Bạn đang xem bài viết Mạch Cảm Xúc Chính Trong Bài Thơ Nhớ Đồng Của Tố Hữu Bắt Nguồn Từ Tiếng Hò Thân Thuộc. Mạch Cảm Xúc Ấy Được Thể Hiện Như Thế Nào Trong Bài Thơ? được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!
– Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!
– Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nó là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.
Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, lúc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ấy là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Mạch Cảm Xúc Của Bài Thơ Viếng Lăng Bác Diễn Ra Như Thế Nào
Bài thơ “Viếng lăng Bác” sáng tác năm 1976 trong lần viếng lăng của nhà thơ Viễn Phương đã ghi lại tiếng lòng kính yêu, thương xót của nhà thơ với Bác.
Mở đầu bài thơ là lời của đưa con từ miền Nam ra Bắc để thăm lăng Bác.Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Tác giả xưng “con” một cách gần gũi, thân tình, mộc mạc mà giản dị đúng như bản chât con người Nam Bộ. Với một chuyến đi dài đấy những mệt nhọc nhưng khi đứng trước lăng Bác thì tình cảm kính yêu lại dào dạt lên trong lòng nhà thơ.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
“Đã thấy” gợi nên một cái nhìn một hành động tưởng chừng như đã biết trước. Cái hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam: “hàng tre xanh xanh” đang lấp ló trong làn sương mờ ảo. Tính từ “bát ngát” như choáng ngợp cái nhìn của Viễn Phương. Ông thốt lên:
“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Từ láy tính từ “xanh xanh” đã gợi nên một màn mắc non của hàng tre bao trùm tất cả. Bài màu quen thuộc như dân Việt Nam, hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” hình ẩn dụ “hàng tre” chính là biểu tượng cho tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, mãnh liệt, sự kiên cường, bất khuất không gục ngã trước mọi thứ khó khăn thử thách của cả dân tộc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực, ẩn dụ, sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
“Mặt trời” ở câu đầu là hình ảnh mặt trời thực ơ mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng, là nguồn sáng đối với vạn vật. “Mặt trời” thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu. Bác là mặt trời cách mạng, soi đường chỉ lối, dẫn dắt dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp người lầm than, mở ra một tương lai tươi sáng. Bác như nguồn sáng rực rỡ không bao giờ tắt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bác được so sánh với mặt trời là thiên thể vĩ đại của vũ trụ, tạo nên sự vĩ đại, ấm áp, tỏa sáng từ trái tim yêu nước thương dân của Bác. Đó cũng là lòng thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: đoàn người vào lăng thăm Bác trong mỗi xúc động, bùi ngùi, tiếc thương vô hạn.
Dòng người đó được tác giả liên tưởng để “tràng hoa” cũng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Cuộc đời của họ cũng như bông hoa nở dưới ánh sáng mặt trời rực rõ. “Bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. con người bảy mwoi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời như mùa xuân góp vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Bằng điệp từ “ngày ngày” tác giả đã diễn đạt sự đều đặn của biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn cứ lặng lẽ, lần lượt vào lăng viếng Bác.
Khi đứng trước linh cữu Người, miềm biết ơn thành kính đã chuyển sang xúc động, nghẹn ngào.
Bác đang nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản trong ánh sáng dịu hiền. Cả cuộc đời Bác lúc nào cũng lo nghĩ cho đất nước có bao giờ yên. Bác ngủ yên giữa đây, khi miền Nam được giải phóng, Bác mới có thể yên lòng, thanh thản nghỉ ngơi. Hai câu thơ sử dụng cách nói giảm nói tránh để thể hiện sự xúc động, dâng trào của nhà thơ Viễn Phương.
Nhưng mặc dù biết Bác vẫn sáng mãi trong lòng của dân tộc, nhà thơ vẫn phải chấp nhận một cái sự thật là bác đã ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”
“Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự vĩnh hằng, cũng như Bác vậy luôn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân, người con yêu nước.
