúc “Em không nghe”. Cả bài thơ chỉ có mỗi một điệp khúc ấy. Ứng với nó là tiếng thu nghe từ những cảnh khác nhau. Ba cảnh khác nhau, xa nhau nhưng đều liên kết thống nhất trong tiếng thu : tiếng thổn thức, tiếng rạo rực, tiếng lá kêu. Đó là tiếng buồn của thời gian vô tình, tiếng khát khao hạnh phúc, tiếng kêu gọi đồng cảm. Đó là tiếng thu của thế giới khách quan hay là tiếng vang lên từ cõi lòng cô đơn của con người ? Thật khó mà xác định ! Tiếng thu là tiếng của đất trời vào thu, lẽ nào anh và em có thể ở ngoài tiếng ấy ? Tiếng của anh cũng là tiếng thu. Em không nghe tiếng lòng anh hay không nghe cả chính tiếng lòng em nữa !

Cảnh trong bài thơ là hư cảnh, tâm cảnh hiện ra trong lòng. Ai thấy được cảnh mùa thu thổn thức ? Ai thấy được cảnh hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ ? Thật ngây thơ nếu ta hiểu con nai vàng ở đây là con nai thật giữa rừng thu ! Nếu trong thiên nhiên đã có con nai thường ngơ ngác rồi, thì thêm một con nai như thế trong thơ làm gì ? Đây chỉ là con nai biểu trưng. Là cái đẹp thiếu lòng đồng cảm, phải chăng con nai là hiện thân của “em” ? Cho nên hình ảnh đẹp nhưng mà lạnh.

Nét khu biệt thứ tư là nhạc điệu. Có người gọi đây là nhạc thơ của thơ mới. Chúng tôi chỉ xin lưu ý vai trò của vần trắc : chín dòng thơ mà có năm tiếng trắc ở cuối dòng, ba cặp vần liền là trắc, bốn cặp từ láy là trắc. Bài thơ có những câu thật êm ái, du dương, nhưng các vần trắc chiếm ưu thế ở vị trí mạnh với các vần : ức, ực, ụ, ạc, ác làm cho tiếng thu không ngân vang lên được, mà thu lại, tắc nghẹn lại trong lòng. Các vần bằng u, ô cũng không phải vần vang, nó là tiếng âm thầm.

Nét khu biệt cuối cùng là kết cấu phi đối xứng. Chỉ có câu hỏi mà không thấy câu trả lời, chỉ có một bên nghe mà phía em thì mù mịt. Nó thể hiện khát vọng hài hòa, tha thiết của bài thơ.

Tóm lại, ý nghĩa của ngôn ngữ thơ thể hiện trên cơ sở khu biệt, hệ thống khu biệt tạo thành ngôn ngữ của tác phẩm thơ. Ý nghĩa của bài thơ bộc lộ trong ngữ cảnh của tác phẩm, trong ngữ cảnh văn học và văn hóa. Bất cứ ai phân tích thơ, cảm thụ thơ, dù tự giác hay không cũng đều bắt đầu từ các nét khu biệt, khám phá cái nét khu biệt càng toàn vẹn, càng đầy đủ, càng có cơ nắm bắt sâu sắc, tinh tế các sắc thái phong phú, mới lạ, bất ngờ của tác phẩm thơ. Xuất phát từ ấn tượng thơ để phân tích thơ là con đường tự nhiên, lành mạnh để tiếp cận thơ… Song xuất phát từ văn bản nghệ thuật với hệ thống các khu biệt mới là con đường khách quan, lâu dài, hứa hẹn những cách hiểu mới.

  

Lưu Trọng Lư Với Bài Thơ “Tiếng Thu”

Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư.

Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh, và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn.

Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: Cả đời Lư cũng là một bài thơ, nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết.

Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:

Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ

Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô…

Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ Đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:

Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ

Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng, người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chứ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi thế, người đọc cũng phải dùng hồn để chiêm ngưỡng nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp “Em không nghe”:

Em không nghe mùa thu Em không nghe rạo rực Em không nghe rừng thu…

Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời…

(Rút từ CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI)

Theo Trần Đăng Khoa

Bình Giảng Bài Thơ Tiếng Thu Của Lưu Trọng Lư.

