Xu Hướng 3/2023 # Mái Tóc Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên Cứu Văn Hoá # Top 7 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Mái Tóc Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên Cứu Văn Hoá # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Mái Tóc Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên Cứu Văn Hoá được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bốn cô anh lạ cả bốn biết là quen ai?

Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dài

Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang.

(B11, B là vần chữ cái, 11 là số thứ tự)

+ Chân mày vòng nguyệt có duyên

Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.

Nắm đuôi giật lại hỏi nhà chị đâu.

Ở sau đám bắp, đầu cầu ngó qua.

Tóc dài, tóc xanh, tóc mây gợn sóng, tóc đuôi gà, tốt tóc xanh non là mái tóc đẹp của người phụ nữ xưa. Mái tóc đẹp ấy được chăm sóc kĩ càng:

+ Mài dừa đạp cám cho nhanh

Ép dầu mà chải tóc anh tóc nàng

Mài dừa dưới ánh trăng vàng

Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh.

Miệng em cười có ý anh thương.

Tục ngữ rất ít khi nói về vẻ đẹp của mái tóc người phụ nữ, nhưng đã truyền lại kinh nghiệm chăm sóc tóc: ” Tốt tóc gội cỏ mần trầu, sạch đầu thì gội lá sả “. Mần trầu là thứ cỏ có hoa mọc thành bông gồm năm, bảy nhánh dài mọc tỏa tròn đều ở đầu cuống chung; sả là thứ cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm. Muốn tóc tốt thì gội bằng nước đun với cỏ mần trầu, muốn đầu thơm sạch thì dùng nước đun với lá sả.

Nói chung, tóc của phụ nữ thường dài hơn tóc nam giới. Mái tóc của cô thanh nữ đã làm biết bao chàng trai ngơ ngẩn:

Tóc đến lưng vừa chừng em bối (búi)

Trong các nước ở khu vực văn hoá Đông Á, thời phong kiến, con trai 20 tuổi, con gái 15 tuổi mới kết tóc để đội mũ hoặc để cài trâm. Lúc kết tóc ấy là vào tuổi lấy vợ lấy chồng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du (1765 – 1820) viết:

Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời.

Trong thơ ca dân gian, hơn một lần người bình dân sử dụng điển “kết tóc”:

+ Anh đố em đếm hết sao trời

Đây anh kết tóc ở đời với em

Trên trời biết mấy muôn sao

Biết dạ anh ở thế nào mà mong.

+ Bao giờ sum hiệp trước (trúc) mai

Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.

Khi xưa, lúc thề non hẹn biển, các đôi trai gái thường cắt tóc thề bồi hoặc trao cho nhau làm kỷ vật:

Lời thề nước biếc non xanh

Nhện giăng sóng dợn sao đành bỏ nhau.

+ Đã thương cắt tóc trao tay

Tha hồ én liệng nhàn (nhạn) bay mái ngoài.

Mái tóc cũng là một nội dung trong các cuộc hát đối đáp nam nữ có tính chất đùa vui:

Đàn ông tốt tóc những mang nặng đầu.

Đàn bà tốt tóc nằm liền với ma.

Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai.

Quăn quăn tóc trước là người hay ghen.

Em đi khắp bốn phương trời

Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây

Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.

Câu này trong dân ca quan họ Bắc Ninh, các nghệ nhân nói năng bao giờ cũng lịch sự, nhún nhường, bên nam xưng là em và gọi những người bên nữ là liền chị, còn bên nữ thì cũng xưng là em và gọi bên nam là liền anh.

Mái tóc của người phụ nữ quý giá như vậy, nhưng dân ta đã kể rằng, ở một nhà kia, khi bạn của chồng đến nhà, không có tiền đãi khách, người vợ đã bán mái tóc của mình để cho chồng có thể thù tiếp bạn tri âm. Người vợ hiền thảo ngày xưa đã tận tụy với chồng con như thế đấy! Người dân xưa quan niệm rằng, cái đẹp không tách rời giá trị đạo đức, người phụ nữ đẹp phải là người biết nữ công gia chánh, chuyên cần lao động, sống có đạo đức:

+ Tóc dài những búi mà trưa

Ham chi người đẹp mà thưa việc làm.

