Bạn đang xem bài viết Mùa Thu Trong Thơ Văn Cổ Điển Trung Hoa (Phần 2) được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Mùa thu trong thơ văn cổ điển Trung hoa (phần 2)
Đọc lại: Mùa Thu trong thơ văn cổ điển Trung hoa (phần 1)
Nói đến mùa thu mà không nhắc đến trăng thu là một điều thiếu sót lớn.Trăng thu nhắc nhở đến sự ly biệt, đến sự cô đơn của người lính thú, đến cảnh về già của một lão tướng hết thời, đến nỗi buồn của người cung nữ bị thất sủng… Trăng thu thật là buồn:
và lòng người lữ khách xa nhà: Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai.Chiếu tha kỷ hứa nhân trường đoạn.
Vị tất Tố Nga vô trướng hận,Ngọc thiềm thanh lãnh quế hoa cô.
未 必 素 娥 無 怅 恨,玉 蟾 清 冷 桂 花 孤。(Án Thù 晏殊, Trung thu nguyệt 中秋月, câu 3-4)(Nghĩa: Hằng Nga chưa chắc dã không buồn khổ,Cóc ngọc và cây quế đều thê lương lạnh lẽo)
Và đây là trăng cô đơn của Đỗ Phủ:
Thu nguyệt nhưng viên dạ,Giang thôn độc lão thân.
秋 月 仍 圓 夜,江 村 獨 老 身 。(Đỗ Phủ 杜甫, Thập thất dạ đối nguyệt, 十七夜對月câu 1-2)(Nghĩa: Đêm trăng thu vẫn tròn,Xóm bên sông chỉ có một thân già)
Núi thu cũng không làm cho lòng người vui hơn. Hãy nghe Bạch Cư Dị tả cảnh ông lên chơi núi sau một cơn đau dài:
Sơn thu vân vật lãnh,Xứng ngã thanh luy nhan.Nhân sinh vô kỷ hà,Tâm hữu thiên tải ưu,Thân vô nhất nhật nhàn.
山 秋 雲 物 冷,稱 我 清 羸 顔。人 生 無 幾 何 。心 有 千 載 憂,身 無 一 日 閑。(Bạch Cư Dị 白居易, Thu sơn, 秋山câu 3-4, 9, 11-12)(Nghĩa: Núi mùa thu mây và mọi vật đều lạnh,Thiệt xứng với nét mặt xanh gầy của ta.Đời người có gì đâu.Lòng có mối lo ngàn năm,Thân không có được một ngày nhàn nhã).
Núi thu cũng nhắc nhở đến sự chia ly, xa cách quê hương. Vi Ứng Vật nơi đất lạ gặp lại người bạn cũ đã từng sống tại Lương Châu, mừng mừng tủi tủi hàn huyên.Đến khi người bạn hỏi tại sao lâu rồi không về thăm quê, tác giả chỉ biết ngậm ngùi nhìn vào ngọn núi thu lờ mờ ẩn hiện trên sông Hoài:
Hà nhân bất quy khứ,Hoài thượng đối thu sơn.
何 因 不 歸 去,淮 上 有 秋 山。(Vi Ứng Vật 韋應物, Hoài thượng hỉ hội Lương châu cố nhân 淮上喜會梁川故人 , câu 7-8)(Nghĩa: Hỏi tại sao không trở về quê,Chỉ biết trỏ vào núi thu trên sông Hoài)
Cũng gần một hoàn cảnh, Lý Ích được gặp lại người em họ sau bao nhiêu năm ly loạn. Tác giả lại bùi ngùi nghĩ đến ngày mai người em họ lại phải lên đường đi nơi khác:
Minh nhật Ba lăng đạo, Thu sơn hựu kỷ trùng.
明 日 巴 陵 道,秋 山 又 幾 重? (Lý Ích 李益 ,Hỉ kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt , 喜見外弟又言別 câu 7-8)(Nghĩa: Ngày mai lên đường về Ba Lăng,Núi thu lại cách mấy trùng)
Khi nhắc đến sông thu, một số thi sĩ Trung hoa cổ điển đều nghĩ ngay tới sông Ngân, nơi có Ngưu lang Chức nữ, có lẽ vì dòng sông và hai ngôi sao này biểu hiện cho sự chia lìa của tình yêu đôi lứa. Và điểm này hơi đặc biệt, nó cũng làm cho họ nghĩ đến thân phận người cung nữ bị bỏ rơi. Và đó là một đề tài quen thuộc được biết đến dưới tên cung oán. Trong Cung từ, Cố Huống diễn tả cảnh người cung nữ ngồi một mình nhìn về phía lầu ngọc nơi vua và các cung nữ được sủng ái đang vui chơi, ca hát và nàng thấy bức màn thủy tinh được cuốn lên như đến tận Ngân hà:Thủy tinh liêm quyển cận thu hà.