Đề bài: Em hãy bình giảng bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư để thấy được cảm xúc chủ đạo của bài thơ.

Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia phôi, mất mát. Vốn là một đề tài đã quá quen thuộc, lại được chắp bút thành công bởi rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Nhưng, không để cho cái quen thuộc, thành công ấy cản bước, cũng bắt nguồn cảm xúc từ mùa thu, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư đã không đi vào những khía cạnh quen thuộc mà thi nhân xưa đã khai thác, ông lựa chọn cho mình một phương thức biểu đạt mới, một cách cảm nhận mới lạ đầy tinh tế. Và sự thành công, mới lạ này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tiếng thu”.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư vốn là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam. Thơ của ông không cầu kì trau chuốt, mà thơ của Lưu Trọng Lư hay bởi chính cái chất liệu bình dị mà nhà thơ xây dựng lên nó. Hiện lên trong thơ Lưu Trọng Lư thường là những hình ảnh gần gũi, thân quen do đó nó bình dị mà đầy sức gợi, đơn sơ mà đầy tính tạo hình. Bài thơ “Tiếng thu” vừa là một bức tranh mùa thu đầy thi vị, vừa là bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình tha thiết, xúc động lòng người. Ngay ở phần mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình xuất hiện cùng với những lời tâm sự chân thành, đầy da diết:

“Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?”

Câu thơ như vừa như lời tự hỏi, vừa như lời trách móc đầy tình cảm của nhân vật trữ tình đối với người mình yêu. Trong tình yêu, những đôi lứa yêu nhau thường mong muốn có những phút giây riêng tư, hạnh phúc bên nhau để cùng cảm nhận những dư vị tươi đẹp, chia sẻ những phút giây hạnh phúc khi đón nhận những đổi thay của cuộc sống. Ở đây, mùa thu đến nhưng đôi lứa lại không ở bên nhau, mỗi người ở một nơi. Và chính khoảng cách địa lí đó đã vô tình tạo ra khoảng cách trong tâm hồn, vì xa cách mà chàng trai băn khoăn trăn trở trách móc “Em không nghe mùa thu”. Có lẽ trong cảm nhận của chàng trai giờ đây tràn ngập cảm xúc, tư vị của tình yêu dành cho cô gái. Nhưng vẫn băn khoăn rồi đi đến khẳng định, cô gái không “nghe” được, cũng tức là không cách nào cảm nhận được tấm chân tình của mình.

Mùa thu thường gợi cho người ta cảm nhận về nỗi buồn, những nỗi buồn man mác bởi chính sự nhạt nhòa, phôi pha của cảnh vật. Và trong không gian ấy thì đối với những đôi lứa yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau lại càng thêm khắc khoải. “Dưới trăng mờ thổn thức”, vì em không nghe thấy mùa thu nên em cũng không thể cảm nhận được ánh trăng mờ, điều đặc biệt là ánh trăng vô tri vô giác ấy được nhà thơ Lưu Trọng Lư khoác lên nó màu sắc của các giác quan, nên dưới ánh trăng mùa thu, hay nói đúng hơn là dưới sự cảm nhận của nhân vật trữ tình thì ánh trăng cũng đượm buồn “thổn thức”, đó là màu sắc ánh trăng hay cũng chính là màu sắc tâm trạng bi ai của nhân vật trữ tình ấy.

“Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ”

Tình cảm nồng nàn, đắm say, rạo rực vốn là những cảm xúc thuộc về tình yêu, và để có được những cảm xúc đấy thì có điều kiện tất yếu là những đôi lứa phải được ở gần nhau, ở cạnh nhau. Và trong bài thơ này, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã nói đến cái rạo rực, tha thiết trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Nhưng cái đặc biệt là cái rạo rực ấy hoàn toàn đơn phương. Bởi cô gái không cảm nhận được, không nghe thấy “Em không nghe rạo rực”. Nhà thơ đã điệp lại cấu trúc “Em không biết” như diễn tả cái dạt dào trong cảm xúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ gợi tả sinh động thông qua gợi nhắc đến cặp hình tượng người chinh phu và chinh phụ.

