Xu Hướng 3/2023 # Nên Học Ở Miền Bắc Hay … Miền Nam? # Top 8 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nên Học Ở Miền Bắc Hay … Miền Nam? # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Nên Học Ở Miền Bắc Hay … Miền Nam? được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quê em ở Thái Bình. Mọi người ở quê em hay lên Hà Nội học và ba mẹ cũng muốn em như thế. Tuy nhiên, em thích cuộc sống thoải mái trong Sài Gòn và dường như nơi đây dễ xin việc hơn thủ đô.

Mọi người cho em xin ý kiến xem học ở đâu tốt và dễ xin việc hơn với ạ. Em cũng sợ ba mẹ phản đối nữa nên phải xem xét thật kỹ mới dám quyết định. Nếu vào Sài Gòn có lẽ một năm em chỉ về 2 lần thăm gia đình thôi vì chi phí và việc học cũng tốn kém. Như vậy cũng thấy thương ba mẹ. Em khó nghĩ quá.

Nhân thể cho em hỏi, khối A1 nên thi trường gì để dễ xin việc ạ? Các ngành kế toán, quản trị kinh doanh, công nghệ thực phẩm, du lịch, ngôn ngữ nếu học dân lập thì nên vào trường nào? Em mong nhận được sự góp ý của mọi người. Em xin cảm ơn trước.

Học sở Sài Gòn hay Hà Nội có thành công hay không là do bản thân mình thôi bạn à. Cứ cố gắng phấn đấu là ở đâu bạn cũng sẽ có cơ hội để thành công. Nhưng cách làm việc thì có lẽ Sài Gòn rộng mở hơn một chút so với Hà Nội và cơ hội cũng có thể nhiều hơn Hà Nội một chút. Nhưng quan trọng nhất là ý chí vươn lên của mình thôi em. Khối A thì rất nhiều ngành và nhiều trường để chọn. Quan trọng nhất là mình có niềm đam mê với ngành nào thôi, vì có đam mê mới có thành công được. Chúc em học và thi tốt với niềm đam mê của mình.

nếu em muốn học cái khôn’ lõi’ thì nên ra Hà Nội học. còn nếu học để ngày mai lập nghiệp bằng sức lực của mình thì e nên học ở Sài gòn, việc e thương ba mẹ là điều rất tốt, song hảy biến sự ” thương ” đó thành hành động, đó là cố gắng học tốt và tranh thủ làm thêm để phụ gia đình. đó mới là thương thực sự và đừng sợ ba mẹ phản đối vì mình có lý của mình. không thể sồng vì sự kỳ vọng của người khác, Hãy sống vì sự kỳ vọng của chính bản thân mình, như thế bố mẹ mới yên tâm về mình (trong tương lai)

Học ở đâu cái chính là do em. Tuy nhiên theo cảm nhận bản thân của anh bởi anh có cơ hội học ở cả hai nơi cũng như làm việc ở cả hai nơi thì dường như Sài Gòn năng động và chuộng người tài hơn Hà Nội. Hà Nội có nhiều cơ chế hơn. Và cơ bản là Hà Nội đông đúc quá xét cả nghĩa đen và bóng. Nên theo anh nếu em có đủ năng lực và thích sự náo nhiệt em nên chọn Sài Gòn. Em có thể chọn Kinh tế – Luật, là trường rất tốt thầy cô rất nghiêm và yêu nghề. Về dân lập em có thể chọn nhiều trường như Tin học – Ngoại ngữ, Văn Lang. Có 1 trường công mà rất tốt đó là Đại học Quốc tế, Đại học QGTPHCM môi trường học tập lý tưởng đó em. Trường công lập giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng anh. Chúc em có lựa chọn tốt.

Anh là người miền trung, đã từng học ở Hà Nội và sau khi nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp đúng 2 ngày, a liền về quê làm hồ sơ xin việc và vào chúng tôi ngay sau đó (Vì thực sự môi trường, con người, văn hóa ở Hà Nội khắc nghiệt quá). Anh cũng đã từng sống ở nhiều thành phố lớn và nhiều tỉnh thành trong nước anh thấy chúng tôi là nơi đáng sống nhất (xét về mọi mặt) nhưng nó dành cho những người năng động.Nếu thực sự em cũng là một người năng động có chí hướng phấn đấu và quyết tâm lập nghiệp ở chúng tôi thì em nên vào ngay lúc học (ý anh là học ở chúng tôi cơ hội thành công của em sẽ nhiều hơn đó. Còn nếu em dự định học ở chúng tôi rồi tốt nghiệp về quê làm việc thì theo anh nghĩ học ở Hà Nội hơn (vì gần nhà em).Trước đây anh cũng đã sai lầm khi không vào thành phố HCM học tập vì chỉ nghĩ đơn giản là: xa xôi, tốn kém. Nhưng anh cũng xem học/sống ở Hà Nội là một sự trải nghiệm. Còn vấn đề điểm đầu vào, xin việc khó dễ anh không đề cập tới.Chúc em có sự lựa chọn đúng đắn.

Cá Chết Ở Miền Trung &Amp; Thơ Từ Những Cây Viết Không Chuyên

Your browser does not support the audio element.

Chỉ trong vòng một tuần lễ sau vụ cá chết trắng ở 4 tỉnh miền Trung, trên hệ thống mạng xã hội xuất hiện hàng chục bài thơ của những cây bút không chuyên viết những dòng tự sự về tình trạng hoi hóp này và liên tưởng đến những cái chết trắng khác đang dần dần trở thành hiện thực.

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh?”

Từ Hà Tĩnh, nơi có Vũng Áng và Formosa khi mọi con mắt đổ dồn vào nó với những bức xúc không cần che dấu đã xuất hiện bài thơ của một cô giáo trường chuyên. Bài thơ ngay lập tức được tải rộng khắp trên mạng xã hội, bài thơ được share hàng ngàn lần và người chơi Facebook gần như đi đâu cũng gặp bài thơ này.

Bài thơ hay mặc dù nó rất bình thường, nó nói ra những điều mà mọi người đều thấy. Nó nhắc tới nỗi ngây thơ đến dại dột của người dân khi bị chèn ép, ngược đãi thậm chí lừa dối nhưng vẫn bình chân như vại và cảm thấy đấy không phải là việc của mình. Sự ngây thơ ấy được tác giả bài thơ là cô giáo Trần Thị Lam nén lại trong hình ảnh của một em bé bốn ngàn tuổi rồi mà vẫn thích bú mớm không chịu đứng dậy trên đôi chân của mình.

Em bé Việt Nam khập khểnh và bệnh tật trên khắp cơ thể. Hình ảnh cá chết đầy mặt biển là một tiếng chuông gọi hồn cuối cùng cho những chiếc thuyền nhớ biển khơi và người ngư dân nhớ sóng. Cô giáo Lam không khóc mà nước mắt lưng tròng. Cô viết những dòng chữ mang nỗi ngậm ngùi cay đắng của tất cả chúng ta, những người nói tiếng Việt trên khắp thế giới.

Người trong nước bất lực, người bên ngoài lại càng bất lực hơn. Bài thơ của cô diễn tả sự bất lực ấy bằng một câu cũng bất lực không kém: “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?”

Đất nước mình ngộ quá phải không anh Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Đất nước mình lạ quá phải không anh Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ Những dự án và tượng đài nghìn tỉ Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Đất nước mình buồn quá phải không anh Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc Rừng đã hết và biển thì đang chết Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Đất nước mình thương quá phải không anh Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh Anh không biết em làm sao biết được Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Câu hỏi “Đất nước mình rồi sẽ về đâu” được một cây bút nghiệp dư từ Oregon trả lời vài giờ sau khi bài thơ được cô giáo Lam post trên Facebook của mình. Bài thơ mang tên: “Anh trả lời liền…”

Anh trả lời liền. . .

Anh trả lời liền đất nước sẽ về sau

Khi thế giới đã về từ lâu lắm

Bởi cả nước được đảng bồng, đảng ẳm

Nên nhân dân hạnh phúc quá còn gì?

Đất nước mình vì thế chẳng chịu đi

Bởi đôi chân đã trở thành đất sét

Tiến sĩ giấy ngồi nhìn nhau lấm lét

Sợ đảng không tin nên phải viết điều thừa

Đất nước mình biển vẫn bạc như xưa

Chỉ có điều là bạc mầu cá chết

Rừng còn đó không bao giờ cháy hết

Dù đảng ta vẫn nhiệt liệt phá rừng

Em đừng hỏi chiếc bánh chưng to thế

Để làm gì khi dân chúng đói meo

Nhưng em ơi đấy chỉ là bánh vẽ

Thì dẫu to hay bé có hết nghèo?