水 晶 簾 卷 近 秋 河。(Cố Huống 顧況, Cung từ 宮詞, câu 4)(Nghĩa: Màn thủy tinh cuốn lên tận sông thu)
Đỗ Mục tả tâm tình người cung nữ đêm thu ngồi một mình buồn ngắm sao, giọng văn tương đối nhẹ nhàng, phải nhìn kỹ lắm chúng ta mới thấy được một chút “oán” thật kín đáo trong dòng thơ:
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình,Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh,Thiên giai dạ sắc lương như thủy,Tọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.
銀 燭 秋 光 冷 畫 屏, 輕 羅 小 扇 撲 流 螢。 天 階 夜 色 涼 如 水, 坐 看 牽 牛 織 女 星。(Đỗ Mục, 杜牧 Thu tịch 秋夕) (Nghĩa: Đêm thu ánh đuốc bạc chiếu bình phong lạnh,Dùng quạt lụa đánh đuổi con đom đóm.Trên thềm đá sắc đêm trong như nước,Ngồi nhìn 2 sao Ngưu lang và Chức nữ)
Mùa thu có khả năng gợi hứng cho thi nhân, nhưng cũng mang cho họ niềm nhung nhớ khôn nguôi. Ngoài việc tả cảnh vợ nhớ chồng như đã nói ở trên, thi nhân lại có một sự nhớ nhung khác: nhớ bạn. Người xưa rất coi trọng tình bạn, và trong lịch sử Trung hoa chúng ta đã thấy qua nhiều tình bạn rất vĩ đại và cảm động, chẳng hạn như Đỗ Bá và Tả Nho, Quản Trọng và Bảo thúc Nha, Kiển Thúc và Bá Lý Hề, Bá Nha và Tử Kỳ, ba anh em Lưu Quan Trương v.v…
Mạnh Hạo Nhiên một mình ở đất Tần (tức Kinh đô Trường An của nhà Đường) nhớ bạn là Tuệ Viễn thiền sư, đã làm một bài thơ nhớ bạn, trong đó hai câu cuối nghe thật là thê lương:
Nhật tịch lương phong chí,Văn thiền đản ích bi.
日 夕 涼 風 至,聞 蟬 但 益 悲。(Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Tần trung cảm thu ký Viễn thượng nhân 秦中感秋寄遠上人 câu 7-8)(Nghĩa: Ngày đêm gió lạnh thổi,Nghe tiếng ve chỉ thêm buồn)
(Ở đây xin mở một dấu ngoặc nhỏ. Ở xứ mình, tiếng ve thường dính liền với mùa hạ, trong khi ở đây, nó lại được nhắc đến ở mùa thu. Chúng ta cũng đã nghe Tống Ngọc nhắc đến ve sầu trong đoạn văn về mùa thu trích dẫn ở trên).
Một thi nhân khác trong đêm thu đi bộ một mình cũng nhớ đến bạn mình, tình cảm thật nhẹ nhàng:
Hoài quân thuộc thu dạ,Tản bộ vịnh lương thiên,Không sơn tùng tử lạc,U nhân ứng vị miên.
懷 君 屬 秋 夜,散 步 詠 涼 天。 空 山 松 子 落,幽 人 應 未 眠 。(Vi Ứng Vật 韋應物, Thu dạ ký Khâu viên ngoại 秋夜寄邱員外)(Nghĩa: Đêm thu tôi nhớ bạn,Trời mát đi bộ ngâm thơ.Núi vắng, quả tùng rơi,Tôi đoán bạn giờ này cũng chưa ngủ)
Nếu người bạn đã chết, thì tình cảm lại càng thê thiết. Vương An Thạch một thời làm Tể tướng chủ trương cải cách và đứng đầu Tân phái. Ông gặp được một người tuổi trẻ tài năng trác tuyệt là Vương Phùng Nguyên, tưởng rằng người trai trẻ này có thể kế thừa mình. Nhưng không may Vương Phùng Nguyên lại mất sớm, để cho Vương An Thạch thương tiếc khôn cùng. Bài thơ thứ nhất trong ba bài thương tiếc Phùng Nguyên bắt đầu bằng hai câu nghe thật bi thảm:
Phùng cao kim nhật tưởng phân phi,Trủng thượng thu phong hựu nhất suy.
蓬 蒿 今 日 想 紛 披,冢 上 秋 風 又 一 吹。(Vương An Thạch, Tư Vương Phùng Nguyên 王安石思王逢原(bài 1 trong 3 bài), câu 1-2)(Nghĩa: Cỏ dại hôm nay tưởng đã mọc đầy,Trên gò mả gió thu lại thổi)
Nỗi nhớ em của Đỗ Phủ cũng thật là da diết:
Thú cổ đoạn nhân hành,Thu biên nhất nhạn thanh.….Hữu đệ giai phân tán,Vô gia vấn tử sinh. Ký thư trường bất đạt,Huống nãi vị hưu binh.