Thế nhưng tác giả vẫn đau xót “nghe nhói ở trong tim” đó là tấm lòng xót thương đến quặn lòng của nhà thơ đứng trước linh cữu Bác. Đoạn cuối là ước nguyện của nhà thơ trước khi phải rời xa lăng Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, rời xa lăng Bắc, tạm biệt miền Bắc nhà thơ không khỏi bùi ngùi, xúc động, tiếc thương “thương trào nước mắt”.
Điệp từ “muốn làm” thể hiện cái ước nguyện nho nhỏ của nhà thơ: chỉ muốn làm con chim để ngày ngày hót ca cho giấc ngủ của Bác, muốn làm một đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, muốn làm một cây tre trung hiếu để đứng canh giấc ngủ nghìn thu của Bác.
Mạch của xúc của bài thwo rất ổn định, tự nhiên cùng nhịp điệu sâu lắng, hài hòa đã tạo nên sự thành công của bài thơ.
Cảm xúc của nhà thơ cũng là cảm xúc của người con đất Việt dành cho Bác với sự tôm kính, yêu thương, đau xót khi vào thăm lăng, đứng trước linh cữu của Người.
Với chúng ta Bác sẽ luôn tồn tại trong trái tim, mãi là nguồn sáng vĩnh cửu soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quàn để sánh vai với các cường quốc năm châu”
Mạch Cảm Xúc Quê Hương
Sinh ra và lớn lên ở xã Sơn Nam (Sơn Dương), ông được bà con gọi với cái tên thân mật là thầy giáo Việt. Ông từng là giáo viên dạy văn được nhiều thế hệ học trò yêu quý bởi tính cách hiền hòa và sự nhiệt thành trong công việc. Ông cũng đảm nhiệm các chức vụ Phó Hiệu trưởng, Hiệu trưởng ở các trường như: Trường Tiểu học và THCS Tân Trào, Trường THCS Thiện Kế, Trường Tiểu học và THCS Đại Phú, Trường THCS Ninh Lai… Trần Xuân Việt bắt đầu tham gia sáng tác và được đăng thơ trên báo địa phương từ năm 25 tuổi, thế nhưng khi về nghỉ hưu ông mới thực sự chuyên tâm hoạt động nghệ thuật. Với thơ, Trần Xuân Việt khá tỷ mỉ. Những rung cảm về mảnh đất, con người xứ Tuyên chứa đựng nhiều tầng, nhiều lớp cảm xúc: “Nắng cháy đỏ một khoảng trời mùa hạ/Nước cuộn dâng chát mặn vị phù sa/Mồ hôi thấm hòa trong dòng nước mát” hay “Làng quê mình cứ trẻ mãi ra/Dải lụa xanh dòng sông Phó Đáy/Thác Nóng vào xuân, hòa cùng dòng chảy/Một miền quê náo nức thanh bình” (Chảy cùng thác Nóng).
Nhà thơ Trần Xuân Việt cùng gia đình.
Thời trai trẻ, ông từng có một thời gian dài công tác tại Nà Hang. Qua con mắt thi sỹ, miền non nước Nà Hang hiện lên thật thân quen, gần gũi. Chỉ vài nét phác họa khung cảnh quê hương được điểm xuyết rất tinh tế, các bài thơ Xuân Na Hang, Rượu ngô Na Hang, Chuyện của tôi như lời mời gọi tha thiết: “Mênh mông nước/Bạt ngàn rừng xanh biếc/Núi bỗng lùn/Thác Bạc ngừng trôi/Chú Khách nàng Tiên soi gương duyên dáng…/Hồ lung linh/Như Vịnh Hạ Long” (Vịnh Hạ Long trên núi).