Tham người có nghĩa tham chi tóc dài.

+ Tóc dài thì tốn tiền chanh

Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ.

Nói chung, mái tóc đẹp thường gắn với tuổi trẻ còn khi tuổi già thì ” tóc bạc da mồi“, ” tóc bạc mình gày“, ” tóc bạc lưng gù“, ” tóc bạc răng long “, thí dụ:

Ai vong thiếp cũng không vong

Ôm lòng chờ đợi dầu tóc bạc răng long cũng đành.

Có nhiều câu tục ngữ, lời ca dao nếu không chịu khó tìm thì nhiều bạn trẻ ngày nay không giải thích được. Thí dụ, tại sao lại có câu tục ngữ: ” Tốt tóc nhọc cột nhà “? Ngày trước, các bà, các cô tóc dài mỗi khi gội đầu, muốn cho tóc chóng khô để quấn tóc hay vấn khăn, thường có thói quen quật mái tóc nhiều lần vào cột nhà.

Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2010

Khánh Hòa Qua Ca Dao, Tục Ngữ

Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp. Đây là bãi biển Nha Trang:

“Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo      Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh      Đêm đêm thơ thẩn một mình      Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?” (1)

Đặc biệt, ở Khánh Hòa có khu di tích Tháp Bà, thuộc phường Vĩnh Phước, TP. Nha Trang. Đây là một trong những kiến trúc đền tháp Chăm còn lại đẹp nhất hiện nay, đã được Nhà nước công nhận là di tích văn hóa quốc gia. Hàng năm cứ đến ngày 23 tháng ba (lịch trăng), lễ hội Tháp Bà được tổ chức rất lớn. Trong lễ hội, ngoài lễ tắm tượng, còn có múa quạt, múa đèn, dâng bông, hát bóng. Hiện nay dưới chân Tháp Bà còn có một làng gọi là Xóm Bóng (xóm của những người hát bóng chuyên nghiệp (2). Trước khi Nhà nước ta xếp hạng, công nhận di tích này, ca dao địa phương đã lưu giữ nó trong tâm trí nhiều người:

“Ai về xóm Bóng quê nhà

Hỏi thăm điệu múa Dâng Bà còn không?”

Nhiều địa danh thuộc tỉnh Khánh Hòa được nhắc đến trong mảng ca dao, tục ngữ nói về thời tiết:

+     Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi

       Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa.

+ “Mưa Đồng Cọ, gió Tu Hoa, cọp Ô Gà, ma Đồng Lớn” (Đồng Cọ thuộc tỉnh Phú Yên).

Trầm hương, đặc biệt là kỳ nam ở Khánh Hòa thì không đâu sánh bằng. Dân địa phương đã đúc kết kinh nghiệm phân biệt giá trị các loại kỳ nam: “Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, từ hắc”. Trong số ba tỉnh có yến sào (Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa), thì sản lượng và chất lượng của Khánh Hòa là cao nhất. Hơn một lần ca dao đã ca ngợi hai đặc sản trầm hương và yến sào của tỉnh này:

+ “Khánh Hòa là xứ Trầm Hương

 Non cao biển rộng, người thương đi về

 Yến sào mang đậm tình quê

 Sông sâu đá tạc lời thề nước non”.

 + “Khánh Hòa biển rộng non cao

 Trầm hương Vạn Giã, yến sào Nha Trang”.

 + “Tỉnh Khánh Hòa đậm đà mưa nắng

 Non chồng nghĩa nặng, nước chứa tình thâm

 Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm

 Mây xây tháp bút, trăng dầm bến ngân”.

