Bạn đang xem bài viết Một Trong Những Nội Dung Lớn Của Văn Học Trung Đại Là Nội Dung Yêu Nước. Qua Các Sáng Tác Thơ Phú Thời Lí Trần (Vận Nước được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Có thể nói, cùng với cảm hứng nhân đạo, yêu nước là cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt chiều dài lịch sử của văn học trung đại. Nhưng nếu như cảm hứng nhân đạo được thể hiện tập trung hơn cả ở giai đoạn cuổì thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX thì cảm hứng yêu nước lại đậm nét hơn ở những thế kỉ XIII – XIV với những sáng tác tiêu biệu như Vận nước (Pháp Thuận), Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu), Hứng trở về (Nguyễn Trung Ngạn).
Đỗ Pháp Thuận là một nhà tu hành theo đạo Phật nhưng ông lại là người có tinh thần nhập cuộc rất lớn. Với kiến thức uyên bác và tài thơ văn, ông thường tích cực tham gia vào việc xây dựng nhà Tiền Lê. Thực chất bài thơ Quốc tậ là câu trả lời ngắn gọn mà sâu sắc của Đỗ Pháp Thuận đáp lại câu hỏi của vua Lê Đại Hành về vận nước.
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lí thái bình.
(Vận nước như dây mây leo quấn quýt, ở cõi trời nam mở ra cảnh thái bình.)
Trong hai câu đầu nay Đỗ Pháp Thuận đã mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước. Cách so sánh vận nước như dây mây leo quấn quýt vừa nói lên sự bền chặt, vừa nói lên sự dài lâu, phát triển thịnh vượng. Câu thơ khẳng định vận may của đất nước đồng thời nói lên niềm tin của tác giả vào vận nước. Hai câu thơ phản ánh tâm trạng phơi phới niềm vui, niềm tự hào, lạc quan.
Đến hai câu sau:
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
(Vô vi ở nơi cung điện,
Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh)
Điều tác giả muốn hướng tới là đường lối trị nước. Vô vi theo Lão Tử là thuận theo tự nhiên, không làm gì trái với qui luật tự hhiên. Trong bài thơ, hai chữ vô vỉ được viết theo tinh thần Nho giáo. Người lãnh đạo dùng đạo đức của bản thân để cảm hoá dân, khiến cho dân tin phục. Khi dân đã tin phục thì xã hội tự đạt được trạng thái trị bình, vua không phải làm gì hơn. Khuyên nhà vua trong điều hành chính sự nên vô vi tức là thuận theo tự nhiên, dùng phương sách đức trị, lấy đức mà giáo hoá dân. Được như thế thì đất nước thái bình, thịnh trị, không còn nạn binh đao, chiến tranh.
Từ bài thơ, có thể thấy lòng yêu nước của Đỗ Pháp Thuận được thể hiện ở ý thức trách nhiệm, niềm lạc quan vào tương lai của đất nước. Cao hơn, lòng yêu nước gắn liền với khát vọng hoà bình của con người thời đại bấy giờ. Vận nước xoay quanh hai chữ thái bình mà đường lối trị nước cũng hướng tới hai chữ thái bình. Đỗ Pháp Thuận đã thay mặt hết thảy mọi người dân Việt Nam để nói lên khát vọng truyền thống của cả dân tộc.
Lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam như ngọn lửa luôn được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đến Phạm Ngũ Lão, nó dược thể hiện đậm nét trong ý thức về sức mạnh dân tộc:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
Niềm tự hào về đội quân của mình trước hết được Phạm Ngũ Lão thể hiện Tụ thể qua việc khắc hoạ tư thế hoành sóc (cầm ngang ngọn giáo). “Cầm ngang ngọn giáo” khác hẳn với “múa giáo”, hơn hẳn tư thế “múa giáo” ở sự hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi, ở tư thế chủ động, sẵn sàng trân giữ, bảo vệ non sông. Cây trường giáo này không chỉ được đặt trong không gian rộng lớn (giang sơn) mà còn như đo suốt thời gian bất tận (kháp kỉ thu). Hành động kì vĩ đó chắc chắn phải thuộc về con người có tầm vóc lớn lao. Không xuất hiện trực tiếp nhưng hình tượng con người như át cả vũ trụ bao la.