Mỗi địa danh ông đi qua đều đọng lại nhiều cảm xúc để rồi khắc khoải trong những trang thơ. Về với Nà Hang là về với đặc sản rượu ngô men lá và cách người thi sỹ cảm nhận đầy thi vị: “Ở một vùng quê xứ sở của đầu nguồn/Nước trong vắt chảy ra từ lòng đá/Ngô của núi mọc lên từ mùn lá/Chõ gỗ, men rừng thơm nước quê hương” (Rượu ngô Na Hang). Thơ Trần Xuân Việt có giọng điệu và ngôn ngữ rất riêng. Một thứ ngôn ngữ thơ giản dị nhưng đầy ám ảnh được dồn nén.
Mạch cảm xúc về quê hương cứ dạt dào qua những rung động của hình bóng thân quen. Người yêu thơ ấn tượng với tác phẩm Mùa gặt qua hai hình tượng nghệ thuật độc đáo “bông lúa hình vòng cung” và “lưng mẹ”. Hòa vào niềm vui của người nông dân, tác giả lại lặng lẽ nghĩ đến sự vất vả của người mẹ mỗi khi mùa gặt về. Như thân cò lặn lội sớm khuya, tất bật với việc đồng áng dáng còng lưng mẹ tựa như hình bông lúa trĩu hạt. Một sự so sánh đầy tính nghệ thuật thể hiện sự cảm quan tinh tế của tác giả: “Bông lúa hình vòng cung/Giống như hình lưng mẹ/Địu em từ tấm bé/Địu gùi mẹ lên nương”.
Thi ca là ngọn nguồn, là tiếng lòng tâm tình sâu kín của những kẻ đa sầu đa cảm. Đối với Trần Xuân Việt, mỗi bài thơ là một lời chiêm nghiệm: “Nhọc nhằn lên những chồi xanh/Đất bạc màu đã hóa thành trái thơm/Mồ hôi mặn chát bát cơm/Nuôi người từ những cọng rơm cần cù” (Hương của đất).
Nhiều người nhận xét, thơ Trần Xuân Việt không quá đặc sắc với những ngôn từ mĩ miều, mà thơ ông thật nhẹ nhàng, giản dị tựa như tiếng lòng tuôn chảy. Trần Xuân Việt đến với thơ bằng tình yêu, bằng cảm xúc mãnh liệt, đó là điều độc giả luôn trân trọng ở ông.
Nét Hiện Đại Và Vẻ Đẹp Truyền Thống Trong Tình Yêu Được Thể Hiện Như Thế Nào Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh
Tình yêu là đề tài muôn thuở trong thơ ca. Mỗi người đều có cách cảm nhận riêng về tình yêu nhưng đều xuất phát từ tình yêu chân chính, mong ước khát vọng tình yêu rộng lớn. ” Sóng” của Xuân Quỳnh cũng diễn tả khao khát tình yêu theo cách riêng của mình.
Xuân Quỳnh đã kết hợp nét hiện đại và vẻ đẹp truyền trong tình yêu. Ai cũng biết khi yêu người ta thường sống trọn trong tình yêu của mình đặc biệt là người con gái, những dư vị trong tình yêu mang đến cảm xúc tha thiết, nồng đượm trong tình yêu. Nét truyền thống của người phụ nữ khi đang yêu khao khát tình yêu – đó là tình yêu chân chính, trong sáng, vô cùng giản dị và lòng thủy chung sâu sắc:
” Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Lúc nào, dù ở đâu nhân vật trữ tình vẫn hướng về tình yêu của mình, tình yêu của người con gái nhẹ nhàng, nồng thắm và rất giàu nữ tính. Nhưng ta cảm nhận được tâm tư tình cảm của người phụ nữ được ẩn mình dưới hình tượng Sóng – đây là nét thơ độc đáo và vô cùng đặc sắc.Với thời của Xuân Quỳnh khi yêu dám bộc lộ tình cảm của mình đặc biệt với người phụ nữ quả là điều khó khăn nhưng với niềm khao khát tình yêu của mình, Xuân Quỳnh đã bộc lộ ý thơ để diễn tả trực tiếp cảm xúc, tâm tư của mình qua: nỗi nhớ, qua niềm tin tuyệt đối vào tình yêu. Đây có thể xem là nét phá cách trong tâm hồn của nữ thi sĩ và là nét hiện đại được tác giả thể hiện trong bài ” Sóng”.