Tỉnh Bình Định có loại nhà “mái lá”, tường bằng gạch hay bằng đất sét nện rất dày, mái nhà cũng có một lớp đất sét nện cách nhiệt, do đó mùa nắng thì mát mẻ, mùa đông lại ấm áp, còn tránh được hỏa hoạn. Tỉnh Phú Yên có đồng ruộng màu mỡ, Khánh Hòa có trâu tốt. Chỉ với hai dòng lục bát, ca dao Nam Trung bộ đã ghi nhận:

“Tiếng đồn Bình Định tốt nhà

Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hòa tốt trâu”.

Có khi ca dao tập trung phản ánh cảnh và vật của một địa phương. Nhưng cũng có khi một bài ca dao đã phản ánh hiện thực của nhiều địa phương; trong trường hợp này thật khó mà tách bạch đâu là ca dao Bình Định, đâu là ca dao Phú Yên, đâu là ca dao Khánh Hòa:

“Anh về Bình Định thăm cha

Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em”.

    Để giữ gìn non sông tươi đẹp, để bảo vệ thành quả lao động của cha ông, nhiều khi người dân đã phải cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm. Dưới hình thức hỏi đáp, ca dao Khánh Hòa đã tạc bia ghi công những người con ưu tú của tỉnh nhà.

Đầu tiên cô gái hỏi:

“Tiếng đồn anh hay chữ

Lại đây em hỏi thử

Đôi câu lịch sử Khánh Hòa

Từ ngày Tây cướp nước ta

Những ông nào đã dựng cờ khởi nghĩa,

Anh hãy nói ra cho em tường?”

Chàng trai trả lời:

Nghe lời em hỏi mà thương!

Thương người nghĩa kiệt, tơ vương vấn lòng

Vì thù non sông

Thề không đội trời chung với giặc

Từ Nam chí Bắc

Thiếu chi trang dạ sắt, gan đồng

Ở Khánh Hòa thì có ba ông

Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị

Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù

Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu

Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền”

Cô gái đâu đã “chịu thua”:

“Ba ông là bậc anh hiền

Gọi “Khánh Hòa tam kiệt”

Người người đều biết

Đều thương đều tiếc

Chưa thỏa nguyền núi sông

Tấm thân xem nhẹ như lông hồng

Hỏi anh còn nhớ “Quảng Phước tam hùng” là ai?”

Cũng may là chàng trai không phải tay vừa:

“Dám đâu quên kẻ anh tài

Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu

Gương phấn dũng làu làu Phạm Chánh

Cùng Phạm Long chung gánh nước non

Cha con trung nghĩa vẹn tròn

Cùng Nguyễn Sung nguyện mất còn có nhau

Bao phen cay đắng hận thù

Tam hùng, tam kiệt nghìn thu trăng rằm”

Người Khánh Hòa rất giàu tình cảm:

“Gió đâu bằng gió Tu Bông

Thương ai bằng: thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương con?”

Ca dao thường được sáng tác theo thể lục bát. Nói đến thể thơ này, người ta thường nghĩ đến đơn vị tế bào của nó là hai dòng: trên sáu tiếng (lục) và dưới tám tiếng (bát). Tuy nhiên, để thể hiện nội dung tình cảm phong phú, trong lời ca dao vừa dẫn, người xưa đã sử dụng hình thức lục bát biến thể. Ở hình thức này, số tiếng của dòng dưới đã được thay đổi (kéo dài thành 11 tiếng), chỉ có số tiếng của dòng trên và khuôn hình vần vẫn được giữ (Bông vần với chồng).

“Yến sào Hòn Nội

Vịt lội Ninh Hòa

Tôm hùm Bình Ba

Nai khô Diên Khánh

Cá tràu Võ Cạnh

Sò huyết Thủy Triều…

Đời anh cay đắng đã nhiều

Về đây sớm ngọt, ngon chiều với em”

    Ở bài khác, người dân không chỉ dùng thể hỗn hợp, hình thức lục bát biến thể, mà còn sử dụng các địa danh để thể hiện tình cảm tha thiết và quyết tâm chung thủy:

“Anh đứng ở Nha Trang

Trông sang xóm Bóng

Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn

Gần nhau chưa kịp nói năng

Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!