Thông qua cặp hình tượng này, người đọc dường như liên tưởng đến hoàn cảnh cách biệt của đôi phu phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Người chinh phu ở nơi chiến trường xa xôi, người chinh phụ thì mong ngóng, trông chờ tin tức của người chồng. Cái rạo rực ở đây chính là nỗi nhớ đến cháy bỏng cùng với nỗi thấp thỏm, khắc khoải không yên. Vì nơi người chồng ra đi là nơi chiến trận, hiểm nguy luôn rình rập, tính mạng có thể bỏ ngỏ bất cứ lúc nào. Vì vậy tình yêu thương cùng tâm trạng lo lắng, mong chờ, tạo ra cảm giác rạo rực khôn nguôn. Ở đây nhà thơ Lưu Trọng Lư mượn cặp hình tượng này để nhấn mạnh nỗi nhớ của mình dành cho cô gái. Đó là tình cảm rạo rực, khắc khoải khôn nguôi.

“Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc”

Vẫn là điệp khúc “em không nghe”, được lặp lại đến lần thứ ba, gợi liên tưởng đến dòng tâm sự dạt dào như thác tràn ra trên mặt giấy. Ngay từ những câu thơ đầu, nhân vật trữ tình đã mặc định là cô gái không nghe thấy mọi sự đổi thay của trời đất, hay đúng hơn là những tâm sự triền miên, khắc khoải trong tâm trạng của mình. Và không nghe không phải cô gái vô tình, không muốn nghe mà do hoàn cảnh cách li, nên cô gái không thể lắng nghe mà cũng không thể cảm nhận đến tận cùng cái dạt dào ấy. “Em không nghe rừng thu”, không gian được gợi mở ở đây chính là không gian rừng thu, nơi chứa đựng, sinh sôi của vạn vật. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của thế giới tâm hồn của chàng trai.

Và trong rừng thu ấy, tiếng lá rơi rụng mang đến những âm thanh xào xạc. Nó gợi ra những nét tương đồng trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và trong thế giới tâm hồn đầy phong phú, nhạy cảm ấy, tiếng lòng của chàng trai càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Và những rung động, những âm thanh đầy hỗn loạn trong thế giới ấy là do cô gái, đối tượng tình ái của chàng trai ấy. Bởi không chỉ có yêu thương, không chỉ có cái rạo rực, da diết mà còn có chút giận hờn, trách móc…những tư vị đặc biệt chỉ có thể có khi tình yêu đích thực nảy nở, bám rễ trong tâm hồn.

Từ đầu đến cuối đều là những độc thoại của nhân vật trữ tình với chính mình, những câu nói hàm chứa sự giận hờn, trách móc ấy cũng chỉ đặt ra rồi tồn tại khắc khoải, trăn trở trong chính tâm hồn đầy nhạy cảm ấy. Cô gái không hề xuất hiện, cũng không thể xuất hiện, do đó đọc những dòng tâm sự của chàng trai dành cho cô gái, độc giả không khỏi bồi hồi, xúc động. Tình yêu đó thật mãnh liệt, thật đẹp đẽ, trong sáng biết bao. Đẹp bởi nó đủ mạnh để chàng trai kiên định, đấu tranh để bảo vệ tình yêu ấy. Đẹp bởi dù có những tổn thương không mong muốn thì chàng trai vẫn theo đuổi đến cùng tình yêu của đời mình. Và lời tuyên ngôn ấy cũng thể hiện qua hai câu cuối của bài thơ:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, vừa là bức tranh mùa thu dù đẹp nhưng mang những nét đượm buồn; cũng vừa là bức tranh tâm trạng đầy sống động của nhân vật trữ tình. Và sự vận động của tâm trạng ấy cũng khiến người đọc không khỏi xúc động, bồi hồi. Từ những cách ngăn trong tình cảm thì dòng cảm xúc ấy vẫn dần lớn lên. Và khi đã đủ “chín” thì tình yêu ấy vươn lên mọi hoàn cảnh, trở ngại để trở thành bất tử.

Nguồn: Văn mẫu

Bài Thơ Tiếng Thu Của Lưu Trọng Lư

Như một phút chợt dừng trong trường tình phiêu lưu của Lưu Trọng Lư, “Tiếng thu” dội lên âm thanh day dứt của một thời xa xưa và còn vọng mãi đến bao giờ?