戍 鼓 斷 人 行,秋 邊 一 雁 聲。…有 弟 皆 分 散,無 家 問 死 生。寄 書 長 不 達,況 乃 未 休 兵。(Đỗ Phủ 杜甫, Nguyệt dạ ức xá đệ 月夜憶舍弟, Câu 1-2, 5-8)(Nghĩa: Tiếng trống ngưng bước người,Mùa thu nơi biên giới, một tiếng nhạn kêu.….Có em mà đều bị chia ly,Không nhà để hỏi chuyện sống chết.Thư gởi lâu không tới,Huống chi binh lửa còn chưa hết)
Trời thu tự nó đã buồn, nhưng nếu thi nhân gặp được một cổ tích đổ nát thì tấm lòng hoài cổ lại bùng dậy. Và do đó, xuất hiện một đề tài gọi là điếu cổ hay hoài cổ. Bà Huyện Thanh Quan của Việt nam là một tay cự phách về đề tài này (Thăng long thành hoài cổ ). Lưu Trường Khanh khi đi thăm tàn tích của Ngô công đài (tại Giang Tô Giang đô huyện ngày nay) đã viết nên bài ngũ ngôn bát cú sau:
Cổ đài diêu lạc hậu, Thu nhật vọng hương tâm. Dã tự nhân lai thiểu, Vân phong thủy cách thâm. Tịch dương y cựu lũy, Hàn khánh mãn không lâm. Điêu trướng Nam triều sự, Trường giang độc chí kim.
古 台 搖 落 後,秋 日 望 鄉 心。野 寺 人 來 少,雲 峰 水 隔 深。夕 陽 依 舊 壘,寒 磬 滿 空 林。惆 怅 南 朝 事,長 江 獨 至 今。(Lưu Trường Khanh 劉長卿, Thu nhật đăng Ngô công đài thượng tự viễn diêu 秋日登吳公台上寺遠眺) (Nghĩa: Đài xưa đã điêu linh tàn tạ,Ngày thu lòng nhớ quê.Chùa quê ít người lại,Núi cao nước sâu cách trở.Nắng chiều vẫn nương nhờ đài cũ,Tiếng khánh lạnh bao phủ đầy rừng.Việc cũ của Nam triều điêu tàn,Chỉ có Trường giang là còn đến ngày nay)
Lưu Vũ Tích cũng có những câu thơ hoài cổ não lòng người khi ông viếng thăm Tây tái sơn (tại Hồ Bắc Đại Dã huyện):
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự, Sơn hình y cựu chẩm hàn lưu Tùng kim tứ hải vi gia nhật, Cố luỹ tiêu tiêu lô địch thu.
人 世 幾 回 傷 往 事,山 形 依 舊 枕 寒 流。從 今 四 海 爲 家 日,故 壘 蕭 蕭 蘆 荻 秋(Lưu Vũ Tích 劉禹錫, Tây tái sơn hoài cổ, 西塞山懷古câu 5-8)(Nghĩa: Người dời bao lần thương chuyện cũ,Núi vẫn như cụ gối trên sông lạnh.Kể từ bây giờ bốn biển một nhà,Thành xưa mùa thu lau lách tiêu điều)
Nhiều lúc không cần phải có thành quách cũ, mà chỉ cần một buổi chiều thu trên dòng sông Tương cũng đủ khơi dậy lòng hoài cổ nơi thi nhân:
Viên đề Động đình thụ, Nhân tại mộc lan châu. …Vân trung quân bất kiến, Cánh tịch tự bi thu.
猿 啼 洞 庭 樹,人 在 木 蘭 舟。…雲 中 君 不 見,竟 夕 自 悲 秋 。(Mã Đái , 馬戴Sở giang hoài cổ , 楚江懷古câu 3-4, 7-8)(Nghĩa: Vượn kêu trên cây ven Hồ Động đình,Người ở trên thuyền bằng gỗ mộc lan.Không thấy ông thần mây,Đêm xuống lại buồn thương thu một mình)
Trương Thuyết thời sơ Đường khi đến ngang Nghiệp đô, là nơi Tào Tháo và con cháu (nhà Ngụy) đóng đô thuở xưa, đã cảm thấy một nỗi bi thương vô hạn khi thấy gió thu về (đây là khoảng thời gian ông bị biếm trích đi Dương châu):
Thí thượng Đồng đài ca vũ xứ, Duy hữu thu phong sầu sát nhân.
試 上 銅 台 歌 舞 處,惟 有 秋 風 愁 殺 人。(Trương Thuyết 張說, Nghiệp đô dẫn, 邺都引câu 11-12)(Nghĩa: Thử lên Đồng tước đài, nơi ca hát,Chỉ có gió thu buồn chết người)
Đối với người dân bị mất nước, mùa thu lại còn buồn thêm. Đời Nam Tống, một nửa nước Trung hoa về phía Bắc bị quân Kim chiếm đóng. Dân chúng sống dưới ách cai trị của quân Kim ngày ngày trông ngóng cứu binh từ miền Nam lên, nhưng than ôi!… Cảm thương tình cảnh này, trong một đêm thu ra khỏi nhà hóng mát, Lục Du đã viết lên:
Di dân lệ tận Hồ trần lý,Nam vọng vương sư hựu nhất niên.