Biển sâu con cá vẫy vùng

Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư

Anh nguyền cùng em:

Bao giờ Hòn Chữ bẻ tư

Biển Nha Trang cạn nước, anh mới từ duyên em”.

Hòn Chữ là một hòn đá rất to như một ngôi nhà nằm nơi bãi sông Cù, trên có khắc chữ Chăm cổ. Các nhà khảo cổ học ngờ rằng hòn đá xưa kia nằm trên núi Tháp Bà do đất lở, lăn xuống dòng sông. Bài ca dao đang phân tích có ba cặp lục bát thì cặp thứ ba là lục bát biến thể (dòng trên sáu tiếng, dòng dưới: mười).

Thể song thất lục bát cũng có mặt trong ca dao tình yêu của Khánh Hòa:

“Đứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến

Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung

Giang Sơn cẩm tú chập chùng

Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng”

Nói đến thể song thất lục bát là nhắc đến một thể thơ mà đơn vị tế bào của nó gồm bốn dòng: hai dòng thất (mỗi dòng bảy tiếng) và một cặp lục bát. Ở bài ca dao vừa dẫn, tác giả đã sử dụng hình thức song thất lục bát biến thể (ở hai dòng thất là tám tiếng và bảy tiếng).

Qua một số bài ca dao đã phân tích, chúng ta hay bắt gặp hình thức biến thể. Hiện tượng này cho thấy hai điều. Thứ nhất, sáng tác dân gian chưa được kỳ công, tinh xảo như văn chương bác học. Văn chương bác học không có hình thức biến thể, thêm bớt số tiếng. Thứ hai, sáng tác dân gian thể hiện sự phóng khoáng hồn nhiên, không gò bó theo hình thức của người bình dân (2).

Qua ca dao, tục ngữ lưu truyền ở Khánh Hòa, chúng ta có thể cảm nhận được rằng: Nơi đây không chỉ có cảnh đẹp, thức ăn ngon, lâm sản quý, mà còn có những con người thủy chung, nồng hậu, biết trân trọng giữ gìn những gì tốt đẹp của truyền thống.

NGUYỄN XUÂN KÍNH

(1) Nam Trung bộ do Thạch Phương, Ngô Quang Hiển biên soạn, NXB KHXH, Hà Nội, 1994.

Ca Dao, Tục Ngữ Về Quảng Nam

1- Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm Rượu Hồng Ðào chưa nhấm đã say Bạn về đừng ngủ gác tay Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo

2- Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo Bình Ðịnh nằm co, Thừa Thiên ăn hết…

3- Học trò trong Quảng ra thi Thấy cô gái Huế chân đi không đành.

4- Ai đi phố Hội, Chùa Cầu Ðể thương , để nhớ, để sầu cho ai, Ðể sầu cho khách vãng lai, Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu

5- Thương nhau chớ quá e dè, Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be. Thiếp nói thì chàng phải nghe Thức khuya, dậy sớm, làm chè10 ngày 12 xu Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình, Bạn ơi, bạn chớ phiền tình, Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau Lạy trời, mưa xuống cho mau Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng

6- Rằng xa: cửa ngõ cũng xa Rằng gần: Vĩnh Ðiện, La Qua cũng gần

7- Chiều chiều mây phủ ải vân Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn

8- Chiều chiều mây phủ Sơn Trà Lòng ta thương bạn, nước mắt và trộn cơm

9- Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông Thấy nước xanh như tàu lá, Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn Thấy phố xá nghinh ngang Kể từ ngày Tây lại đất Hàn, Ðào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bồng Miêu. Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu, Ở nuôi thầy mẹ, sớm chiều cũng có anh

10- Ngó lên Hòn Kẻm, Ðá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

11- Ai đi cách trở sơn khê Nhớ tô mì Quảng, tình quê mặn mồng

12- Hội An đất hẹp, người đông Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu

13- Hội An bán gấm, bán điều Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành

-14 Chiêm Sơn là lụa mỹ miều Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ

15- Chồng em là lái buôn tiêu Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng

-16 Tơ cau thuốc lá đầy ghe Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.