Xuất hiện giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh lẽo, mùa thu mát dịu và mơ màng là nguồn cảm hứng bất tận của văn nhân, thi sĩ xưa nay. Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã đóng góp cho văn học sử nước nhà hai bài thơ hay về cảnh thu và tình thu. Với Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu:

Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô?

Chủ đề tiếng thu đã được nhà thơ thể hiện trước hết bằng từ ngữ. Xuyên suốt bài thơ là một từ ” nghe ” xuất hiện ba lần ở đầu mỗi khổ thơ. Người đọc nghe gì?

Chúng ta nghe lời “thổn thức” dưới ánh trăng mờ của mùa thu được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng “rạo rực”xào xạc ” trong rừng vắng. của người cô phụ có chồng đi đánh giặc xa, nghe tiếng lá thu rơi “

Chủ đề tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng thanh âm. Đó là hai câu thơ có toàn thanh bằng xuất hiện ở đầu khổ thơ thứ nhất và thứ ba: “Em không nghe rừng thu”

Trước cách mạng tháng Tám, trong khi câu thơ Đường và thơ lục bát với luật gián cách bằng trắc còn ngự trị trên văn đàn, Lưu Trọng Lư đã sáng tạo và độc đáo khi tự do viết những câu thơ ngũ ngôn có toàn thanh bằng để miêu tả tiếng thu.

Đọc những câu thơ này, cùng với sự hỗ trợ của nguyên âm “u” tròn môi xuất hiện nhiều lần ở cuối câu thơ, ta như nghe được tiếng thu êm đềm, nhẹ nhàng và vang vang của tác giả.

Cú pháp của bài thơ cũng góp phần biểu hiện tiếng thu. Không phải ngẫu nhiên mà cả ba khổ thơ của bài Tiếng thu đều được viết bằng ba dấu hỏi ở cuối ba khổ thơ này. Tại sao tác giả phải hỏi liên tục như vậy? Tại vì nhà thơ không tin người em nào đó có thể nghe được cái tiếng thu quá xa vắng và mơ hồ. Không nghe ư? Em hãy lắng lòng sâu đậm để tiếp nhận tiếng thu dịu nhẹ và mơ màng ấy.

Thêm vào đó, cách gieo vần liền bằng các từ láy đặt ở cuối câu thơ đã liên kết các câu thơ trong khổ (” xào xạc” với ” ngơ ngác“) và các khổ trong bài (” thổn thức” và ” rạo rực “), vừa làm giàu yếu tố nhạc của thơ, vừa làm cho các câu thơ và khổ thơ như kéo dài ta và nối lại với nhau, tạo cho bài thơ cái âm hưởng miên man của khúc thu ca.

Để thưởng thức trọn vẹn giai điệu mùa thu của Lưu Trọng Lư, hãy đọc lại Tiếng Thu, đọc liền mạch và chỉ dừng lại một giây khi gặp dấu chấm hỏi. Hãy tưởng tượng có ai đó ném xuống mặt nước phẳng lặng của hồ thu một viên đá nhỏ. Nhiều vòng tròn sóng đồng tâm xuất hiện và lan tỏa mãi. Đó là hình ảnh làn sóng âm thanh của tiếng thu mà nhà thi sĩ Lưu Trọng Lư đã làm vang lên trong tâm hồn mỗi người.

Hai dòng thơ cuối của Tiếng thu đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”

Ta nghe gì khi nhìn thấy hình ảnh ấy? Có phải ta nghe tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác? Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…

Tắt một lời, thu thanh của Lưu Trọng Lư là vô thanh. Đó là cái “vô thanh thắng hữu thanh” mà tác giả Tỳ Bà Hành là Bạch Cư Dị đã một lần khẳng định trong cảnh trăng nước tương giao trên bến Tầm Dương. Với nhận thức tinh tế của nhà thi sĩ, trong Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã cảm được cái tiếng thu ấy khi nhìn những “thiếu nữ buồn không nói”. Bằng trí tuệ của một nhà phê bình có biệt tài, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã “ngộ” được cái thu thanh ấy khi bình Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