遺 民 淚 盡 胡 塵 裏,南 望 王 師 又 一 年。(Lục Du陸遊, Thu dạ tương hiểu xuất ly môn nghênh lương hữu cảm, 秋夜將曉出籬門迎涼有感câu 3-4)(Nghĩa: Dân bị bỏ sót ở miền Bắc nước mắt đã chảy hết vào trong bụi của xứ Hồ,Lại mất thêm một năm nữa hướng về phương Nam mong mỏi lính của vua lên Bắc để cứu).
添 愁 益 恨 绕 天 涯。照 他 幾 許 人 腸 斷 。(Bạch Cư Dị 白居易 , Trung thu nguyệt 中秋月, câu 2,7)(Nghĩa: Thêm sầu, thêm hận khắp gầm trời,Trăng đã soi bao nhiều người đứt ruột)
Đến đây, chúng tôi xin được ngưng phần trích dẫn các bài thơ nói về thu để đề cập tới hai tác phẩm lớn, mặc dù không có chủ ý tả thu, nhưng mỗi tác phẩm lại có được hai câu văn (mà chúng ta có thể gọi là thơ) tuyệt tác có chữ thu ở trong đó.
Trước hết là bài Đằng Vương Các tự (滕王閣序) của Vương Bột (王勃). Bài này được xem là một tuyệt tác của văn học Trung hoa, được viết một hơi trong một bữa tiệc, mà tác giả lúc đó mới 19 tuổi. Truyền thuyết về gốc gác bài này như sau.
Đô đốc Hồng châu là Diêm Bá Dư đãi tiệc ở Đằng Vương các, mục đích là để khoe tài văn chương của người con rể. Ông bảo con rể làm sẵn một bài tự, rồi trong bữa tiệc ông lại mời các văn sĩ dự tiệc mỗi người làm cho một bài. Mọi người hiểu ý ông nên không ai dám viết. Chỉ có Vương Bột lúc đó mới 19 tuổi, xin giấy viết để làm. Diêm Bá Dư tuy trong bụng không bằng lòng nhưng vẫn phải miễn cưỡng cung cấp giấy bút , và sai người đứng bên cạnh, hễ Vương Bột viết được câu nào thì sao chép lại cho ông đọc. Được mấy câu ông đã thầm phục, và khi Vương Bột viết xong 2 câu tuyệt tác (câu 57-58) thì ông phải nhận rằng Vương Bột là thiên tài, và không dám đưa bài của chàng rể ra nữa. Hai câu đó là:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
落 霞 與 孤 鹜 齊 飛,秋 水 共 長 天 一 色。
(Nghĩa: Ráng chiều với con cò đơn độc cùng bay,Nước thu và trời dài cùng một màu.)
Vương Bột sau này đi thuyền qua Giao chỉ thăm cha, bị chết đuối ở Nam hải, lúc đó ông mới 27 tuổi. Vin vào sự kiện này và sự nổi tiếng của hai câu thơ, hậu thế tạo nên một câu chuyện giả tưởng như sau. Họ nói rằng Vương Bột thích hai câu thơ này lắm, nên sau khi chết đuối, những đêm trăng thanh gió mát, ông lại hiện lên để ngâm hoài hai câu đó. Cho đến một ngày có một văn sĩ đi ngang, chê là mỗi câu thừa một chữ: câu trên thừa chữ dữ và câu dưới thừa chữ cộng, thì tiếng ngâm mới dứt hẳn. Đây chỉ là chuyện bịa đặt cho vui mà thôi.