17- Nem chả Hòa Vang Bánh tổ Hội An Khoai lang Tiên Ðỏa Thơm rượu Tam Kỳ Ai đi cách trở sơn khê, Nhớ tô mì Quảng,tình quê mặn nồng . Mì Quảng là món ăn chủ lực, bình dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu , mà dân Quảng ăn được tô mì Quảng thì khoái khẩu, mặn mà nhất.

18.- Hội An đất hẹp, người đông , Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu . Phố Hội an nhỏ hẹp ,nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi ,khi rời Hội an không làm sao quên được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây.

19.- Hội An bán gấm, bán điêù Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành . Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp , còn Kim Bồng,Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô , chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An.

20.- Ðưa tay hốt nhắm dăm bào, Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công, Không mai thì mốt, hồi công, Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân Kim Bồng là một xã bên kia sông, đôí diện với Hội.An,sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc,hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp,bèn hát những câu trữ tình để ghẹo chú thợ mộc.

21.- Năm hòn nằm đó không sai, Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui, Ngó về Cửa Ðại, than ôi, Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình. Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm hòn đảo, hòn Nồm là đảo nằm riêng một mình ,không chen vơí các hòn đảo khác .

22.- Sáng trăng, trải chiếu hai hàng, Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ . Quay tơ vẫn giữ mối tơ, Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh . Cảnh sinh hoạt ở thôn quê, dưới ánh trăng, chàng đọc sách, nàng quay tơ, chàng nhắn với nàng giữ tình chung thủy chờ chàng. 23.- Ai về nhắn với ngọn nguồn, Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên. Người miền biển có cá chuồn làm mắm , nguời miền núi có mít non gởi xuống để trao đổi lương thực giữa 2 miền,trong muà mưa gió .

24- Lụt nguồn trôi trái lòn bon , Cha thác, mẹ còn ,con chịu mồ côi . Mồ côi ba thứ mồ côi. Mồ côi có kẽ trâu đôi, nhà rường Lòn bon là môt loại trái cây,ngọt, sản xuất tại vùng núi huyện Ðại lộc, muà mưa lụt, nước lụt kéo trôi trái lón bon, mồ côi cha không quan trọng bằng mồ côi mẹ, vì bà mẹ biết lo cho gia đình, tuy mồ côi cha,nhưng nhờ mẹ mà nhà có trâu và nhà gỗ.

25- Trà My sông núi đượm tình, Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hoà. Trà My là một huyện miền Thượng tỉnh Quảng Nam,có cả Thượng Kinh chung sống.

26.- Quế Trà My thứ cay, thứ ngọt , Nhờ tay thợ rừng mới lọt tay anh, Phân du, bạch chỉ rành rành , Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân. Trà My là huyện chuyên sản xuất quế rừng, được các tay thợ rừng lột vỏ, cắt đoạn, và sắp xếp theo các hạng để định giá xuất khẩu.

27- Gập ghềnh Giảm thọ , Ðèo Le . Cu ngói cõng mè, cà cưỡng cõng khoai. Dốc Giảm thọ và Ðèo Le là 2 cao độ đi lên huyện lỵ Quế Sơn, trèo qua 2 đèo nầy thì chắc giảm thọ và mệt le lươĩ.

28.-Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông. Thấy nước xanh như tàu lá, Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn , Thấy phố xá nghinh ngang Kể từ ngày Tây lại đất Hàn , Ðào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu , Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu, Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh . Hàn tức là tên cũ cuả Ðà nẵng, Hà Thân là xã ở bên kia sông, Tây tức là người Pháp, sông Câu Nhí là sông do người Pháp lúc mới cai trị Ðànẵng cho đào chạy qua cầu Cẩm Lệ, chàng dặn dò người yêu cố gắng ở với cha mẹ,chờ chàng về.