Xuất hiện trong câu thơ thứ hai là hình ảnh của cả một đội quân với khí thế dũng mãnh sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ một khi chúng ồ ạt tràn tới. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất của ba quân vừa hướng tới sự khái quát hoá sức mạnh tinh thần của đội quân mang “hào khí Đông A”. Câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tam quân là hình ảnh nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho sức mạnh của cả dân tộc.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Phạm Ngũ Lão khao khát lập công danh nhưng công danh đó không phải để cho riêng ông mà để phụng sự đất nước, vì đất nước. Thực tế, khi bài thơ này được hoàn thành, Phạm Ngũ Lão đã trở thành vị tướng giỏi của nhà Trần, lập được rất nhiều công trạng cho triều đình. Nhưng, dường như ông chưa thoả lòng với những gì mình đã làm được mà vẫn thấy mình chưa trọn công danh, vẫn thấy món nợ công danh của mình còn đó. Suy nghĩ này cho thấy khát vọng được công hiến hết mình cho triều đại nhà Trần, cho dân tộc. Đây là khát vọng của con người có ý thức, trách nhiệm với non sông đất nước. Và càng khao khát bao nhiêu, con người ấy càng cảm thấy “thẹn” bấy nhiêu khi tự so sánh mình với Vũ hầu (Gia – Gát Lượng). Nỗi thẹn ấy là nỗi thẹn của con người đã rất hết lòng vì dân, vì nước, là nỗi thẹn dệt nên lòng yêu nước thiết tha trong Phạm Ngũ Lão.
Cũng như tác giả Tỏ lòng, khi viết Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu cũng bày tỏ lòng tự hào dân tộc. Nhưng với Trương Hán Siêu, tự hào dân tộc là tự hào về truyền thông yêu nước và tự hào về truyền thông đạo lí nhân nghĩa. Phân thân thành nhân vật khách và các bô lão, tác giả đã để dòng hoài niệm về cuộc chiến đấu vẻ vang của dân tộc đang dâng trào cất thành những lời ca ngợi ca chiến công trên sông Bạch Đằng:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Nãm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Tròn ba trăm năm mươi năm sau (năm 1288), cũng trên dòng sông đó, Trùng Hưng nhị thánh bắt sông tướng giặc Ô Mã Nhi. Sở dĩ các bô lão nhắc tới chiến thắng thời Trần trước là bởi sự kiện này mới diễn ra, gần gũi với họ. Chính chiến thắng này đã gợi nhớ lại chiến thắng khi xưa. Nhắc lại những chiến công oai hùng đó, trong lòng các bô lão và nhân vật khách chắc chắn đang dấy lên niềm tự hào khôn xiết. Bằng hai câu văn dài, mỗi câu mười hai âm tiết, tác giả đã tạo được không khí trang nghiêm, đĩnh đạc, làm nền cho việc hồi tưởng lại chiến trận (giữa quân đội nhà Trần và quân Nguyên – Mông) ở phần tiếp:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Cách ngắt nhịp nhanh, lối đỗì ngẫu chặt chẽ và một loạt hình ảnh hùng dũng trong hai câu văn tái hiện sinh động không khí trận mạc quyết liệt trên sông. Các nhân vật như đang sông trong cuộc giao tranh ác liệt. Họ nhìn nhận rất chính xác về lực lượng giữa ta và địch chứ hoàn toàn không quá đề cao hay hạ thấp bên nào. Quân địch rất hùng mạnh và lại gian xảo (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước đối), còn quân ta chiến đấu vì chính nghĩa nên cũng thuận với lẽ trời (Trời cũng chiều người), lại có người tổ chức lãnh đạo kiệt xuất với đường lối chiến thuật, chiến lược đúng đắn (Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an). Chính cái nhìn công bằng của khách và các bô lão về lực lượng ta – địch đã góp phần thể hiện sâu sắc hơn niềm tự hào trong họ. Chiến thắng đội quân kiêu ngạo đã từng tung vó ngựa thôn tính nhiều quốc gia từ Á sang Âu, quân đội ta quả đã thực thi một việc phi thường. Niềm tự hào ấy hẳn lớn lao vô cùng nên các bô lão và khách đã phải cất lời đốì sánh:
Khác nào như khi xưa: Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Điển tích, điển cố tự ngàn xưa được nhắc lại trong nỗi niềm hoài vọng của các nhân vật. So sánh trận chiến của quân đội ta với trận chiến nổi tiếng thời Tam Quốc khi xưa, chắc chắn trong lòng khách và các bô lão đang dấy lên một cách mãnh liệt lòng tự hào về truyền thông yêu nước của dân tộc.