Hai câu thơ tuyệt tác khác có chữ thu là của La Quán Trung (羅貫中), được viết trong tác phẩm bất hủ Tam Quốc diễn nghĩa (三國演義). Hai câu thơ này tả cảnh Lã Bố bắn kích ở Viên môn để giải nguy cho Lưu Bị (hồi thứ 16). Câu chuyện như sau:
Lã Bố trấn thủ Từ châu, một thành lớn, binh hùng tướng mạnh. Trong khi đó, Lưu Bị chưa gặp thời phải tạm đồn quân ở Tiểu Bái, với số lượng binh sĩ dưới tay chỉ 5 ngàn người. Viên Thuật (em Viên Thiệu) muốn đem quân đánh Lưu Bị nhưng ngại Bố giúp Bị, thành ra sai người đem dâng cho Bố 20 vạn hộc lương để Bố án binh bất động trong khi Thuật đánh Bị. Bố nhận lời. Thuật bèn sai đại tướng Kỷ Linh đem 10 vạn quân đi. Thấy thế nguy, Bị cầu cứu Bố. Bố, trong bụng cũng muốn giúp Bị, bèn bày ra một kế để giảng hòa hai bên (và nuốt gọn 20 vạn hộc lương). Bố đặt tiệc, gọi cả Kỷ Linh và Lưu Bị đến dự tiệc. Bố khuyên hai phe giảng hòa, nhưng một bên Kỷ Linh không chịu, một bên Trương Phi phùng mang trợn mắt chỉ muốn đánh nhau. Bố nổi giận, thét quân hầu đem cây Phương Thiên Họa Kích của mình ra cắm ngoài Viên môn cách xa bàn tiệc khoảng 150 bước và bảo với hai bên rằng bây giờ Bố sẽ bắn cây kích, nếu trật thì hai bên cứ việc đánh nhau, Bố sẽ không can thiệp, còn nếu Bố bắn trúng thì hai bên phải bãi binh, nếu bên nào không nghe thì Bố sẽ hiệp binh với bên kia đánh cho một trận. Kỷ Linh thấy cây kích xa đến 150 bước, trong bụng nghĩ rằng không ai có thể bắn trúng được, bèn nhận lời. Lưu Bị chẳng đặng đừng cũng đành chấp nhận. Lã Bố sai đem cung ra, lắp tên và chỉ một phát đã bắn trúng cái chạc nhỏ của cây kích. Kỷ Linh đành phải rút quân về. Đó là sự tích Lã Phụng Tiên xạ kích. Và đây là hai câu thơ tuyệt tác tả cảnh Lã Bố bắn cung (trong đó có chữ thu):
Cung khai như thu nguyệt hành thiên,Tiễn khứ tự lưu tinh lạc địa.
弓 開 如 秋 月 行 天,箭 去 似 流 星 落 地。
(Nghĩa: Cánh cung mở như trăng thu đi ngang trời,Mũi tên bay như sao băng rơi xuống đất.)Quả thật là thiên cổ kỳ văn.
xx x
Để kết thúc bài phiếm luận về mùa thu này, xin gởi đến quý độc giả một bài thơ Đường nói về mùa Thu. Bài thơ làm theo thể ngũ ngôn bát cú và được viết vào mùa thu đầu tiên của thế kỷ 21:
Âm Hán Việt:
Thu đáo Hàn sương thiết thụ chi, Thu hựu đáo hà vi. Điệp oán khai hoa thiểu, Lâm sầu khiếu điểu hi. Tán vân hoài cố thổ, Viên nguyệt vọng cô trì. Tạc dạ kim phong khởi, Thùy tri lạc diệp bi. Trần Văn Lương
Nghĩa: Mùa thu đếnSương lạnh như cắt xé cành cây,Mùa thu đến nữa làm gì.Bướm oán trách chuyện hoa nở ít,Rừng buồn chuyện chim hót hiếm hoi.Mây vụn nhớ quê cũ,Trăng tròn ngóng trông cái ao cô độc.Đêm qua gió vàng (gió thu) nổi lên,Có ai biết nỗi buồn của chiếc lá rơi.
Phỏng dịch thơ (giữ nguyên thể):
Mùa thu đếnSương rơi buốt cỏ cây,Thu lại đến rồi đây.Bướm trách hoa lười nở,Rừng buồn nhạn ngại bay.Mây tàn thương xóm cũ,Trăng sáng nhớ ao gầy.Đêm lá rơi theo gió,Nỗi sầu ai có hay.
Ghi chú: Phần chữ Hán được bổ túc bởi BBT – Thạch Lai Kim.
Mùa Thu Trong Thơ Thái Giang
Lời bình của Trọng Hùng
Mùa thu là một thi đề hết sức gợi cảm cho thi nhân. Từ ngàn xưa, các thi sĩ Đông phương đã cắm vào đấy những nhành thu khá đẹp. Đời Đường đã có những thi sĩ viết thơ thu nổi tiếng: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Đỗ Mục, Mạnh Hạo Nhiên… Nhưng phần lớn họ đều ám ảnh về sắc thu, khí thu, gió thu, trời thu, sông thu, nước thu… Mạnh Hạo Nhiên: “Mây trắng mập mờ núi Bắc”. Lý Bạch: “Vẻ thu cây nhuộm một màu”. Đỗ Phủ: ” Gió lay rụng hết lá vàng”. Bạch Cư Dị: “Trời thu đỏ tựa lửa đồng”. Lưu Vũ Tích: “Gió thu đến tận nơi nao. Hắt hiu đưa nhạn ào ào bay qua”.