Em đừng buồn khi dân không chịu lớn

Bởi lớn lên dân sẽ bị đảng “đì”

Dân khôn lắm họ núp sau bóng đảng

Giả ngu si cho đảng khỏi tự ti

Đảng yêu dân nên làm điều sai quấy

Cũng chẳng qua sợ dân chọn sai đường

Dân cõng nợ là yêu thương cõng đảng

Xét cho cùng thì cũng chỉ trơ xương

Đất nước mình tuy có ngộ đấy em

Nhưng nghĩ lại không có gì khó hiểu

Dân vẫn thấy nồi cơm to hơn văn miếu

Thì em ơi mấy ngàn năm nữa vẫn bị đảng lừa…

Bài thơ chấm dứt bằng câu khẳng định: sự lừa dối của đảng vẫn thế nếu dân mình cứ xem nồi cơm hơn mọi thứ khác, trong đó có văn hóa, lịch sử, chính trị cũng như ý niệm về tự do dân chủ. Ý nghĩa của bài thơ lồng chéo đan nhau làm thành chiếc võng chắc chắn cho người đọc nó nằm lên tha hồ suy gẫm.

Cũng viết về đảng khi trả lời cho cô giáo Lam, một tác giả không nêu tên khẳng định đảng là ánh sáng soi đường, soi cả đường đi lối về của dân chúng. Soi như con cò cần mẫn soi mồi cho đàn cò con đang lóp ngóp chờ cò mẹ ở nhà. Có điều là giống với nhiều tác giả khác, bài thơ kết lại với sự hối hận âm ỉ và tiếng than cháy bỏng của người viết về những câu hỏi đáng ra mọi người đều phải trằn trọc với những cách trả lời khác nhau.

Bài thơ mà cô giáo Lam đưa ra, lại nhận được từ những tác giả khác với những câu trả lời mà chính cô cũng không ngờ tới.

Đảng ta ánh sáng soi đường.

Đất nước mình chẳng có ngộ đâu em

Năm ngàn năm dân cũng không cần lớn

Bởi ngày ngày đảng chăm lo bú mớm

Dân đói dài, đảng nhà nước phải “no”

Đất nước mình chẳng có lạ đâu em

Nồi lẩu, bánh chưng…hay tượng đài nghìn tỷ

Từ biển rộng, sông dài và non sông hùng vĩ

Cả 90 triệu con người là của “đảng” mà em

Đất nước mình vui quá chứ em

Biển giao “bạn vàng”, rừng cho Tàu thuê nốt

Rừng chẳng cần, biển chết thì cứ chết

Khẩu hiệu bây giờ là “còn đảng, còn ta”

Đất nước mình sao em lại phải thương

Lũ trẻ kia làm mầm non của đảng

Một số đứa sẽ được sang tư bản

Cứ cúi đầu. . . tiếp bước đảng quang vinh

Đừng hỏi anh, đất nước sẽ về đâu?

Mỗi lời em, như một đường dao cắt

Lưỡi dao ấy không bằng đồng, sắt

Mà thấu tận tim mình. . .

Hãy hỏi “đảng”

. . . Nghe em

“Đất nước mình không ngộ quá đâu em”

Và rồi một bài thơ khác lại xuất hiện, trả lời cho cô giáo Lam với cái tựa khá hấp dẫn: “Đất nước mình không ngộ quá đâu em”.

Cá chết ở bờ biển huyện Quảng Trạch, Quảng Bình hôm 20/4/2016. AFP

Tác giả Baron Trịnh tỏ ra nghiêm túc khi dùng những điển tích được lịch sử hóa thành rồng thành tiên trong suốt một chặng dài của lịch sử dân tộc. Bài thơ họa lại ý chính của cô giáo Lam ở từ “ngộ”. Ngộ có thể được xem là ngộ nghĩnh hay một trạng từ chỉ sự ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được khi chúng ta cùng ngồi chung con thuyền của thế kỷ 21 nhưng tâm thế thì cứ như người của thế kỷ thứ nhất khi mà con người còn tiếp cận với nhau như các siêu nhân để từ đó mọi biến động nhân quần đều đổ vấy cho lịch sử. Đất nước mình cũng thế, từ thời chúng ta còn là những chiếc trứng đã nảy sinh chuyện chia đôi cũng như huyền thoại thánh Gióng chưa bao giờ được chúng ta xem là tâm lý AQ đầy trắc ẩn.

Một đất nước quá nhiều huyền thoại thì sản sinh ra những kẻ hoạt đầu là điều không nên hối tiếc than van. Baron Trịnh thẳng thắn trả lời cái mấu chốt ấy cho cô giáo Lam bằng 4 câu kết đầy sức hút: Em hỏi đất nước mình rồi sẽ về đâu? / Anh chưa biết nhưng có một điều rất tuyệt / Chưa biết về đâu nhưng cứ đi tắt đón đầu là duyệt  / Chưa biết về đâu nhưng cứ phải tiến lên đầu!

Đất nước mình không ngộ quá đâu em Dù bốn nghìn năm dân vẫn không chịu lớn Bởi tổ tiên ta sinh ra không là con mà là trứng Khi cha mẹ ly hôn nào có dám kêu đòi

Đất nước mình không lạ quá đâu em Thánh Gióng lên ba đã ăn cơm nong cà thúng Chử Đồng Tử úp nón thành cung điện nguy nga sừng sững Cùng một cha, Tấm làm mắm Cám rất bình thường

Đất nước mình không buồn quá đâu em Dù biển bạc rừng vàng giờ đây đang cạn kiệt Nhưng có nồi cơm Thạch Sanh ăn mãi không bao giờ hết Nàng Tô Thị chờ chồng nghìn năm lẻ có gì đâu

Đất nước mình có gì mà phải thương đau Vì đến tiều phu cũng mơ làm hoàng đế Nên chút nợ nần là chuyện nhỏ như con dế Đánh thắng ba siêu cường sợ gì đám năm châu

Em hỏi đất nước mình rồi sẽ về đâu? Anh chưa biết nhưng có một điều rất tuyệt Chưa biết về đâu nhưng cứ đi tắt đón đầu là duyệt Chưa biết về đâu nhưng cứ phải tiến lên đầu!

Một tác giả khác, Cương Biên, viết những dòng thơ nhẹ nhàng hơn gửi cho cô gáo Lam, và tác giả biết rằng cô giáo ấy hôm nay không thể ngủ.

Với tựa bài thơ: “Uất hận quá rồi nước mắt chảy vào tim” Cương Biên thay cô giáo Lam viết tiếp những trăn trở quanh mình. Những hình ảnh tan nát của quê hương chập chờn trong giấc ngủ của cô cũng như nỗi ám ảnh của hàng loạt cá tôm chết trắng bờ biển đã làm tác giả phải thảng thốt:

Cô không thể soạn tiếp bài Bởi hồn lạc về Hà Tĩnh Nơi nước mắt nhân dân đang chảy dài về phía biển Và biển chiều ứa máu oan khiên

Có lẽ đêm nay cô lại trắng đêm Chập chờn bãi bờ phủ đầy tôm cá chết Chập chờn tiếng thở dài thấu đêm đen những con thuyền cắm sào trên bến Chẳng dám ra khơi ngay giữa biển quê mình

Có lẽ đêm nay cô lại trắng đêm Chập chờn lúa chết khô giữa thì con gái Chập chờn ruộng đồng nứt nẻ hoang bờ bãi Những đàn bò ăn cả bao nilon

Có lẽ đên nay cô lại trắng đêm Bởi giật mình Đền Hùng thất thủ Bao nhiêu tượng đài ngổn ngang đổ vỡ Xoang xoảng nứt niềm tin

Có lẽ đêm nay cô lại trắng đêm Bởi bóng ma những chợ trời hóa chất Cứ lượn dọc lượn ngang giữa những đàn gia súc Toác miệng cười trên những cánh đồng xanh

Có lẽ đêm nay cô lại trắng đêm Mơ thấy con cháu mình biến đổi gen mang hình thù kỳ quái Thấy dải đất chữ S co rúm lại Rồi bay ra khỏi bản đồ…

Đêm đã khuya rồi căm phẫn chẳng thành thơ Chắc nhiều người cũng như cô thêm một đêm khó ngủ Học trò ơi đất nước này là của ai hãy nhìn cho tỏ Uất hận quá rồi, nước mắt ngược vào tim…

Chỉ một bài thơ ngắn lại có sức mạnh lay động hàng triệu con tim trên mạng xã hội cho chúng ta thấy được nhiều điều, đó là niềm tuyệt vọng nào cũng có giới hạn của nó. Chảy tới đâu thì nước cũng vẫn là nước, chỉ có con người là tồn tại và ngay cả tồn tại trong nỗi đau đớn bất lực nhất mà thượng đế đã ban cho.