Khách và các bô lão không chỉ tự hào về các chiến công mà còn tự hào về đức lớn lao của nhân tài, của vua Trần và cũng là đức lớn cũa dân tộc:
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp bỉnh.
Cảm hứng về quê hương, đất nước luôn là cảm hứng bất tận trong lòng những thi nhân vốn mang sẵn lòng yêu nước. Đó là lí do khiến các nhà thơ dù ở nơi đâu cũng có thể thể hiện tình yêu đó qua thơ văn. Xa quê, nhớ quê là tình cảm thường thấy ở mỗi người. Với Nguyễn Trung Ngạn, nỗi nhớ quê trở về thật’ tự nhiên và tự cất thành những câu thơ giản dị:
Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tào đạo hoa hương giải chính phì.
(Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo.)
Tiêu điểm của nỗi nhớ trong Nguyễn Trung Ngạn không phải là những gì quá lớn lao, hùng vĩ mà đơn giản chỉ là những hình ảnh dân dã, quen thuộc của quê hương như cây dâu già, nong tằm vừa chín, lúa trổ bông sớm thoảng mùi hương, cua đang lúc béo. Cuộc sông sung sướng đất Giang Nam không làm tác giả quên đi hình ảnh quê hương mà ngược lại nó càng làm nhà thơ nhớ thương nơi quê nhà nghèo khó. Hình ảnh thơ quen thuộc lại làm xúc động lòng người bởi nó gắn bó máu thịt với mỗi cuộc đời, bởi nó được nói lên một cách chân thực, tự nhiên.
Nếu ở hai câu đầu lòng yêu nước của Nguyễn Trung Ngạn được thể hiện thầm kín qua nỗi nhớ quê hương thì đến hai câu cuối tác giả trực tiếp nói lên tâm trạng của mình:
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như qui.
(Nghe nói ở nhà dẫu nghèo vẫn tốt,
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà.)
Bằng kiểu câu khẳng định tuy… bất… và biện pháp nghệ thuật đối lập bần diệc hảo, Nguyễn Trung Ngạn đã thể hiện niềm mong mỏi được trở về quê hương đất nước mình. Từ đây, chúng ta có thể cảm nhận được một cách gián tiếp niềm tự hào của tác giả. Với Nguyễn Trung Ngạn, sống sung sướng nơi đất khách không bằng dược sống nơi quê nhà.
Khái Quát Nội Dung Và Nghệ Thuật Trong Bài Thơ Bánh Trôi Nước Của Tác Giả Hồ Xuân Hương
Đề bài: Mượn hình ảnh bánh trôi nước, tác giả Hồ Xuân Hương đã xây dựng thành công ẩn dụ đầy đặc sắc về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Dựa vào văn bản thơ đã học, các bạn hãy trình bày khái quát nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Bánh trôi nước.
I. Dàn ý chi tiết cho đề khái quát nội dung và nghệ thuật bài thơ Bánh trôi nước
1.
Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Hồ Xuân Hương cái tên quen thuộc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng những người yêu thơ văn dân tộc. Và bài thơ Bánh trôi nước của nữ thi sĩ chính là bài thơ có lẽ được nhiều người biết đến nhất, đây cũng chính là bài được đánh giá là xuất sắc và hay nhất của nữ thi sĩ. Không chỉ nội dung và cả nghệ thuật của bài thơ cũng vô cùng tài tình và ý nghĩa.