” Tiếng thu” ấy, riêng gì mùa thu mới có? Tuy nó phát khởi từ mùa thu nhưng nó đã vang bên tai loài người từ muôn đời thì bao giờ chả còn chút dư âm sau những ngày thu tàn tạ. Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng thì dầu trong mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi ” chiều thu “, những buổi mà cái buồn vẩn vơ nó đến van lơn cám dỗ, những buổi mà tiếng thu vàng, gieo vừa nhẹ, vừa chìm…

Bài Thơ Một Mùa Đông & Ca Khúc Người Em Sầu Mộng Từ Mối Tình Của Lưu Trọng Lư Và ……

Posted on by banmaihong

Sắp đến kỷ niệm 106 năm ngày sinh của Lưu Trọng Lư Chúng ta cùng tìm hiểu về Tiểu sử và Mối tình nên thơ của ông với một Tiểu thư xinh đẹp xứ Huế mộng mơ, Phùng Thị Cúc , sau này chính là Nghệ sĩ điêu khắc lừng danh Điềm Phùng Thị : Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.

Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn. Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973). Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc. Nhận xét của Hoài Thanh – Hoài Chân: “…. thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”..

Chuyện tình thơ mộng giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư với nữ sinh Phùng Thị Cúc

Trong Thi nhân Việt Nam (của Hoài Thanh, Hoài Chân), Lưu Trọng Lư được đánh giá cao với những bài thơ nổi tiếng như: Nắng mới, Tiếng thu, Thơ sầu rụng, Một mùa đông, Giang hồ, Còn chi nữa, Thú đau thương, Chiều cổ…

Bài thơ “Một Mùa Đông” kể lại một câu chuyện tình thơ mộng nhưng dang dở của thi sĩ với cô gái xinh đẹp Phùng Thị Cúc.

– Phùng Thị Cúc sinh ngày 18/8/1920 tại làng Châu Ê, xã Thủy Bằng, ven đô Huế, quê nội ở xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bà là con ông Phùng Duy Cẩn từng làm quan triều Nguyễn, có thời làm tham công chỉ huy việc xây lăng Khải Định. Mồ côi mẹ từ lúc 3 tuổi, bà theo cha sống ở Tây Nguyên. 6 tuổi đã theo cha sống khắp các tỉnh vùng cao nguyên trung phần ròng rã 9 năm, rồi mới về Huế học Trường Đồng Khánh.

Năm 1946, bà tốt nghiệp nha khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội khóa đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn quốc kháng chiến, bà ra vùng tự do phục vụ cho cách mạng. Vì một cơn bạo bệnh, Phùng Thị Cúc được đưa sang Pháp điều trị. Tại Pháp sau khi khỏi bệnh, Phùng Thị Cúc tiếp tục theo học và tốt nghiệp bác sĩ nha khoa. Sau đó Phùng Thị Cúc đã kết hôn với bác sĩ Bửu Điềm. Tên Điềm Phùng Thị ra đời từ đó. Mãi đến năm 30 tuổi, bà mới đến với nghệ thuật điêu khắc. Vào năm 46 tuổi, bà có cuộc triển lãm đầu tiên và được công chúng Pháp chào đón nồng hậu. 36 tác phẩm điêu khắc của bà được đặt khắp lãnh thổ nước Pháp. Tên tuổi của Điềm Phùng Thị đã nổi danh khắp châu Âu. Những năm cuối đời bà quay về sống ở quê hương và đã mất ở Huế năm 2002.

Trở lại với thời điểm và nguyên cớ ra đời của bài thơ Một Mùa Đông.