Cô giáo Lam mới đây có tin bị công an mời làm việc để yêu cầu gỡ bỏ bài thơ khỏi trang Facebook của cô. Cộng đồng mạng lại một phen bàn ra tán vào trước cách hành xử kỳ lạ này, bởi, không một thế lực nào có thể làm thay đổi dòng chảy của thơ khi nó được viết với tâm thế của sự trăn trở chứ không phải theo đơn đặt hàng như các nhà thơ lớn nhỏ đang xếp hàng chờ để được ghi tên vào Hội nhà thơ các loại…

Lạc Lối Ở Côn Đảo Nên Thơ – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Vùng đất quyến rũ nhất hành tinh

Côn Đảo là một quần đảo nằm ở phía Đông Nam, thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cách TP Hồ Chí Minh khoảng 230 km. Côn Đảo có diện tích lên tới 76 km2 gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ hợp thành.

Quay ngược dòng lịch sử, tìm về những ngày đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, nhắc tới hai từ Côn Đảo là lòng người lại nổi lên bao lo âu và sợ hãi. Nhưng rồi thời gian dần trôi, thế sự đổi dời, những dấu tích một thời vẫn còn sót lại đó nhưng thoảng trong gió ngàn của đại dương, người ta lại thấy một Côn Đảo đang chuyển mình mãnh liệt. Chứng tích về một địa ngục trần gian ngày xưa ấy chỉ còn là những hình ảnh được tái hiện trong những di tích còn sót lại.

Đó chỉ là một phần lịch sử được ghi dấu lại để người ta mãi ghi nhớ về sự hy sinh của cha ông thuở nào. Vượt lên trên hết, qua những đau thương ấy, một Côn Đảo đầy quyến rũ đang hiện lên trước mắt người lữ khách. Thực xứng đáng như lời ca tụng của báo giới khi ví von Côn Đảo là “Một trong mười hòn đảo quyến rũ nhất hành tinh” hay “ Một trong nhiều hòn đảo bí ẩn nhất hành tinh”.

Dường như, thiên nhiên đang có một sự bù đắp vô cùng ngọt ngào cho mảnh đất này biến nơi chốn ấy trở thành một thiên đường hạ giới chốn phương Nam làm mê hoặc bao bước chân của những kẻ đam mê xê dịch.

Côn Đảo ngày nay có thiên nhiên hùng vỹ, có những ngọn núi cao cao xanh biếc một màu, có làn nước đại dương trong thấy đáy và có những bãi cát vàng óng ả dưới nắng mặt trời.

Côn Đảo ngày nay sức sống trào dâng với hệ sinh thái biển và rừng đa dạng. Đi thêm một chút thôi, ghé Hòn Tài, Hòn Bảy Cạnh, Hòn Trứng, Hòn Tre, Hòn Cau, Hòn Trác… là du khách lại lạc bước vào thiên đường nhiệt đới với những thảm thực vật sống động và với hơn 100 loài chim thú đang sinh sống.

Ẩn sâu dưới đáy đại dương xanh ngắt kia là những rặng san hô đầy màu sắc, đang vẫy vẫy những đôi tay nhỏ nhắn mời gọi con người. Nên tới với Côn Đảo chắc ai cũng phải thử một lần được ngụp lặn trong làn nước trong trẻo đó, đi theo tiếng gọi của con tim để một lần được chiêm ngưỡng tận mắt những dải san hô đầy quyến rũ.

Tất cả như những chấm phá độc đáo tạo nên một bức tranh thủy mặc rất thơ và cũng rất tình. Có lẽ rằng không mỹ từ nào có thể lột tả hết được nét quyến rũ của biển trời Côn Đảo. Nhưng hơn hết, bao trùm trên những vẻ đẹp tuyệt diệu ấy là nét hoang sơ còn tồn tại từ thuở hồng hoang, khiến người ta cứ ngỡ như mình đang lạc bước một cõi thiên thai của hàng ngàn năm về trước.

Những bãi tắm đẹp

Bất kỳ du khách nào khi đặt chân đến Côn Đảo đều không thể bỏ qua bãi tắm An Hải. Sở hữu vị trí nằm ngay trung tâm, nơi đây có những bờ cát trắng trải dài cùng làn nước trong xanh mát rượi. Du khách đặt chân đến An Hải không chỉ để khám phá thiên nhiên kỳ thú, mà đôi khi còn là để tận hưởng những phút giây nghỉ dưỡng tuyệt vời.

Nhiều khách du lịch thường rỉ tai nhau rằng đến Côn Đảo mà không ngắm hoàng hôn trên Bãi Đầm Trầu thì chắc chắn là một thiếu sót. Vẻ đẹp của nơi đây không chỉ nằm ở bãi biển xanh ngát, mênh mông, mà còn ở những tảng đá với nhiều hình thù khác nhau trên bãi biển. Chắc hẳn du khách sẽ muốn ngồi trên những hòn đá lớn, im lặng lắng nghe từng âm thanh của sóng, của gió. Chỉ cần đặt chân đến với Đầm Trầu, một lần thôi bạn cũng sẽ nhớ mãi không quên.

Cách bãi Đầm Trầu không xa, Suối Nóng là một điểm dừng chân vô cùng thú vị và hấp dẫn. Tại đây, du khách sẽ cảm nhận được sự sơ nguyên, nhẹ nhàng. Bạn có thể tận hưởng làn nước có nhiệt độ lên tới 50C. Để đến được nơi đây, từ bãi Đầm Trầu, bạn đi qua một đoạn đường rừng là thấy. Vẻ đẹp như chốn tiên cảnh sẽ giúp bạn có được những phút giây thư giãn vô cùng tuyệt vời.

Một trong những bãi biển đẹp Côn Đảo mà nhiều người nhắc đến chính là bãi Lò Vôi. Một cái tên nghe thì có vẻ nóng nực nhưng đặt chân đến đây thì mọi thứ lại khác hoàn toàn. Thuộc top những bãi tắm ấn tượng với biển trong, cát trắng và độ sạch, đẹp. Bãi Lò Vôi mang trong mình một sức hút rất đặc trưng mà không phải nơi đâu cũng có. Tại đây, du khách có thể tản bộ cùng bạn bè, gia đình hay những người yêu thương.

Ngoài ra, đến với Côn Đảo, du khách cũng đừng bở qua bãi Nhát, nhất là khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 6 năm sau, vì thời điểm này biển trời bãi Nhát bình yên, thời tiết cũng vô cùng thuận lợi. Hay Đất Dốc, bãi tắm đẹp lãng mạn và hấp dẫn. Tại đây, du khách sẽ được ngắm nhìn bờ cát rộng, hơi dốc cùng làn nước trong lành, tinh khiết.

Cuối cùng là bãi Ông Đụng, bãi tắm có vẻ đẹp bình dị và say đắm lòng người. Du khách có thể lặn biển ngắm san hô, câu cá chim, đi cano khám phá đảo… Chỉ với bấy nhiêu thôi, bãi Ông Đụng đã mang một sức hấp dẫn không thể chối từ đối với du khách trong và ngoài nước.

Nhà Toán Học Bắc Chiếc Cầu Thơ…

Đ ể nối hai bờ suy tưởng tâm linh và vũ trụ, nhà toán học Lê Quốc Hán (*) đã bắc một chiếc cầu thơ.