2.Thân bài
– Nội dung và nghệ thuật qua hai câu thơ đầu:
+ Hồ Xuân Hương chính là một nhà thơ với phong cách ngôn nhưng lại vô cùng thật, thơ của bà hầu hết là nói về những bất và số phận lênh đênh của người phụ nữ tài sắc nhưng phận bạc. câu thơ đầu tiên chính là hình ảnh của người phụ nữ qua hình ảnh của chiếc bánh trôi nước “vừa trắng vừa tròn”
+Hình ảnh quen thuộc là chiếc bánh trôi với những đặc điểm cơ bản “trắng, tròn”.
+Câu thơ thứ hai lại là một kinh nghiệm khác của người làm bánh. Đó là cách luộc những chiếc bánh trôi:
Câu thơ thứ hai chính là quá trình chiếc bánh trôi được làm chín, hình ảnh “bảy nổi ba chìm” như chính số phận của người phụ nữ, số phận, cuộc đời của họ đến chính họ cũng thể quyết định được.
-Nội dung và nghệ thuật qua hai câu thơ cuối:
+”Rắn nát mặc dầu” họ đâu có thể chống lại được những luật lệ hà khắc đó chính vì vậy đành cam chịu “mặc dầu”.
+Nhưng dù có bị vấy bẩn, bị chà đạp, bị ức hiếp, bị coi thường nhưng những người phụ nữ họ vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắc thủy chung của mình “vẫn giữ tấm lòng son”.
+Giống như cây sen thơm ngát, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa đã khắc họa rõ nét và gây ấn tượng mạnh đối với người đọc
+Bánh trôi nước là một bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay cả về nội dung và nghệ thuật trong số những bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương.
+ Nội dung tả thực, giá trị nhân văn sâu sắc, tài năng sử dụng ngôn ngữ tài tình, biện pháp nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ lột tả được hiện thực xã hội. Giọng thơ nhẹ nhàng, từ ngữ gần gũi nhưng vô cùng sâu cay
3. Kết bài
– Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bánh trôi nước:
Bài thơ bốn câu, ngôn ngữ bình dị nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ, ca ngợi những nét đẹp của người phụ nữ và những phẩm chất của họ trong xã hội xưa. Nghệ thuật tả thực, với hai biện pháp nghệ thuật hoán dụ và ẩn dụ đã khắc họa nên số phận đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
II. Bài tham khảo cho đề khái quát nội dung và nghệ thuật bài thơ Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương cái tên quen thuộc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng những người yêu thơ văn dân tộc. Và bài thơ Bánh trôi nước của nữ thi sĩ chính là bài thơ có lẽ được nhiều người biết đến nhất, đây cũng chính là bài được đánh giá là xuất sắc và hay nhất của nữ thi sĩ. Không chỉ nội dung và cả nghệ thuật của bài thơ cũng vô cùng tài tình và ý nghĩa.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Hồ Xuân Hương chính là một nhà thơ với phong cách ngôn nhưng lại vô cùng thật, thơ của bà hầu hết là nói về những bất và số phận lênh đênh của người phụ nữ tài sắc nhưng phận bạc. câu thơ đầu tiên chính là hình ảnh của người phụ nữ qua hình ảnh của chiếc bánh trôi nước “vừa trắng vừa tròn”
Câu thơ thứ hai lại là một kinh nghiệm khác của người làm bánh. Đó là cách luộc những chiếc bánh trôi:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Câu thơ thứ hai chính là quá trình chiếc bánh trôi được làm chín, hình ảnh “bảy nổi ba chìm” như chính số phận của người phụ nữ, số phận, cuộc đời của họ đến chính họ cũng thể quyết định được. đọc đến đây ta cảm tưởng như chỉ là câu thơ luộc bánh bình thường nhưng đây chính là hình ảnh ẩn dụ cho số phận của những người phụ nữ xã hội xưa. Nó cũng lênh đênh chìm nổi giữa dòng đời đầy rẫy những bất công của xã hội phong kiến hà khắc:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son
“Rắn nát mặc dầu” họ đâu có thể chống lại được những luật lệ hà khắc đó chính vì vậy đành cam chịu “mặc dầu”. Nhưng dù có bị vấy bẩn, bị chà đạp, bị ức hiếp, bị coi thường nhưng những người phụ nữ họ vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắc thủy chung của mình “vẫn giữ tấm lòng son”. Giống như cây sen thơm ngát, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa đã khắc họa rõ nét và gây ấn tượng mạnh đối với người đọc