29.- Kể từ đồn Nhứt kể vô, Liên Chiêủ, Thuỹ Tú, Nam Ô , xuống Hàn, Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang . Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra. Ngó lên chợ Tổng bao xa, Bước qua Phú Thượng, Ðai la, Cồn Dầøu Cẩm Sa, Chơ Vãi, Câu Lâu. Ngó lên đường cái, thấy cầu Giáp Năm. Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm , Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ .

Ðồn Nhứt là đồn gác số 1 đóng trên đèo Hải Vân và từ đó kể vào toàn là những địa danh cho đến huyện Ðiện Bàn.

31.- Thương nhau chớ quá e dè, Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be . Thiếp nói thì chàng phải nghe, Thức khuya, dậy sớm, làm che l ngày 12 xu, Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo , Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình, Bạn ơi, bạn chớ phiền tình, Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau, Lạy trời, mưa xuống cho mau. Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng 32- Quế Trà My thứ cay thứ ngọt Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh Phàn du, bạch chỉ rành rành Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân

33- Kể từ Ðồn Nhất kể vô Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xuống Hàn Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra Ngó lên chợ Tổng bao xa Bước qua Phú Thượng, Ðại La, Cồn Dầu Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp Năm Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm, Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.

34- Đá than thì ở Nông Sơn Bông Miêu vàng bạc, Quế Sơn có chè Thanh Châu buôn bán nghề ghe Thanh Hà vôi ngói, mía che Đa Hoà Phú Bông dệt lụa, dệt sa Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng

35- Nhớ cô dệt đũi chợ Chùa Rượu ngon chợ Vạn bốn mùa anh say

36- Phú Lộc ngan ngát hương thơm Ai đi đến đó chiều hôm quên về

37- Nhất Phước Kiều đám ma Nhì Thanh Hà nhà cháy

38- Ai về Chợ Vạn thì về Chợ Vạn có nghề nấu rượu, nuôi heo

39Ai về Bàu Ấu thì về Bầu Ấu có nghề đan giỏ, cào nghêu

Ai về Trà Quế mà coi Trà Quế có nghề giâm giá đậu xanh

40- Bảo An có thợ nấu đường Vừa vôi, thén khéo chẳng nhường nhịn ai

-41 Quê em có núi Ngũ Hành Có nghề khắc đá lừng danh khắp vùng.

42- Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi Thương cha nhớ mẹ thì về Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng

Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Tính Tự Lập

Share

Facebook

Twitter

Pinterest

Ca dao tục ngữ về tính tự lập

1. Muốn ăn thì lăn vào bếp

Câu tục ngữ có 2 ý nghĩa đó là khen những ngừoi nội trợ giỏi dang,hay nấu nướng,thích nấu nướng. Ý thứ 2 chê kẻ tham ăn tục uống,lúc nào cũng nghĩ đến ăn mà lại lười làm và dạy họ nếu có làm thì mới có ăn,không dưng ai dễ đem phần đến cho. Thể hiện tính tự lập.

2. Giúp lời, không ai giúp của; giúp đũa, không ai giúp cơm.

Câu tục ngữ nói về tính tự lập, với ý nghĩa chẳng ai giúp được gì hoàn thiện cho mình cả, mình tự phải nỗ lực, hay phải có đòn bẩy thì mới có thể thành công trong cuộc sống

3. Thân tự lập thân.

Câu tục ngữ này muốn nói rằng Nếu bạn muốn tự lập thân thành công thì bạn phải xây dựng, đào luyện từ trong tâm hồn,tư tưởng của mình, tự nó chính là nguồn cội xuất phát nên thái độ và hành động của bạn. Không dao động, không thể chờ đợi, không để phụ thuộc vào các điều kiện từ bên ngoài đưa tới mà hãy luôn vững tinh thần,quyết tâm đi theo con đường đã chọn.