Thơ Lê Quốc Hán là tiếng nói nhân danh một kiếp người trước đấng toàn năng, là mối giao tiếp vô hình của tâm linh với các thế lực siêu nhiên. Nhà thơ gồng mình gánh nặng nỗi mình nỗi đời. Lê Quốc Hán ý thức rất rõ con người chỉ là một hạt bụi nhỏ bé được Chúa Trời thổi vào đó ngọn lửa linh hồn, trở thành vật thể đầy trí lực và linh cảm để suốt đời lang thang kiếm kiếm tìm tìm trong cõi thiên hà bao la, tâm linh giao hòa với muôn loài và tiên cảm những gì sắp xẩy ra. Vua Xalômông phán: “Một cái nhỏ xíu nhất của thế giới đều chứa vô biên”. Trước cái vô hạn của trời đất và cái mong manh hữu hạn của kiếp phù sinh, muốn tồn tại, con người cần phải nương vào một điểm tựa tinh thần nào đó?             Vừa chợp mắt đã mơ             gặp mình nghìn năm trước…             Sẩy chân sa xuống vực             gặp mình nghìn năm sau.                                     (Giấc mơ) Ta thử xem “hai cái vô cùng tận” của Paxcan là vũ trụ và tâm linh chứa trong Lê Quốc Hán có những gì? Vũ trụ rộng lớn tùy theo sức tưởng tượng của ta khi ta mở rộng vô tận các phạm vi vũ trụ. Nó bát ngát trước cái yếu đuối của con người, nhưng lại nhỏ bé trong tầm tư duy của ta. Thực ra, vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Trong tịnh lữ, giữa tâm ta, vũ trụ tạo ra sự phán xét. Thịnh – suy, tròn – khuyết, mất – còn, hội tụ – phân ly, bại – thành, “hoa hồng và gai sắc – mọc chung trên một cành”… Hai mặt đối lập như một nghịch lý bất di bất dịch tạo ra cuộc giao tranh không bao giờ chấm dứt giữa Địa Ngục và Thiên Đàng. Trong cõi mung lung thiên địa đó, Lê Quốc Hán tha thiết cất lời khấn nguyện mong tìm cho mình một lời giải đáp về một chốn nương thân yên ổn giữa bến vô cùng. Trong lúc ngửa mặt lên trời tìm kiến các vì sao, nhà toán học kiêm nhà thơ tài năng này đã nhìn xuống mặt đất quan tâm đến hết thảy mọi cái đang diễn ra dưới chân.

Lê Quốc Hán thừa hưởng ở toán học sự ngay thẳng trong lý trí, còn chất thơ làm ngay thẳng các đức hạnh. Toán học đòi hỏi rất nhiều ở trí tưởng tượng bay bổng. Tôi hoàn toàn tán thành quan điểm của nhà nữ toán học người Nga Covalepscaia khi bà cho rằng không thể trở thành nhà toán học chân chính nếu trong tâm hồn anh ta không chứa sẵn một nhà thơ. Nhà thơ không phải là kẻ tùy hứng bịa đặt những điều vu vơ, phi lý. Nhà thơ phải là người phát hiện được cái mà mọi người bình thường không nhìn ra. Nhà toán học cũng vậy thôi. Toán học thổi hơi thở cảm xúc trong trắng, trực tiếp nhất về cho chân lý. Toán học thuần túy cũng là một thứ tôn giáo. Ý tưởng và sự thực là hai mặt của một tôn giáo thật sự. Phơbách khẳng định: “Tôn giáo lấy cái thiêng liêng làm chân lý, triết học lấy chân lý làm thiêng liêng”. Nhà khoa học suốt đời đi tìm chân lý, quý trọng chân lý hơn bản thân mình. Khoa học dạy hoài nghi, chỉ cho ta biết mình còn mông muội, và nó đẩy lùi các giới hạn của sự kỳ diệu. Trong thế giới văn minh hiện đại, khoa học đang dồn đuổi các tôn giáo. Yêu khoa học chính là yêu sự thật. Tính trung thực là phẩm tiết cơ bản của nhà khoa học. Còn tín ngưỡng lại là một phẩm tiết khác, nó là cửa ngõ ra vào của mọi đức tính. Thấm nhuần các giáo lý Thiên Chúa giáo, Lê Quốc Hán nhìn nhận con người và thế giới trong mối tổng hòa chằng chịt của nó, để vươn lên sống đẹp Đời tốt Đạo. Thơ anh đụng đến nhiều mảng đời thường, lý giải cuộc đời khá biện chứng nhưng lại đẫm sắc màu tôn giáo về kiếp người, về hạnh phúc, nỗi khổ đau, đặt vị trí con người trong vòng tay yêu thương, sống và để cho đồng loại cùng được sống.

Nhắm mắt nhìn xuyên ba cõi mở ra bụi thế mù lòa

(Ngộ) Lê Quốc Hán bời bời nhiều nỗi lo. Cái ưu thời mẫn thế trước tiên là lo thời gian đang phi nước đại về cõi tận thế. Làm sao lại không lo lắng bồn chồn được khi “Buổi sáng ngày đi nước kiệu – Xế chiều vó ngựa tên bay – Tiêu phí nửa đời chợt hiểu – Nửa đời còn lại gang tay” (Ngày).Qũy thời gian ngày một co lại, cỗ máy thời gian phóng với vận tốc chóng mặt, khiếp đảm “Thời gian như chuyến tốc hành – Mang theo lá đỏ và anh trở về – Tóc xanh vừa lỗi lời thề – Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang” (Bài thơ thời gian). Nỗi sợ hãi bao trùm nghiệt ngã “Trẻ ngỡ mình nặng nhất – già thấy mình nhẹ tênh – Thời gian như rìu sắc – Đẽo bạc cả đầu xanh” (Ngẫm). Anh thương cõi đời “Nép dưới đất đời gọi mình là dế – Lên cành cao ta hóa chú ve sầu” (Dâng). Anh đau kiếp người ngắn ngủi “…chớp làn mi – kiếp này lỡ nhịp mong gì kiếp sau” (Cầu). Ngước mắt nhìn lên, thi sĩ thấy “Phù du sớm nở tối tàn –  vẫn dài hơn kiếp hồng nhan giữa đời” (Phù dung); cúi đầu xuống, nhà giáo “ngậm ngùi thay kiếp phù du – hương hoa đầu sớm sa mù cuối đêm” (Thu). Sống không cẩn trọng là tiêu đời ngay “ Bấm nhầm một đốt ngót tay – Trăm năm rút lại một ngày. Hư không”. (Vòng đời). Chúng ta đang sống đây nghĩa là ta đang chết, Lê Quốc Hán “Đêm nào cũng mơ thấy toàn đá – nhẹ nhàng đặt xuống ngực tôi -Trái tim một thời băng giá – bỗng nghe ran nỗi đau đời” (Đá). Lê Quốc Hán bảo “sống đẹp một đời khó nhất : cái chết”. Bởi thế, nhà thơ thật sự lo cái sống, hãi cái chết :

Người còn xanh cỏ trên mồ Ta còn bạc tóc đến giờ lâm chung Thuyền chưa neo bến tương phùng Trái tim nửa đập, nửa ngừng vì đau.

(Tình ma)

Lê Quốc Hán nhận thức được rất sáng rõ chuyện địa ngục và thiên đàng, nó hiện diện ngay ở trong tâm con người chứ không phải ở ngoài vào. Càng sống, Lê Quốc Hán càng nghiệm ra “Cuộc đời nửa thực nửa hư – bàn tay nắm chặt mà như mở rồi” (Phù du). Phải sống thực chứ không ảo tưởng tìm kiếm ở chốn xa xăm “Những câu chuyện chẳng thể tìm trong sách – vẫn trẽn trơ có mặt trên đời” (Pattya). Trong “Cuộc đời sớm rủi chiều may – bây giờ cát sỏi – mai ngày kim cương” (Ngỡ 2). Lê Quốc Hán không khỏi thở dài hoang mang “Ban ngày sấp ngửa sống – Sấp ngửa một bàn tay – đêm về tìm lại bóng – giật mình ngỡ bóng ai” (Tự thán). Lê Quốc Hán tỉnh táo nhìn nhận “Mong manh không hoàn thiện – là hạnh phúc con người” (Như). Sống được ở trên đời thật khó, những tập tục, thành kiến, quyền uy vây bủa con người “Những tị hiềm muôn kiếp – rụng đỏ bờ cô đơn” (Đoản khúc). Đến bên tượng con vật đầu người mình sư tử ở Ai Cập – biểu tượng kỳ bí nhất về Con Người, Lê Quốc Hán đăm đắm hỏi “Sáu ngàn năm phù du, tìm sao ra thật giả” (Viết bên tượng nhân sư). Đến thăm Công viên Thế giới ở Bắc Kinh, giữa một thế giới kỳ vĩ thu nhỏ, anh nhận chân ra “Lịch sử rút ngắn – dăm cuộc bể dâu – đọc đến trắng tóc – chưa xong trang đầu”. Đứng trước một đại kỳ quan khác, anh cũng chỉ thấy “Xa trông Vạn Lý Trường Thành – mong manh sợi chỉ thêu quanh vòm trời – Bao nhiêu thế kỷ vèo trôi – vẫn nguyên vẹn chuyện khóc cười thế gian” Chuyện khóc cười gì vậy ? Đó là bước lặp lại “máu người vẫn đổ vì tay con người”. Viếng Cố Cung, trước nguy nga tráng lệ xa hoa lầu son gác tía đầy quyền lực, nhà thơ cứ thắc thỏm tìm kiếm “hình như cái đẹp trong thường ẩn mình lánh mặt”.