Bánh trôi nước là một bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay cả về nội dung và nghệ thuật trong số những bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Nội dung tả thực, giá trị nhân văn sâu sắc, tài năng sử dụng ngôn ngữ tài tình, biện pháp nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ lột tả được hiện thực xã hội. Giọng thơ nhẹ nhàng, từ ngữ gần gũi nhưng vô cùng sâu cay
Bài thơ bốn câu, ngôn ngữ bình dị nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ, ca ngợi những nét đẹp của người phụ nữ và những phẩm chất của họ trong xã hội xưa. Nghệ thuật tả thực, với hai biện pháp nghệ thuật hoán dụ và ẩn dụ đã khắc họa nên số phận đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Từ khóa tìm kiếm:
tim hieu ve banh troi nuoc noi dung nghe thuat
Hoàn Cảnh Sáng Tác, Nội Dung Nghệ Thuật Bài Cảnh Khuya, Rằm Tháng Giêng
Hoàn cảnh sáng tác, nội dung nghệ thuật bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng
Cảnh khuya và Rằm tháng giêng đều là những bài thơ hay của tác giả Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác và những điểm chính về nội dung nghệ thuật của 2 bài thơ này.
I. Bài Cảnh khuya a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ Cảnh khuya được Bác sáng tác vào giai đoạn đầu của kháng chiến chống Pháp, cụ thể vào năm 1947. Đây là giai đoạn nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, rút lui lên những vùng rừng núi, hiểm trở để thành lập căn cứ, lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.
Trong một đêm trăng đẹp, Bác ngắm cảnh và viết lên những vầng thơ tuyệt đẹp. Bài thơ lột tả vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng đồng thời gửi gắm bên trong tâm sự của người lãnh đạo, lo lắng tương lai và vận mệnh của đất nước.
b. Nội dung
Bài thơ Cảnh khuya được viết ở chiến khu Việt Bắc, khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với tiếng suối, trăng, cảnh khuya đẹp như vẽ… hình ảnh thơ sinh động, giàu sức biểu cảm. Tiếng suối được so sánh như tiếng hát trong trẻo, nhẹ nhàng. Trăng in bóng lên cổ thủ lồng nhau vào nhau tạo sự hài hòa, huyền ảo. Hình ảnh thiên nhiên qua cảm nhận của Bác rất đẹp và sinh động.Trên nền thiên nhiên đó là thi nhân – người chiến sĩ đang thao thức bởi Người lo lắng cho vận mệnh dân tộc.
c. Nghệ thuật:
– Vận dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
– Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, điệp từ.
– Vẻ đẹp đêm trăng vừa cổ điển mang nét đẹp hiện đại.
– Ngôn từ giản dị, trong sáng toát lên tình yêu thiên nhiên, yêu nước và sự lạc quan, yêu đời của Bác.
II. Bài Rằm tháng giêng a. Hoàn cảnh sáng tác
Rằm tháng giêng là bài thơ ra đời trong một đêm trăng rằm. Bác cùng với các cán bộ có cuộc họp quan trọng, buổi họp kết thức khi trời đã khuya, Bác cùng các cán bộ trở về bằng thuyền. Lấy cảm hứng từ đêm trăng rằm, Bác viết bài thơ để ghi lại khoảng khắc tuyệt đẹp từ thiên nhiên.
Thông tin thêm: Bài thơ được viết ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1948, giai đoạn đầu của kháng chiến chống thực dân Pháp.
b. Nội dung
Bối cảnh viết bài thơ Rằm tháng giêng rất tình cờ, khi kết thúc một cuộc họp quan trọng, Bác trở về nhà bằng thuyền, đó cũng là thời điểm đêm về khuya, Bác đã thực sự rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng rằm. Con thuyền không chỉ chở người mà còn chở đầy ánh trăng lướt đi, đó là hình ảnh vô cùng lãng mạn của nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ cũng toát lên sự ung dung, phong thái của Bác trong thời điểm khó khăn của cuộc kháng chiến.
c. Nghệ thuật:
– Bài thơ gốc viết theo thất ngôn tứ tuyệt, dịch sang thể thơ lục bát.