4. Ăn đói qua ngày, ăn vay nên nợ.

5. Có thân thì lo.

Câu tục ngữ này có ý nghĩa rằng mỗi người chúng ta ai cũng sở hữu một cơ thể riêng thể hiện qua chữ “thân”, do vậy mà cần phải tự lo cho bản thân mình chứ đừng dựa dẫm vào ai, đặc biệt là người trưởng thành phải biết tự lập chứ đừng phụ thuộc vào ba mẹ, gia đình.

6.Có thân phải khổ, có khổ mới nên thân.

Trong cuộc sống trải qua đau khổ thì sau đó mới sung sướng, đều có luật nhân quả cả. Câu tục ngữ trên nói rằng phải trải qua nhiều chông gai, vấp ngã trong cuộc sống thì con người chúng ta mới có thể trưởng thành, tự lập được.

7. Hữu thân hữu khổ.

Câu trên ý nói là đã là con người phải lo lập thân, từng trải, chịu đựng mọi khó khăn và vượt qua các thử thách để thực hiện nguyện vọng, thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình.

8. Có trời cũng phải có ta.

Câu tục ngữ này có ý nghĩa là việc làm thành bại có nguyên nhân bên ngoài, quy luật khách quan ( trời) nhưng phải có nguyên hân chính ở bản thân mình.

9. Đầu người nào tóc người ấy.

Câu tục ngữ thể hiện quan điểm tự lập, ý muốn nói rằng mỗi người đều phải tự tập thì mới có thể trưởng thành. Sử dụng hình ảnh “đầu và tóc” để nói về tính tự lập.

10. Nước lã mà vã nên hồ Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.

Câu này nghĩa là: lấy nước lã mà vã được thành hồ, tay trắng mà dựng nên cơ nghiệp, như thế mới giỏi. Đại ý câu này ngợi khen người không nhờ tiền của, vốn liếng của cha ông, chỉ nhờ tài trí và sức làm việc của mình mà làm nên cơ nghiệp. Cũng có thể cho là lời khuyến khích những người không được cha ông để lại cho tư cơ, điền sản gì, nên vận dụng sức mình ra làm việc để tạo lấy cơ nghiệp.

11. Có khó mới có miếng ăn Không dưng ai dễ đem phần đến cho.

Câu ca dao này nghĩa là phải lao động cự nhọc để có cái ăn, chứ lười biếng ăn rồi ở không thì ai cho mình ăn đâu. Chữ khó trong câu này nghĩa là phải lao động vất vả cực nhọc. Câu ca dao khuyên chúng ta phải lao động để sống, bỏ đi thói lười biếng ngồi trong mát nhưng đòi ăn bát vàng.

12. Làm người ăn tối lo mai Việc mình hồ dễ để ai lo lường.

13. Đói thì đầu gối phải bò Cái chân hay chạy cái giò hay đi.

14. Giàu người ta chẳng có tham Khí thì ta liệu ta làm ta ăn.

Đây là câu tục ngữ nói về sự giàu có, nhưng người ta lại nhờ vào tính tự lập mà có được như ngày hôm này. Câu tục ngữ muốn căn dặn chúng ta hãy sống tự lập và cố gắng lao động để có được thành công.

15.Tự lực cánh sinh

Thường cha mẹ dùng lời này để khuyên con cái phải sớm tự lập, đừng quá ỷ lại. Ai đội mũ lệch, người ấy xấu. Kẻ nào làm kẻ ấy phải chịu trách nhiệm về việc làm của người ấy, không việc gì đến mình phải lo lắng

16.Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ

Qua cách nói ẩn dụ, câu tục ngữ nêu lên những hình ảnh giản dị mà gợi được ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh tay làm nói đến những con người chăm chỉ hay làm, tay quai chỉ con người lười biếng, ham chơi. Hàm và miệng giúp con người ăn uống. Hàm nhai ý nói là có ăn, là có thu nhập để sống còn tai quai miệng trễ nghĩa là nếu không chịu lao động, nếu lười biếng thì không có cái ăn, không có gì để sống, cuộc sống sẽ khổ sở, thiếu thốn.