Cuộc đời này thật lắm yêu thương nhưng cũng quá nanh nọc xảo trá, phản trắc “Lưỡi phun nọc rắn đùa chơi – Bẻ hoa rồi dạy cuộc đời yêu hoa”. Anh phải thường trực âm thầm sống trong tâm trạng “Khi vui ứa lệ, khi cười đớn đau”. Đành thế, trái đất vẫn vận hành theo l

ối đi riêng của nó, và người đời vẫn tha thiết âm thầm hy vọng “Dù tốt đen tốt đỏ – vẫn mơ hồi nhập cung” (Quẻ). Dẫu vậy, nhà thơ đinh ninh khẳng định trong một điều ước nhỏ nhoi duy nhất “Đừng lo trên mộ hậu thế khắc gì – mong đời quá ngọ bạn đừng thưa đi” (Thơ hai câu) Buồn lo ngổn ngang trăm thứ, anh còn lo cái đẹp truyền thống đã định hình bao đời giờ bị phá vỡ bởi cuuộc sống công nghiệp trong cơ chế thị trường xô bồ hỗn tạp:

Vườn xưa bướm chẳng buồn bay ngõ xưa ong chẳng còn say lối về Nhẹ tênh tênh một lời thề hoàng hôn sập xuống phút kề giao môi Trầu cau ngã giữa lòng vôi có còn rỉ máu như thời xa xưa?

(Cũ)

Khi con người thông thương đường đến muôn nơi, lên được cả cung trăng, nhà thơ đau đáu “Sao đường ở giữa thế gian – Người không mở được lối sang với người” (Đường). Con người sống khép kín lòng mình như những ốc đảo chơ vơ giữa đại dương. Ai đánh mất nơi Thiên đường chính là tự chuốc lấy niềm đau nơi Địa ngục. Xưa hái hoa hồng, Lê Quốc Hán bị gai đâm phải tay chảy máu, nay hái hoa hồng anh biết tránh gai đâm, nhưng làm sao nhà thơ lại “Úp mặt xuống chùm gai tua tủa – khóc tim mình không còn chút nhói đau” ? Giữa cuộc vật lộn mưu sinh trong cơn xoay lốc kiếm tiềm đã tạo ra bệnh vô cảm làm tê liệt hồn người mất rồi ! Từ chính bản thân mình, Lê Quốc Hán quyết khám phá tâm địa con người theo cách”

Đi giữa đất trời đường thẳng ngắn nhất – Đi vào lòng người theo đường dích dắc

”. Để thanh lọc mình, Lê Quốc Hán thắc thỏm sám hối thành khẩn, tự giác xưng tội vì lầm lỗi của mình hay tội lỗi của người đời?

Xin đừng mở vội ngày ơi dám đâu nhìn thẳng mặt trời mai sau Trót đem vàng trộn vào thau cậy màn đêm gói nỗi đau chôn mình.

(Sám hối)

Sống giữa cuộc đời, ta phải mang gánh nặng ân sâu nghĩa cả, nợ nần. Lê Quốc Hán thật trân trọng và tìm mọi cách trả món nợ đời không cách chi trả nổi này :

Cuộc đời vay trả, trả vay thời gian đặt nặng vào tay chất chồng

Nợ từ thuở mới lọt lòng sữa thơm của mẹ, máu hồng của cha.

Nợ từ một điệu dân ca nợ quê hạt gạo phù sa lở bồi.

Nợ em tần tảo một đời nợ con một ánh mắt cười thơ ngây

.

(Nợ)

Đức Phật dạy đời là bể khổ để khuyến thiện. Đức Chúa Lời lấy địa ngục răn đe cái ác. Trộn lẫn hai triết thuyết làm hạt nhân tư tưởng, Lê Quốc Hán lên tiếng cảnh tỉnh con ngư

ời

“Trót sa địa ngục đọa đày – vùi trong nước mắt chuỗi ngày hư vô”.

Thầy Mạnh Tử bảo “Nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng Tuân Tử bác lại “Nhân chi sơ tính bản ác”. Thiện ác đối đầu trong mỗi con người. Thiện ác giao tranh quyết liệt để sinh tồn.

Người ơi! Sao nỡ giận người Trắng đen một sắc khóc cười một âm Mẹ sinh ra vốn thiên thần Quỷ Sa tăng trút bụi trần lên vai Héo hon một mảnh hình hài Nào ai kịp trả cho ai vẹn tròn Mai sau thịt nát tình còn Sá chi hạt bụi cứa mòn gót chân

.

(Gửi bạn)

Không có nghệ thuật nào cao đẹp hơn lòng tôn quý con người. Bằng cách “Muốn hiểu con người mở to đôi mắt – Muốn nhìn rõ mình nhắm mắt rõ nhất”, ngộ ra khá nhiều điều về thân phận con người, “Người ta tìm nửa của mình – Tôi đi tìm mãi dáng hình riêng tôi”, Lê Quốc Hán luôn vươn lên sống thanh sạch không để sa vào những tục lụy đời thường “Người đi dạm ngọc mua vàng – – tôi về chuộc cảnh thế gian khóc cười… – Người đi tích bạc góp tiền – Tôi về gắng giữ nét riêng hồn mình” (Mua). Anh luôn chủ động trước mọi nghịch cảnh “Gặp phong trần gội phong trần – xanh xao hồn dại mơ phần thanh cao” (Nẻo về). Tuy vậy, giữa cái đen bạc của nhân tình thế thái, nhà thơ trân trọng hiểu đúng phẩm giá và tin ở năng lực của Con Người :

Thiêng liêng nhất: linh hồn vĩnh hằng nhất: tình yêu phù du nhất: của cải Nhỏ bé, bình thường, lớn lao, vĩ đại Nếu không có Con Người vạn vật chẳng sinh sôi Nếu không có con người trái đất hóa mồ côi.

(Con người)

Đức hy sinh dâng hiến cho đời của Con Người thật cao cả:

Chốn phù du ai yêu lá xác xơ rơi xuống đất vẫn lết mình về cội chờ gió lạnh từ phương Bắc tràn tới tự thiêu mình gửi tro ấm dâng cây

.

(Hiến tế)

Và, được làm Người ở giữa thế gian, nhà thơ cũng chẳng mong gì hơn ngày mãn thế “Trang sách ngày xế bóng – chiếc gậy lúc về già – tiếng chuông chùa khản giọng – tiễn hồn mình đi xa”.

*

Lê Quốc Hán quả là người ham sống, cứ là cuống quýt, vồ vập “Trái đất ơi ngược vòng quay – Cho ta trở lại cái ngày đầu tiên”. Nhà thơ thường sống bằng hoài niệm. Anh không thể nguôi ngoai về mối tình đầu dang dở để lại vết thương lòng khá sâu và không bao giờ hóa giải nổi. Anh đã thành tâm tự thú:

Giật mình trong cõi luân hồi Biết đâu kiếp trước chính tôi phụ nàng

(Luân hồi)

Dằn vặt với lòng mình, Lê Quốc Hán trở lại ngôi trường xưa sơ tán, góc vườn cỏ đã mọc xanh um che kín chỗ hai đứa ngồi tình tự “Hình như nước mắt ai đêm qua chảy – để bây giờ hóa kiếp giọt sương rơi” (Hóa kiếp). Nhà thơ sực tỉnh, thì ra tình yêu cũng chỉ là một trò đùa của tạo hóa “Sợi tình yêu thả vô hình – mong manh nối những trái tim dại khờ” (Nối). Dẫu ngọt ngào, tình yêu ấy vẫn chứa chan vị đắng, hể hồi tưởng là lòng lại tái tê. Đầy trắc trở gập ghềnh, yêu đương ngắn ngủi, than thở dài lâu:

“Ý nghĩ em chi chít mọi nẻo đường – sao nẻo nào cũng đưa anh về ngã năm ngã bảy – Ôi ! Nếu tim em chỉ mở trời xanh không đáy – hỏi tình anh biết hạ cánh phương nào?” (Đáy).