Khi đó Cúc mới là một cô nữ sinh, từ Huế ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Trên chuyến tàu tốc hành Huế – Hà Nội, cô được người chị là bạn của Lưu Trọng Lư gửi gắm nhà thơ trông nom giùm em gái, với lời dặn thân tình “Dọc đường giúp em một chút”. Cúc là một cô gái Huế sang trọng, đài các, hoa khôi của Trường Đồng Khánh. Gương mặt kiều diễm với đôi mắt đẹp mang nét buồn vời vợi cùng nụ cười thiên thần có má lúm đồng tiền đã hút hồn nhà thơ đa tình của chúng ta ngay từ phút đầu gặp gỡ. Suốt chặng đường dài hai người cũng chẳng có chuyện gì nhiều để nói với nhau. Cúc im lặng ngắm cảnh dọc đường. Và nhà thơ thì lẳng lặng nhìn ngắm giai nhân. Khi tàu về đến ga Hà Nội, nhìn thấy trên gương mặt người đẹp thoáng chút lo lắng, vì đây là lần đầu tiên cô tới Thủ đô, nhà thơ đã hỏi địa chỉ và tình nguyện đưa cô đến tận nơi. Thi sĩ đã thực hiện đúng lời bạn dặn dò và chắc hẳn đó cũng là “mệnh lệnh của trái tim” chàng. Tìm đến đúng địa chỉ, Lưu Trọng Lư đưa Cúc lên tận căn gác nhỏ, nơi có căn phòng của những người bạn, người chị của cô đang ở. Chào hỏi, dặn dò rồi bịn rịn chia tay. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì tình cờ Lưu Trọng Lư gặp thi sĩ Phạm Hầu – người bạn nhỏ của nhà thơ khi đó đang học Cao Đẳng Mỹ thuật ở Hà Nội. Phạm Hầu mời Lư vào nhà chơi. Khi lên gác, bước vào một căn phòng, mở cửa sổ ra, nhà thơ giật mình khi nhìn thấy người bạn đường xinh đẹp mà mình vừa chia tay ít phút trước đây đang ở ngay bên khung cửa sổ của căn phòng đối diện. Vậy là không một chút đắn đo, Lư quay sang nói ngay với bạn: “Mình ở luôn đây với cậu được không?”. Phạm Hầu nhiệt tình vui vẻ đồng ý ngay. Lưu Trọng Lư vui sướng ngây ngất. Nhà thơ chỉ còn biết cảm ơn trời đất đã run rủi cho mình được gặp mối duyên may mắn kỳ lạ này. Suốt mùa đông năm đó, giữa cái giá lạnh của tiết trời Hà Nội nhà thơ đã được sống trong sự ấm áp dịu nhẹ của một mối tình sáng trong, thơ mộng.

Ở căn phòng bên này cô gái cũng không thể vô tình. Bởi ngay lần đầu tiên, khi nhà thơ nhìn qua cửa sổ đã bắt gặp đôi mắt Cúc mở to, sững sờ nhìn người anh “dẫn đường” rồi sau đó bối rối mỉm cười rời khỏi khung cửa. Sau này, thật lạ lùng mỗi khi nhà thơ bất thần mở cửa sổ lại nhìn thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang cắm một lọ hoa.. Cũng có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư mơ mộng. Cũng có khi nghe một tiếng ho nhẹ, nhà thơ mở hé cửa nhìn sang lại bắt gặp nụ cười bối rối, e thẹn của người đẹp. Cũng có lần khi mở cửa sổ, nàng không hề ngước lên nhìn, cho đến lúc cánh cửa như tự nó khép lại. Lại có lần không biết vì chuyện gì, Cúc ném sang bên này một cái nhìn hờn giận, trách móc khiến nhà thơ ngơ ngẩn suốt một buổi chiều.

Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình Lưu Trọng Lư – Phùng Thị Cúc Mọi việc dường như chẳng có gì khác lạ: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở.. Thế nhưng sự trông đợi nhớ nhung đã thấm vào gan ruột từng ngày từng ngày một. Làm sao có thể nhớ hết được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của thi sĩ đa tình, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Một Mùa Đông ra đời. Bài thơ gồm 4 đoạn kể lại một “love story” trong mộng ảo mà thấm đẫm những nỗi đau có thật.