17. Tự lực, tự cường

Câu thành ngữ này nói về tính tự tập là một trong những phẩm chất quan trọng, đáng quý của con người, mỗi chúng ta cần phải cố gắng rèn luyện cho mình những phẩm chất đạo đức, quan trọng và đáng quý.

18. Sông sâu sóng cả, chớ ngã tay chèo

Câu này có ý nghĩa là bạn phải tự tin vào bản thân mình, chủ động trong mọi việc, dám tự quyết định và hành động một cách chắc chắn, không hoang mang, dao động trước những khó khăn

19. Ta về ta tắm ao ta Dú trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Nghĩa đen của câu tục ngữ cho rằng tắm ở ao nhà mình dù nước có sạch hay bẩn vẫn cảm thấy dễ chịu, tự nhiên hơn tắm ở những ao hồ lạ. Còn nghĩa bóng thể hiện lòng tự hào, yêu mến, gắn bó với những gì thân thuộc nơi “chôn rau cắt rốn Ngoài ra trong tục ngữ này còn nói vế tính tự lập.

20. Khi ăn chẳng nhớ đến ai Đến khi chết bỏng cứ tai mà rờ!

Đây là câu ca dao về tự lập trong ăn uống. Có ý nghĩa rằng bạn keo kiệt chỉ nghỉ đến mình chẳng nhớ đến ai, thì khi có việc gì cần sự giúp đỡ thì chẳng ai giúp bạn cả. Cuộc sống là vậy “có qua có lại mới toại lòng nhau”.

21.

Ăn 1 mình đau tức Làm 1 mình cực thân.

Câu tục ngữ về tính Tự lập trong lao động, ý muốn nói rằng khi tự lập thì chắc chắn bạn sẽ phải trải qua nhiều khổ “cực thân”, nhưng khi tạo ra được thành quả, trải qua nhiều sóng gió trong cuộc sống thì bạn sẽ trưởng thành.

22. Hãy đặt tương lai vào bàn tay đáng tin cậy – bàn tay của chính bạn.

23.Hãy có trách nhiệm với cuộc đời mình. Hãy biết rằng chính bạn là người sẽ đưa bạn tới nơi bạn muốn đến chứ không phải ai khác.

24.Tôi là chính bản thân tôi. Tôi thích điều tôi thích. Tôi yêu điều tôi yêu. Tôi làm điều mình muốn làm. Tránh ra và chấp nhận đi. Đây là cuộc đời tôi, không phải của ai khác.

25. Người sáng tác chính bản thân mình thông thái hơn người sáng tác một cuốn sách.

26.Chừng nào một người vẫn còn khả năng tự làm mới bản thân, anh ta vẫn còn đang sống.

27. Chừng nào một người vẫn còn khả năng tự làm mới bản thân, anh ta vẫn còn đang sống.

28. Bạn có não trong đầu. Bạn có chân trong giày. Bạn có thể tự chỉ mình về bất cứ hướng nào bạn chọn. Bạn độc lập, và bạn biết điều mình biết. Và bạn là người quyết định mình sẽ đi đâu.

29. Tất cả những người đáng giá đều có phần tự lập trong học vấn của mình.

30. Thần linh sẽ giúp những người tự giúp mình.

31. Hạnh phúc phụ thuộc vào bản thân ta.

32. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa cho mình. Lấy người khác làm chỗ nương tựa cho mình sao được. Chính sự khéo tự chế ngự là chỗ nương tựa khó có.

33. Cuộc đời là một dòng sông. Kẻ nào không chịu học bơi sẽ bị nước nhấn chìm.

Cập nhật thông tin chi tiết về Mái Tóc Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên Cứu Văn Hoá trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!