Và ở Việt Nam, các thi nhân của ta cũng có những câu thơ thu, bài thơ thu bất hủ. Nguyễn Du: “Long lanh đáy nước in trời. Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”. Nguyễn Khuyến: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” – nhất là ba bài thơ thu: “Thu ẩm”, “Thu điếu”, “Thu hứng”, Nguyễn Khuyến đã khái quát một cách tài hoa toàn bộ hồn thu đất Bắc. Bích Khê có hai câu thơ thu không ai không nhớ: “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng. Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”. Xuân Diệu: “Với áo mơ phai dệt lá vàng”… Nhưng, các nhà thơ Trung Quốc, cũng như các nhà thơ Việt Nam, khi viết về thu đều tập trung bút lực của mình để làm nổi bật các chi tiết: “Lá rụng”, “trời xanh”, “gió heo may”, “nước trong”, “màu vàng” để mùa thu ám ảnh lòng người… Đến thời hiện đại, Hữu Thỉnh lại phát hiện một chi tiết mới lạ: “Hương ổi phả vào trong gió se”, để nói “Sang thu”. Còn bây giờ Thái Giang lại là “con dế” để nói “Mùa thu”:
Trời buông nắng nhẹ sang thu Có con dế thốt lời ru cỏ mềm Còn tôi mải miết đi tìm Câu thơ lục bát nổi chìm bến thu.
Bốn câu thơ lục bát, với tiêu đề “Mùa thu”, Thái Giang đã thể hiện được sự nhạy cảm, tinh tế, sáng tạo của mình về cảm hứng thu.
… Mới đây thôi, tháng sáu: như ai đổ chảo lửa từ trên trời làm thiên hạ ngột ngạt, oi nồng. Thế mà sang tháng bảy, tiết trời mưa ngâu, đổ sương xuống, làm cho cái nắng hôm nay dịu nhẹ. Nói theo cách thi sĩ của Thái Giang: “Trời buông nắng nhẹ sang thu”. Từ “buông” một từ bình thường nhưng đứng đúng chỗ nên thú vị làm sao! “Buông” chứ không phải thả. “Buông” thì chả cần gì phải giữ, phải níu kéo. Bởi vì từ “buông” đã có sự gượng nhẹ.Chỉ có thế, thu đã sang. Hai từ “nắng nhẹ” đều là thanh trắc, nhưng từ “nắng” mang dấu sắc, sẽ nặng hơn thanh trắc dấu nặng. Bởi thế hai thanh bằng “sang thu” cứ thế bay lên nhè nhẹ. Câu lục đã hay, câu bát mới thần tình: “Có con dế thốt lời ru cỏ mềm”. Cả tám chữ đều có sức nặng, gần như chữ nào cũng có “danh vị” của nó. Nhưng hai từ “con dế” thì mới thú, nhất là “dế” lại “thốt” mới sinh động chứ! Và bốn chữ “lời ru cỏ mềm” mới tuyệt làm sao. Mùa thu đã rõ đặc trưng của nó. Mùa thu, ngày ấy, sương dày đặc, ông trời không chỉ “buông nắng” mà còn buông cả hàng ngàn con dế mèn trong sương dày, xuống bờ bãi, ruộng đồng. Thích chí, các chú dế gáy te te. Cái thứ gì dế thích nhất? Ấy là cỏ non tươi xanh, đầy mật ngọt ngào. Thái Giang đã nắm bắt hồn của thu, thả vào đấy, những chữ không thể nào chê vào đâu được. Mấy từ “dế thốt lời ru cỏ mềm” gợi cảm thực sự. Có người bảo rằng hình ảnh con dế chẳng có gì mới lạ, vì cách đây 1700 năm, Vương Duy trong bài thơ: “Thơ làm buổi sáng mùa thu ở trong núi” đã nói rồi: “Dế kêu đám cỏ hơi may”. Thực ra câu thơ Vương Duy là câu kể, thiên về tự sự. Còn “con dế” của Thái Giang rẽ về cảm xúc. Thái Giang lấy tình cảm điện lực, cho nên con dế của Thái Giang là con dế trữ tình ngọt lịm. Ta đọc tiếp hai câu thơ sau, ẩn ý của nhà thơ còn sâu xa hơn nữa:
Còn tôi mải miết đi tìm Câu thơ lục bát nổi chìm bến thu
“Dế” thì “thốt lời ru cỏ mềm”, còn thi nhân thì “mải miết đi tìm”! Đi tìm gì? Tìm “bến thu” hay đi tìm “câu thơ lục bát”? Có lẽ có cả hai. Bởi thế khi mùa thu hiện nguyên hình thì câu thơ lục bát cũng rất chỉnh, thi sĩ đâu phải tìm nữa. Ẩn số vừa xuất hiện, máy đáp số đã bật lên rõ rành rành. Tài hoa của người cầm bút là chỗ ấy. Mùa thu đã thực sự hiện lên đầu ngọn bút. Nhà thơ vừa “cất bút” thì những đặc trưng tiêu biểu của thu cũng rõ mồn một. Thơ như thế mới thật là thơ.