– Mang vẻ đẹp cổ điển đặc trưng của phương Đông như: trăng, dòng sông, con thuyền.
– Ngôn từ có sức biểu cảm cao, hàm súc.
– Kết hợp giữa miêu tả và yếu tố biểu cảm giúp bài thơ mang nét đẹ cổ điển và hiện đại.
III. Ý nghĩa của 2 bài thơ
Chiêm ngưỡng và hòa mình vào vẻ đẹp thiên nhiên đất trời nhưng không quên bày tỏ nỗi lòng của người lãnh đạo trước vận mệnh của dân tộc, đất nước.
Rằm tháng giêng
Thể hiện tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời từ thiên nhiên trong đêm trăng rằm.Bác có sự cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên và phong thái ung dung, tự tại trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.
Nội Dung Nghệ Thuật Bố Cục Của Bài Thơ Qua Đèo Ngang Lớp 7
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật Nguyễn Thị Hinh; nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn cận đại của văn học nước nhà. Bà là người huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay thuộc quận Tây Hồ), Hà Nội.
Bà Huyện Thanh Quan các tác phẩm đều viết theo chữ Nôm, thể Đường luật. Một số tác phẩm nổi tiếng của bà như:
– Qua chùa Trấn Bắc – Qua Đèo Ngang – Chiều hôm nhớ nhà – Tức cảnh chiều thu – Cảnh đền Trấn Võ
Nhận xét của chuyên gia:
GS. Dương Quảng Hàm:
Thơ Nôm của bà chủ yếu tả cảnh, tỏ tình, vừa là người có học thức nghĩ đến nhà, đến nước. Lời văn trang nhã, điêu luyện.
GS. Thanh Lãng:
Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà có sự điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ.
Tác giả bài thơ Qua đèo ngang chính là nữ thi sĩ tài giỏi Bà Huyện Thanh Quan. Tác giả sáng tác bài thơ này trong hoàn cảnh đi xa nhà vào Huế nhậm chức theo lệnh nhà vua. Khi đi qua đèo Ngang (địa giới tự nhiên nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình) dừng chân nghỉ ngơi tác giả đã viết bài thơ này.
Bài thơ bài thơ cho thấy sự hoang vắng, khung cảnh u buồn đồng thời tác giả có nhiều nỗi buồn và nhớ quê hương.
Nội dung bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan thể hiên được tâm trạng cô đơn, nỗi hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang còn là bài thơ hay cho thấy sự yêu mến non sông, đất nước của nữ thi sĩ.
Cảnh vật đèo Ngang trong buổi chiều tà đã được tác giả mô tả vô cùng hoang sơ, tiêu điều cũng đã thể hiện được nỗi buồn cô đơn, nỗi sầu nhân thế của nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Bố cục bài thơ được chia làm 4 phần như sau: Phần 1 (hai câu đề): cảnh vật Đèo Ngang qua góc nhìn chung. Phần 2 (hai câu thực): Hoạt động của con người Đèo Ngang Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng chất chứa của tác giả. Phần 3 (hai câu kết): nỗi cô đơn và trống vắng của tác giả.
Bài thơ Qua đèo Ngang được bà viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật vần trắc. Một thể thơ phổ biến trong thời điểm bấy giờ.
– Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát, tâm trạng buồn, sâu lắng.
– Tác giả sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
– Dùng nhiều các biện pháp nghệ thuật ẩn chứa bên trong như phép đối xứng, đảo trật tự cú pháp, lối chơi chữ, sử dụng các từ láy, sử dụng các từ đồng âm khác nghĩa,…rất hay.
– Dùng nghệ thuật đối: đối ý qua tâm trạng của chính tác giả: nhớ – thương; nước- nhà, đau lòng- mỏi miệng.
– Đối thanh, lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa: cuốc cuốc= quốc= đất nước, gia gia= nước nhà.
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Trong Những Nội Dung Lớn Của Văn Học Trung Đại Là Nội Dung Yêu Nước. Qua Các Sáng Tác Thơ Phú Thời Lí Trần (Vận Nước trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!