“Xin chúa trời hãy rộng lòng tha thứ – Khi chúng con muốn vươn tới gương người – Dao tình yêu cắt hạt bụi làm hai – thổi vào đó một linh hồn bé bỏng” (Hạt bụi)

Thơ tình Lê Quốc Hán có cái giọng khổ lụy “Lời yêu đậu giữa làn môi – Thuyền tình đã cuốn về khơi mịt mùng” (Một thoáng); có cái đắm đuối “Sóng xanh tung vó phi nghiêng ngửa – bỏ mặc thuyền tình chếnh choáng say”; có lời tự bạch bổi hổi tương tư “Xa em mới độ vài con nước – Lòng đã dào lên sóng bạc đầu” (Sông La); có lời dặn đợi đầy yêu thương “Xin đừng ướt đỏ đôi mi – Kẻo mai ngập hết đường đi lối về” (Muộn); có hy vọng bếp bênh “Phút gặp nhau mầm đau khổ vội gieo – Giờ li biệt lại hẹn mùa nẩy lộc” (Hạt bụi). Nợ tình đã mắc, khối tình trọn kiếp chưa trả được, cái dằm cứ nằm nghẹn giữa tim.

Mắt nai ai vẽ nên quầng trái tim khuyết nửa mà không hẹn tròn Lời thề dạt phía đầu non dáng hình sóng vỗ vẹt mòn bến sông

Xin người mở cửa hư không cho tóc thay lá, cho giông thay mùa.

(Xin)

Những vết thương do tình yêu gây ra dù không làm người ta tử thương nhưng chẳng bao giờ chữa lành được. Người khát tình yêu nhất là người bị tước mất người yêu.

Thôi em cứ việc đi tìm Cho môi khỏi héo cho tim khỏi tàn Biết đâu cuối bến trần gian Người xưa vẫn đợi em sang một bờ.

(Dỗi)

*

Muốn giãi bày những ẩn ức tâm nguyện, Lê Quốc Hán thường nhờ ngoại cảnh để bày tỏ. Anh mượn nhiều nhất ở thiên nhiên. Hệ thống hình tượng được nhà thơ dùng khá đậm là sương, gió, con thuyền, dòng sông, bến bờ, niết bàn, địa ngục, cõi tiên, cửa Phật…

Vì sao anh yêu sông đến vậy ? Nguyên do lòng yêu sông nước của Lê Quốc Hán là thế này đây “Cha tôi sinh bên dòng sông Ngàn Sâu, nơi có thác Vũ Môn ngẩng cao đầu hùng vĩ – Mẹ tôi sinh bên dòng sông Ngàn Phố trong xanh, chảy êm đểm như dáng đi của mẹ…” và “tôi sinh ra từ giấc mơ, nơi hai con sông hòa vào nhau trước khi về biển cả”. Có lẽ vì thế mà hình tượng dòng sông trở thành nguồn nước nuôi sống nghệ thuật thơ anh. Hễ gặp sông là như anh gặp lại chính mình. Đây là con sông Cả ở quê nhà “Giang Đình bến cũ lau thưa – Sông Lam sóng vỗ nát bờ cỏ hoang” (Nẻo về). Vào Huế gặp sông Hương, con sông chảy lững lờ trong hoài niệm “Ầm ầm tiếng sóng – tan trong thinh không – ào ào tiếng sóng – chìm trong mênh mông – nghìn năm sót lại – điệu hò trên sông” (Âm thanh). Sau này, khi bàn chân đã đi khắp thế gian, gặp những dòng sông ở xứ lạ quê người anh vẫn thấy cái chung “Các dòng sông không chỉ chảy theo một hướng. Có dòng sông từ Tây đổ xuống, có dòng sông từ Nam cực chảy lên. Nhưng tất cả các dòng sông là bạn hiền giúp con ngưìơi viết nên lẫy lừng bao trang sử” (Khúc hát về những dòng sông). Lê Quốc Hán đã nhìn xuyên suốt được cả những dòng sông tưởng tượng trong cổ tích “Cầu Ô vừa mới bắc qua – Vụt nghe lụt cuốn Ngân hà trôi trăng” (Tiễn thu). Nhà thơ còn ám ảnh với dòng sông thời gian. Cảm thức thời gian đã thành những ký hiệu học tạc vào tâm linh “Sông thời gian uể oải – sóng thời gian vật vờ – Linh hồn không bánh lái – trôi ngược dòng hư vô” (Ngã). Lê

Nhà phê bình Thái Doãn Hiểu tại Sydney 18-6-2010

QuốcHán không vẽ cảnh thuần túy mà chỉ nhờ cảnh để giãi bày linh nguyện, tạo chiều sâu tâm trạng “Tràng Tiền nhịp thấp nhịp cao – Nhịp ra thả nhớ nhịp vào thả thương – Chiều tà nghe thỉnh hồi chuông – Linh hồn rụng xuống dòng Hương ướt chìm”. Thăm cố đô Huế, nhà thơ dệt được bức tâm cảnh rất có hồn “Hạt cát tuổi thơ – lớn thành núi Ngự - Hương giang mộng mơ – neo hồn viễn xứ – Chuông chùa Thiên Mụ – đổ thành tòa sen – Vầng trăng thôn Vỹ – cháy thành mắt đen” (Ảo). Lê Quốc Hán nhìn Đà Lạt mới mẻ khác hẳn cách nhìn của các nhà  thơ  khác “Prenn thác trắng xòe tay trắng – vuốt mái tóc dài Lang Bian”… “Mình ai lẻ bóng tim dồn dập – thoáng thấy hình ai dưới đáy đồi” (Đà Lạt); những là “Mắt đen rơi ướt lời chào – rượu dâu tằm rót lệch vào tứ thơ”; những là “Tóc rơi nhuộm trắng đêm rằm – Sông xưa nghẹn đổi mấy lần phù sa” (Sông xưa); những là “Một chiếc lá rụng xuống – Cây buồn quên nở hoa – một ngôi sao rụng xuống – lệ rơi vơi Ngân Hà” (Rụng)… Ở đây những tiểu xao nghệ thuật thơ của Lê Quốc Hán là tín hiệu giúp chúng ta bước vào thề giới chưa được biết.

Bốn mùa xuân hạ thu đông luân chuyển, Lê Quốc Hán cảm thu sâu hơn cả “Lá vàng rơi lúng liếng – Cùng mùa thu sẻ chia” (Tiễn). Với anh, mùa thu chỉ đơn giản thế này “Cánh cò sà xuống tóc xanh – Mây in đáy mắt là thành mùa thu” (Thu). Thu không chỉ thơ mộng mà còn “Nửa đau lá rụng lạc vườn – Nửa sầu trước bão cánh chuồn bơ vơ” (Cảm thu). Cõi lòng thi nhân được xoa dịu “Neo mùa thu ở bên thềm – đón sương rơi xuống cho mềm nỗi đau” (Tiễn thu); “Câu thơ nào viết vội – run dưới chiều heo may – câu thơ nào cứu rỗi – nương bóng thu hao gầy” ( Sám hối thu). Thu với những mất mát, cách xa “Mùa thu mùa của chi ly – nên con sông chảy chẳng khi nào ngừng” (Tiễn thu). Lê Quốc Hán ký họa một nét thu khác rất Lêvintan “Lá vàng rải nắng sau mưa - Nắng vàng dát áo bào xưa. Ráng trời – Lâu đài đổ bóng. Sông trôi – Nghìn thu thu lại trong đôi mắt gầy” (Nét thu). Anh bàng hoàng thảng thốt “Giật mình một tiếng chìa vôi hót – trong đám cúc vàng lốm đốm thu” (Vô đề). 

Trong cuộc “hành trình không biên giới”, đâu chỉ “mòn tay giở Phúc Âm” là tìm ra được lời đáp cho cuộc sống. Cõi phù sinh chỉ là ảo giác, lênh đênh bèo dạt mây trôi, khiến thơ Hán nặng trĩu buồn. Anh không buồn vì sinh kế khó khăn hay những chuyện thế sự lặt vặt như nhiều người làm thơ khác, thơ Lê Quốc Hán cháy bỏng khát vọng về nguồn với tầm triết lý mang tín ngưỡng tôn giáo và khoa học sâu sắc. Nỗi sợ hãi trước cái chết quẫn bách tạo nên lời khấn nguyện linh thiêng. Vonter đã chỉ ra ”Khám phá chân lý và thực hành tốt điều đó là hai mục tiêu quan trọng của triết học”. Xưa, triết gia chỉ mổ xẻ chứ không điều trị, bởi thế nó chỉ an ủi con người bằng các xác tín vô ích của nó. Nay, nhà triết học phải tìm cách cải tạo thế giới, phát giác bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa như Chế Lan Viên thường bảo. Triết luận chính là một cách hoài nghi để tiếp cận với chân lý.