Trọng Hùng
Soạn Bài: Kiểm Tra Thơ Và Truyện Hiện Đại (Phần 2) Trong Sách Giáo Khoa Ngữ Văn Lớp 9
Soạn văn lớp 9 ☞ Soạn bài: Kiểm tra thơ và truyện hiện đại (phần 2) Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 9 Trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 hay nhất cực đầy đủ, chi tiết và bám sát chương trình nhất. Đây là tài liệu cực kỳ bổ ích dành cho các em học sinh cuối cấp. Với đặc thù chương trình Ngữ vă lớp 9 sẽ là nội dung trọng tâm trong hệ thống đề thi chuyển cấp. Chính vì vậy các em cần phải nắm chắc các bài soạn văn lớp 9. Đó là hệ thống các kiến thức trọng tâm, sát đề thi và rất dễ ghi nhớ.
Xem phần soạn câu 1, 2, 3, 4 bài Kiểm tra thơ và truyện hiện đại.
Câu 5:
☞ Tình cảm của đứa con:
☞ Bé Thu cũng rất thương yêu cha. Em tôn thờ và giữ trọn lòng thương nhớ cha qua bức ảnh.
☞ Em ương bướng và chống đối anh Sáu, nhất định không chịu gọi anh một tiếng “Ba” chỉ vì em dành tình thương yêu đó cho người cha mà em thương nhớ.
☞ Khi nhận ra cha “hai tay em ôm chặt cổ ba…” như muốn giữ anh Sáu ở mãi bên cạnh.
☞ Sự thông minh và sự ương ngạnh của bé Thu làm người đọc thương em hơn trách em
☞ Tình cảm người cha:
☞ Anh Sáu thương nhớ con xiết bao. Ngày về phép anh chỉ mong được ôm con vào lòng và gọi một tiếng “Ba”.Nhưng nó không chịu gọi…
☞ Những ngày ở bên con,anh chăm sóc chiều chuộng con.Nhưng nó vẫn lạnh nhạt với anh…
☞ Ngày anh ra đi, bé Thu hiểu ra mọi việc. Nó ôm chầm lấy cha muốn rời…
☞ Ở chiến khu, anh làm cho con chiếc lược bằng ngà. Mỗi chiếc răng lược là bao nhiêu tình cảm thương nhớ mà anh dành cho con.
Câu 6:
a. Người lính hiên ngang, dũng cảm :
☞ Đọc qua hai bài thơ, người đọc nhận thấy hai người lính tuy ở hai thời kì khác nhau nhưng lòng yêu quê hương cao đẹp như nhau…
☞ Từ trong cuộc đời họ bước vào trang thơ với những nét đẹp hiên ngang dũng cảm: Anh lính trong “Đồng chí” dũng cảm rời quê hương ra đi rời bỏ cuốc cày, cầm vũ khí chiến đấu. Vì lí tưởng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mà anh đã ra đi để lại “ruộng nương, gian nhà” trong nỗi nhớ thương thầm lặng “Ruộng nương…lung lay”.
☞ Anh lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có khác hơn. Anh hiên ngang đối mặt với bom đạn kẻ thù,ngồi vào những chiếc xe bị lột từng lúc một cách trần trụi “không có kính…ta ngồi”. Vì xe vỡ kính, anh bình tĩnh đối diện với bao khó khăn tràn vào “không có kính ừ thì có bụi”, “không có kính ừ thì ướt áo”.Phải là người bình tĩnh mới có thể đương đầu với thế giới bên ngoài”Nhìn thấy…buồng lái”
b. Người lính lạc quan, yêu đời vượt khó khăn :
☞ Trong “Đồng chí” người dù thiếu thốn “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá” vẫn không nề hà. Anh và đồng đội đã vượt qua những cơn “sốt run người” hay những lúc “vầng trán ướt mồ hôi”. Tuy gian khổ nhưng anh vẫn mỉm cười vượt qua… “Áo anh…không giày”.
☞ Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” người lính dù “mưa tuôn mưa xối” dù “bụi phun tóc trắng” vẫn ung dung đối mặt, xem thường khó khăn, lấy gian khổ làm thử thách cho cuộc đời mình, lạc quan yêu đời…hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. “Chưa cần chúng tôi thôi”.
c. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” người lính dù “mưa tuôn mưa xối” dù “bụi phun tóc trắng” vẫn ung dung đối mặt, xem thường khó khăn, lấy gian khổ làm thử thách cho cuộc đời mình, lạc quan yêu đời…hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. “Chưa cần chúng tôi thôi”.
☞ Tình đồng đội của những người lính là một nét đẹp luôn được ca ngợi. Họ cũng đoàn kết với nhau vượt qua mọi gian nan thử thách…
☞ Người lính trong”Đồng chí”chia cho anh từng”đêm rét chung chăn”.Họ nắm tay truyền cho nhau nghị lực, niềm tin,giúp nhau vượt qua những lúc thiếu thốn, hiểm nghèo. Họ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”,”thương nhau…tay”.