Nhà thơ đã lí giải thật tài tình tâm trạng và nỗi lòng của mình. Có lẽ đây là đoạn thơ có những câu thơ ấn tượng hơn cả: chúng tôi chỉ là người em gái thôi, Người em sầu mộng của muôn đời, Tình em như tuyết giăng đầu núi, Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời. Ai bảo em là giai nhân Cho đời anh đau khổ? Ai bảo em ngồi bên cửa sổ Cho vướng víu nợ thi nhân? Ai bảo em là giai nhân Cho lệ tràn đêm xuân? Cho tình tràn trước ngõ? Cho mộng tràn gối chăn? Thật thú vị khi được biết rằng trong bài thơ lãng mạn này lại chứa đựng những câu chuyện hoàn toàn có thực. Nhà thơ Lưu Trọng Lư kể rằng, sau một thời gian sống cạnh nhau, tình cảm của hai người cũng có “bước phát triển” mới. Theo sự sắp đặt của những người bạn, có lần hai người đã đi chơi chùa Thầy cùng với một nhóm bạn. Sau một hồi leo núi, nhìn chung quanh chẳng thấy ai, chàng và nàng ngượng ngập đi bên nhau. Đến trưa cả nhóm mới trở lại sân chùa cùng ăn trưa. Bữa trưa có gà quay và rượu vang Pháp. Bắt chước mọi người, Cúc cũng uống vài li rượu nho. Đôi má ửng hồng và cặp môi nhuốm màu nho chín, rơi trên trán vài lọn tóc đen nhánh… Tất cả đã tạo thành một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh lớn: … Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm Em vẫn đùa nô uống rượu say. Em có biết đâu đời vắng lạnh, Lạnh buồn như ngọn gió heo may. Môi em đượm sặc mùi nho tươi, Đôi má em hồng chúm nụ cười, Đôi mắt em say màu sáng lạn, Trán em để lỏng làn tóc rơi. Tuy môi em uống, lòng anh say, Lời em càng nói càng chua cay Anh muốn van em đừng nói nữa, Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay. Hãy xếp lại muôn vàn ân ái Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau, Thuyền yêu không ghé bến sầu Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng. Hãy như chiếc sao băng băng mãi Để lòng buồn, buồn mãi không thôi. Câu chuyện tình thơ mộng đã không dẫn đến một kết thúc có hậu. Họ mãi mãi là một đôi tình thân giữa một nghìn trùng xa cách. Đến năm 1975 họ mới có dịp gặp lại nhau. Cúc từ Pari về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào đã là bà Điềm Phùng Thị – một điêu khắc gia nổi tiếng thế giới. Hôm đó Hội Nhà văn mở tiệc mừng các trí thức, nghệ sĩ ở nước ngoài về, trong đó có Điềm Phùng Thị và họa sĩ Mai Trung Thứ là người đã say mê vẽ bức chân dung Tôn Nữ Lệ Minh (vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư) năm 17 tuổi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dắt tay Điềm Phùng Thị đến chỗ vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư đang ngồi và nói: “Đối mặt nhau rồi, ngâm lại bài thơ ngày xưa đi.” Tên tuổi của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị được lưu danh trong từ điển Larousse, đó là một niềm tự hào đáng kể. Nhưng cũng là một niềm vinh hạnh lớn khi bà trở thành nhân vật chính trong một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Lưu Trọng Lư

Người em sầu mộng (Nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc bài thơ “Một Mùa Đông” và lấy tên bài hát là “Người em sầu mộng” )

Em là gái bên khung cửa Anh là mây bốn phương trời Anh theo cánh gió chơi vơi Em vẫn năm trong nhung lụa

ĐK: Em chỉ là em gái thôi Người em sầu mộng muôn đời Tình như tuyết giăng đầu núi Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời Ai bảo em là giai nhân Cho đời anh đau buồn Ai bảo em ngồi bên song Cho vương vấn nợ thi nhân Ai bảo em là giai nhân Cho lệ đêm dâng tràn Cho tình giăng đầy trước ngõ Cho mộng tràn gối chăn.

TÓM TẮT

Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Những bài thơ mang âm hưởng trữ tình lãng mạn, thanh thoát, giàu nhạc điệu của ông, được công chúng đương thời nồng nhiệt chào đón, đã góp phần đem lại sự chiến thắng cho Thơ Mới trong buổi ban đầu. Phùng Thị Cúc tức là Điềm Phùng Thị – là nhà điêu khắc nổi tiếng trên thế giới, được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse. Mối tình giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư và cô nữ sinh Phùng thị Cúc thật là một mối tình nên thơ, trữ tình nhất và cũng xứng tầm “trai tài, gái vừa sắc lẫn tài” – dù có ngang trái, chính sự ngang trái này khiến cho cả hai tình nhân nhớ mãi không thôi, vì

“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở… ” (Hồ Dzếnh)

.

Phạm Vũ ( New Vietart)

Cập nhật thông tin chi tiết về Nghị Luận: Một Câu Thơ Hay Là Một Câu Thơ Có Sức Gợi (Lưu Trọng Lư) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!