Cuốc đời này là gì? Thực chất nó chỉ là:

Như giọt mưa mùa hạ chưa chạm đất đã khô Như que diêm trao l

ửa thoắt biến vào hư vô.

(Như)

               Đứng trước cái bao la của vũ trụ, cái hạn hẹp của thời gian, cái mong manh của kiếp người, Lê Quốc Hán ưa triết lý. Kể ra, triết luận chẳng có gì khó, cái khó là làm sao đừng để những duy lý cũ chen ngang giữa ta và sự thật. Tiếp cận với triết học, con người sẽ trở nên vô thần, nhưng nếu thấm nhuần vào triết học nó sẽ dẫn ta đến với tôn giáo. Các tư tưởng không phải là vật trang sức, nó cần được phơi ra trước ánh sáng. Con người phải am tường hiểu rõ điểm mạnh, yếu của bản thân. Bởi vậy, không có một quan điểm nào hoàn hảo tới mức nó hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. Bức tường định kiến cũ kỹ phân cách giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, giữa thế giới tinh thần và thế giới vật chất, giữa hữu hình và siêu hình đã đổ sụp trước sự kiểm chứng khắt khe của thực tiễn cuộc sống.

Ở những văn nhân có nhân cách, tâm hồn nghệ sĩ thường bắt gặp triết gia. Là con chiên “chẳng đắm mê Thiên Đường”, là Phật tử “Niết Bàn không màng tới”, triết luận của Lê Quốc Hán không khô khan, đầy thổn thức, chứa chan vị đời trong một giọng nói giản dị và mềm mại:             Ngu ngơ chạm phải ao làng.             Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay.                                     (Bài thơ thời gian). Ở tuổi trí thiên mệnh, với thơ, nhà toán học đã dùng trí tuệ của mình bắc cầu nối hai bờ xa thẳm tâm linh và vũ trụ. Lê Quốc Hán đã phản tỉnh được những vấn đề cốt lỗi của nhân loại, cái mà loài người vẫn loay hoay chưa ý thức ra được: nhận đường! Cuộc đời thì rất thật, nhưng thực ra nó chỉ là một ảo ảnh:             Cỏ xanh đang đợi trước mồ             Thương tôi tôi vẫn mơ hồ kiếp tôi. Hình hài cát bụi phiêu lãng suốt hai tập thơ, làm bầm dập cả cõi lòng “Nụ cười và nước mắt – chia đều cho em anh”. Thơ Lê Quốc Hán là cái nhiệt kế nhạy cảm trước mưa nắng đời người. Những vần thơ “vụng cải rơi kim” của anh mở lòng ra với mênh mang tình người, biết yêu ghét đúng mực từ cái “tôi” đơn lẻ”, nhỏ nhoi của riêng mình.             Tóc xưa xanh một màu mây             Nay thành mưa trắng rơi đầy áo nhau                                                 (Muộn) Và thế là, Lê Quốc Hán đến với thần Lưu Linh như một dẫn chất đưa con người hưởng một thú vui trần thế hơn tìm lãng quên như bao gã Chí Phèo khác.

Chén này xin gắng gượng thêm cho đau khổ lặn cho phiền muộn tan Mai sau tới cõi Niết Bàn biết đâu còn được say tràn cung mây…

Thương nhau như bát nước đầy Có say giờ cũng chỉ say với mình Than ôi ! Cái giống hữu tình Thịt xuông dẫu nát, tâm linh mãi còn.

Rượu hồng tưới ngọn cỏ non mai sau trĩu quả bồ hòn. Ngậm chung.

(Mời rượu thanh minh)

Tỉnh và mơ, thực và ảo, trước “Rượu trần vừa ngọt vùa cay – ước gì tít một lần say. Ước gì” (Khoảng riêng tôi), Lê Quốc Hán rất thật tình với mình và cởi mở cùng bạn đọc. “Trót sinh ra để yêu thương – xòe tay nhặt hết hạt buồn gần xa”. Tâm hồn anh lắng đọng, nhỏ nhẹ và buồn thấm cất lên lời độc thoại. Giữa cái lãng đãng cốt cách Đường thi, cái sương khói nhạt nhòa của dân ca xứ Nghệ ở các bài thơ, ta bắt gặp sự tỉnh táo đọng lại ở nhiều câu chữ.

Phải thừa nhận rằng tính linh Lê Quốc Hán luôn hướng tới cái đích cái đích cao cả tuyệt mỹ là Đấng Siêu Nhiên, nhưng lại bị chi phối bởi hai tôn giáo :Thiên Chúa giáo từ phía bà mẹ và Phật giáo từ phía người cha. Thi tập Lời khấn nguyện nghiêng về phần nửa thứ nhất khi anh đi tìm bến bờ ? thi tập Bến vô cùng phản ánh phần nào nửa thứ hai khi anh tìm về cội nguồn này chăng ? Còn tập Mạc khải, và   là sự dung hòa hai ý tưởng trênđể làm hành trang khởi sự đi xa ? Rõ ràng là khoa học – Cái mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Quốc Hán đang hành nghề trên mục giảng đường đại học thì không tin bất cứ tôn giáo nào, nhưng thơ ca khám phá con người đưa tâm linh gặp tâm linh của anh lại đang làm cho con người say đắm. Tôn giáo với những tín điêu mông muội ru ngủ làm tê dại con người. Văn học và tôn giáo đều có khả năng làm cho chúng sinh đam mê, song hệ quả của đam mê hoàn toàn khác nhau. Thơ Lê Quốc Hán thấm mặn nước mắt trần gian trước nỗi đau nhân tình hòa tan chút yếm thế của Lão Trang, bừng phát bởi khát vọng của chúa Kitô, pha mùi giác ngộ của Phật Thích Ca. Thấm thía lẽ huyên vi của tạo hóa, dịu dàng mà dữ dằn, thâm trầm mà bạo biệt, lạ mà quen, tân kỳ mà cổ điển, thơ Lê Quốc Hán kiệm lời, dồn nén, bất ngờ, kỳ thú, có sức bật, lan tỏa, đi được đến tận cùng cái thắc mắc trước nỗi đau của Con Người. Nhà thơ Hoàng Hưng suốt đời đi “tìm mặt” trong tuyệt vọng, Lê Quốc Hán cũng đi tìm mặt mình. Khó lắm. Anh chỉ mong “Mai sau từ giã cõi người – biết đâu tìm được chính tôi bây giờ”?

*

Xuất thân trong một gia đình trí thức, cha chú của Lê Quốc Hán đều am hiểu văn hóa phương Tây, đặc biệt sành văn học Pháp. Mẹ anh là một con chiên sùng đạo. Người lớn lên bằng sữa mẹ, ca dao, thơ Nguyễn Bính, kinh Sấm truyền, kinh Phúc âm, và những tủi nhục bất công chồng chất. Vốn là một thần đồng toán học, Lê Quốc Hán đã phải chịu nhiều long đong lận đận suốt cả thời niên thiếu bởi “chủ nghĩa lý lịch” khắc nghiệt. Năm học lớp 7 (1965), anh đoạt giải học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Lớp 8 thi vào chuyên toán Đại học Tổng hợp đạt điểm 20,5/20, nhưng địa phương hẹp hòi không cho cắt hộ khẩu chuyển đi. Lớp 9 anh đoạt giải Nhất cuộc thi toán do báo Toán học & Tuổi trẻ tổ chức (Từ đó, Lê QuốcHán đã gắn bó chặt chẽ với tờ báo này cho đến ngày nay). Lớp 10, anh đi thi học sinh giỏi cả hai môn văn và toán ở tỉnh, nhưng bị can thiệp của địa phương nên bài không được chấm. Giống như mười năm “đóng cửa tạ sách” của Phan Huy Chú, Lê Quốc Hán đành phải cam chịu cày ruộng ròng rã suốt mười năm trời (!?). Hán chỉ may mắn khi gặp được Giáo sư Lê Văn Thiêm lúc đó (1976) là viện trưởng Viện Toán học Việt Nam phát hiện ra, thưởng vì có kỳ tích trong việc nghiên cứu và giảng dạy toán sơ cấp, đã đề nghị đặc cách cho anh vào thẳng Đại học Sư phạm Vinh không qua kỳ thi chung. Lê Quốc Hán học Đại học và Thạc sĩ đều giỏi, đứng thủ khoa. Nhưng rồi mãi đến tuổi 42, trường mới mở khóa nghiên cứu sinh đầu tiên, anh được cử đi học, bảo vệ thành công học vị Phó Tiến sĩ. Các lĩnh vực khác không nói làm gì, về toán học hiện đại, tuổi ấy là quá muộn để sống với nó. Chính trong những năm tháng sống mất thăng bằng đó, Lê Quốc Hán đã đến với thơ, dưới sự dìu dắt của nhiều người. Người ảnh hưởng trực tiếp mạnh nhất là nhà thơ nhà giáo Hà Quảng. “Với tôi, thơ là con thuyền độc mộc chở tâm linh v ượt mọi ghềnh thác để đến bến vĩnh hằng”; với “thập tải phong trần” (mười năm gió bụi – chữ dùng của Nguyễn Du) làm chất liệu sống cho thơ, Lê Quốc Hán hành hương về nguồn. Chẳng tìm được gì cả trên con đường thẳm gập ghềnh, buồn nản và vô vọng đó, nhưng Hán đã hái được nhiều hoa thơm, xoa dịu được phần nào trái tim tan nát của mình, mặc dù anh không có ý định trở thành thi nhân.