☞ Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để động viên nhau tiếp tục cuộc chiến đấu.Mỗi một”chiếc xe từ trong bom rơi”trở về đã là thành viên của tiểu đội lái xe Trường Sơn. Những giờ phút họ ngồi bên nhau chia nhau bát cơm, đôi đũa là trở thành “gia đình” của nhau. “Những chiếc xe… gia đình đấy”.
d. Ý chí chiến đấu của người lính :
☞ Điểm nổi bất ở những người lính là ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ ra đi với quyết tâm đánh đuổi kẻ thù chung. Cho nên dù đêm đông giá rét, dù gió lạnh thấu xương, họ vẫn “đứng cạnh nhau” quyết tâm chiến đấu “Đêm nay…trăng treo”.
☞ Ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” quyết tâm của người lính thể hiện qua việc tiếp tục lên đường, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam thân yêu. Họ “lại đi, lại đi” với ý chí chiến đấu cao độ, giải phóng đất nước, đem bầu “trời xanh” về cho nhân dân. Quyết tâm này thể hiện qua lí tưởng chiến đấu “vì miền Nam phía trước”. “Xe vẫn chạy …trái tim”.
Câu 8: Bút pháp xây dựng hình ảnh thơ trong các bài thơ: Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá, Ánh trăng.
* Đồng chí:
☞ Bài thơ mang đậm tính hiện thực. Hình tượng người lính được xây dựng theo bút pháp hiện thực.
☞ Người lính: Được lí tưởng hoá ở mọi hoành cảnh, trên mọi khía cạnh đẹp một cách lí tưởng.
☞ Hình ảnh: đầu súng trăng treo: là hình ảnh lãng mạn nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp
Vừa thực, vừa ảo mang ý nghĩa biểu trưng: chiến sĩ – thi sĩ, hiện thực – tương lai, chiến tranh – hoà bình…
* Đoàn thuyền đánh cá: Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng.
☞ Hình ảnh đàn cá: Được tạo nên bằng sự quan sát và liên tưởng tinh nhạy. Vừa thực, vừa ảo.
* Ánh trăng: Tự sự kết hợp trữ tình.Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng.
☞ Trăng: Là thiên nhiên tươi mát, là người bạn tri kỉ thời thơ ấu.
☞ Trăng: Là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống.
☞ Trăng: Là sự nhắc nhở về lẽ sống Uống nước, nhớ nguồn”
Soạn Bài: Sang Thu – Ngữ Văn 9 Tập 2
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh trong SGK Ngữ văn 9 Tập 2).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Bài thơ Sang thu được sáng tác vào mùa thu năm 1977, được in trong tập Từ chiến hào đến thành phố.
* Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ.
* Bố cục: Bài thơ có thể được chia làm 3 đoạn:
Phần 1: khổ thơ đầu: Những tín hiệu giao mùa
Phần 2: khổ thơ thứ 2: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
Phần 3: khổ thơ thứ 3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Sự biến đổi của đất trời sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận bắt đầu từ những tín hiệu chuyển mùa: hương ổi phả vào gió se, gió thu giăng mắc chầm chậm, dòng sông dềnh dàng trôi, những cánh chim bắt đầu vội vã, đám mây hạ – thu, nắng cuối hạ vơi dần cơn mưa. Tâm trạng tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng qua các từ “bỗng, hình như”. Sau đó nhà thơ gợi tả bằng những hình ảnh dòng sông, bầy chim, đám mây, hiện tượng nắng, mưa, sấm trên hàng cây đứng tuổi.
Câu 2:
Sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu:
Hương vị: mùi ổi chín – trái cây mùa thu.
Cảm nhận bằng xúc giác: gió se, sương, thời tiết se se lạnh của mùa thu.
Hình ảnh vạn vật đang chuyển mình: sông dềnh dàng, chim vội vã, đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” (hình ảnh nhân hóa).
Câu 3:
* Theo em, nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện đặc sắc nhất qua câu thơ: “Có đám mây mùa hạ – Vắt nửa mình sang thu”. Đây là hình ảnh nhân hóa , đầy liên tưởng gợi hình, gợi cảm, một ranh giới mơ hồ, nên thơ.
* Hai dòng thơ cuối:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Ý nghĩa tả thực: những tiếng sấm đã không còn bất ngờ nữa, sấm gắn liền với những cơn mưa rào mùa hạ quen thuộc và cũng đã bớt dần.
Ý nghĩa ấn dụ: Sấm là đại diện cho những điều bất thường, dữ dội trong cuộc sống hằng ngày, “hàng cây đứng tuổi” là những người từng trải. Con người bình thản sẽ bình thản hơn, trưởng thành hơn, điềm đạm chín chắn hơn với những bão tố của cuộc đời.
Soạn Văn chúc các em học tập tốt!
4.5
/
5
(
4
bình chọn
)
Cập nhật thông tin chi tiết về Mùa Thu Trong Thơ Văn Cổ Điển Trung Hoa (Phần 2) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!