Xin người hãy sống thêm một ngày lương thiện Để đón chờ một đêm tối trong lành Để thời gian sợi chỉ đỏ mỏng manh Thêu nốt chuỗi tháng năm vào vô tận

.

*

Cuộc đời thì ngắn mà nghệ thuật lại dài.Trong thơ, Lê Quốc Hán đã và đang có ý thức kiến tạo cho mình một thi nghiệp. Lê Quốc Hán đã dằn vặt vì thơ và thường xuyên bị thơ hành “Câu thơ vô ảnh vô hình – Tháng năm vắt kiệt con tim dại khờ – Rời bờ thực cập bến mơ – Nửa tin quá khứ nửa ngờ mai sau” (Đợi). Cuộc đời cũng có duyên với anh, luôn cổ lệ nhà thơ yêu quý của mình “Vầng trăng khi tỏ khi mờ – Hỏi người thi sĩ có còn làm thơ – Nửa đời đi thực về mơ – Lênh đênh thuyền lá cập bờ bến chưa ?” (Một thoáng). Lê Quốc Hán cũng quằn quại đau đớn lắm khi lâm bồn đẻ thơ “Bài thơ rỏ máu từng câu – Ước chi người đọc cho sầu muộn tan” (Gửi). Anh lo sợ nhất là “những câu thơ sinh hạ chẳng linh hồn” (Tháng mười). Và, thật là sung sướng khi nhà thơ cho ra đời được những đứa con tinh thần sáng giá “Chập chờn đợi phút thăng hoa – câu thơ nối được hồn ta hồn người” (Đợi). Lê Quốc Hán nhắn gửi ước nguyện “Mai sau thi sĩ về trời – Câu thơ ở lại với người mai sau” (Mai sau), bởi mục đích cao cả của người thơ là thái độ nhập thế và tìm đường. Nhà thơ muốn xác lập cho mình một thi pháp “mỗi người trong bọn họ đã tạo cho mình một thế giới, riêng, một vũ trụ riêng, một tâm linh riêng” (Vũ trụ và tâm linh). Lê Quốc Hán tích cực làm thơ, xem thơ là cứu cánh sống. Anh tuyên ngôn “Đã toan lấy bút làm chèo – Con thuyền nhân ái khi neo cuối trời” (Dã tràng). Nhà thơ quan niệm “Câu thơ hay phải phản ánh chân thực những khía cạnh sâu kín nhất của linh hồn con người. Lòng nhân ái là nền tảng vĩnh viễn của thi ca”. Ngổn ngang giữa tâm thế thường trực”Mong manh và hư ảo – sáng, gánh nặng mặt trời – chiều, nhuộm hoàng hôn tím” (Sương), tâm linh tình nguyện hướng tới cõi vô cùng, Lê Quốc Hán đã ít nhiều tiên cảm được sự trường cửu của thi ca.

Trăm năm thơ sẽ theo người vùi trong hoa cỏ khóc cười phù du Người trôi về bến thiên thu thơ tan vào cõi tuyệt mù thế gian.

(Tự khúc)

Trong lúc trau dồi nghệ thuật đề hướng về cái Đẹp, nhà thơ nhớ đừng tước mất năng khiếu toán học trong tâm thức mình, vẫn sao cho “trong thơ có toán, trong toán có thơ”

(Chữ của Đặng Hấn), bởi thơ ca vẫn rất cần sự lạnh lùng của logic diễn dịch. Với thơ, nghệ thuật không được phép già nua và nông cạn.    Với điểm tựa là tâm linh, cùng cách giãi bày biệt lập, thơ Lê Quốc Hán là sự dung hòa giữa thơ và hiện thực, ẩn chứa chiều sâu cuộc đời trong một giọng thơ dung dị, đằm thắm, giàu suy tư, hướng thiện. Lê Quốc Hán làm thơ đều tay, rất ít bài trung bình, phần lớn khá trở lên. Thế mà người chỉ nguyện cầu:

Cát vàng sóng cuốn về khơi  Chỉ mong sót lại thơ tôi một dòng

                                   

(Dã tràng)

*

Song hành đều đặn với thơ và chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc cả nước, vài ba năm trở lại đây, người ta thấy Lê Quốc Hán còn xuất hiện trê các báo với tư cách người bình thơ. Anh thẩm khá sắc và tinh tế những bài thơ hay của các nhà thơ bất luận lớn bé. Viết được một câu thơ hay, một bài thơ hay đấy là tài năng, nhưng nhìn ra được thơ người khác hay, rồi đem cái sở học cùng tấm lòng tri âm của mình thẩm định quảng bá cho mọi người cùng thưởng lãm thì đấy là đức hạnh. Điều này, xét cho cùng cũng là một thứ tài năng, bởi cái tài lớn nhất của một bậc trí là thừa nhận người khác có tài. Anh v

ốn có tài thơ, nay thêm có đức hạnh. Tài và đức – đôi cánh này sẽ giúp thi nhân bay cao, bay xa vào bầu trời thơ của mình.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định về thơ ca, trong khiêm nhường đầy tự tin, Lê Quốc Hán vẫn thấy nghiệp thơ của mình mới chỉ là sự mạc khải (mở màn). Anh nhỏ nhẹ bảo “Trót sinh ra gi ữa thế gian đầy bí mật, nguyện trăm năm làm một cuộc du hành” (Nguyện).

Đọc Lê Quốc Hán, tôi cứ mường tượng tới một Hàn Mặc Tử mới đang tái thế với một tầm vóc văn hóa cao hơn. Hãy thử chờ xem! ————————————————————

(*)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ LÊ QUỐC HÁN còn có bút danh khác: Ngọc Hà, sinh ngày 16-4-1949 tại làng Dinh Cầu, xã Kỳ Châu, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Quê cha mẹ: xã Sơn Tân, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Năm 1968, tốt nghiệp phổ thông. Từ 1968-76: làm ruộng và dạy học ở quê nhà. Năm 1976-80: học khoa Toán Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1980-81: học thạc sĩ ngành Toán, Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1982-91: giàng dạy tại khoa toán Đại học sư phạm Vinh. Năm 1991-95: làm nghiên cứu sinh, tháng 1-1996 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ toán học hiện đại với đề tài

Sự liên hợp các p-nhóm con Sylow của nhóm compact địa phương

.

Từ 1996 đến nay vẫn tiếp tục giảng dạy tại khoa toán trường Đại học Sư phạm Vinh. Lê Qu

ốc Hán vẫn tiếp tục nghiên cứu toán học, đã có một loạt công trình in trên tạp chí Jounal of computer scien and cybernetic; được Nhà nước phong học hàm Phó Giáo sư toán học (ngày 15-10-2003)

Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An (1996) Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2002).

Đã in:

Lời khấn nguyện

,

Hội

Nhà văn

1996,

Kỳ Vọng

(chung với 5 nhà thơ gốc toán: Thạch Quỳ, Lê Quốc Hán, Vương Trọng, Đặng Hấn, Phi Tuyết Ba),

Văn nghệ TP Hồ Chí Minh

1998;

Bến vô cùng

,

Nxb

Văn học

1999;

Mạc khải

, Hội Nhà văn

, 2004;

Bất biến

,

Hội Nhà văn

2009.

Giải thưởng thơ : Tạp chí Sông Lam 1999 – 2000 Báo Tiền Phong 1999 -2000 Tạp chí Tài Hoa Trẻ 2000 – 2002 Giải nh

ất giải

thưởng VHNT Hồ Xuân Hương 1997 – 2002 cho t

ập Bến vô cùng

(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI của THÁI DOÃN HIỂU)  

Cập nhật thông tin chi tiết về Nên Học Ở Miền Bắc Hay … Miền Nam? trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!