Sự kết hợp nét truyền thống và hiện đại được nữ thi sĩ kết hợp rất sáng tạo, nhuần nhuyễn vừa có sự nhẹ nhàng, nữ tính trong tình yêu nhưng cũng vô cùng mãnh liệt, mạnh mẽ khi được sống trong tình yêu. Điều này đã tạo ra nét độc đáo cho bài thơ.
Mẫu Văn Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu Giàu Cảm Xúc
Mẫu văn phân tích khổ 1 bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu giàu cảm xúc
Khổ 1 bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu dẫn dắt chúng ta vào một thế giới có Đảng dẫn đường, một thế giới với lý tưởng mới mà người thanh niên vừa được giác ngộ.
Tác giả đã dùng những biện pháp nghệ thuật trong đoạn thơ khiến đoạn thơ bừng lên sức sống mới đầy mãnh liệt, đầy say mê…
Bài 1. Bài văn của em Dương Thị Hạnh đã phân tích khổ 1 bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu:
Viết về lí tưởng cách mạng, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu đã trở thành câu ca, tiếng hát của hàng triệu con người hơn nửa thế kỉ nay. Giọng thơ sôi nổi, say mê, trẻ trung và yêu đời tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. “Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên cộng sản thể hiện một tình yêu lớn: yêu lí tưởng cách mạng và yêu giai cấp cần lao.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Nhà thơ là đứa con của “Huế đẹp và thơ”. Ông sinh ra và lớn lên trong đêm trường nô lệ “Nước mất nhà tan, đời khổ thế!”. Trưởng thành trong phong trào yêu nước của thanh niên học sinh, nhà thơ nhiệt thành đi tìm đường cứu nước: “Con lớn lên con tìm Cách mạng”. Và trong đêm dày nô lệ, nhà thơ cảm thấy tâm hồn “bừng nắng hạ” kể từ ấy:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim”.
“Từ ấy” là thời điểm (1938) nhà thơ được giác ngộ cách mạng, bắt gặp lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ về lí tưởng cách mạng, về chủ nghĩa Mác – Lênin. Chữ “chói” (chói qua tim) nghĩa là chói lọi, soi vào, chiếu vào. Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin vô cùng chói lọi đã chiếu vào, soi vào trái tim – tâm hồn yêu nước của nhà thơ trẻ.
Bóng tối đêm dày nô lệ như bị xua tan, người chiến sĩ cách mạng cảm thấy cuộc đời mình, con đường mình hướng tới “bừng nắng hạ”. Đây là hai câu thơ đẹp nhất của Tố Hữu viết về lí tưởng cách mạng. Ngôn từ (bừng, chói), hình ảnh (mặt trời chân lí) rất hay, rất sáng tạo. Lúc nào đọc, ta vẫn cảm thấy mới mẻ, vần thơ tràn ngập ánh sáng và niềm tin.
Hai câu thờ 3, 4 tiếp theo nói về “hồn tôi” từ thuở ấy, từ khi “bừng nắng hạ”:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Nhà thơ sử dụng một so sánh đặc biệt: “Hồn tôi là một vườn hoa lá”… Ngôi vườn ấy xanh màu xanh của lá, rực rỡ của sắc hoa, “rất đậm hương” ngào ngạt. Ngôi vườn đẹp tươi ấy “rộn tiếng chim” hót nghe rất vui. Các từ gợi tả: “đậm”, “rộn” thể hiện sức sống và vẻ đẹp của vườn hoa lá, của “hồn tôi” từ khi có chủ nghĩa Mác – Lênin, có “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Hai câu thơ nói lên tác dụng kì diệu của lí tưởng cách mạng qua một không gian nghệ thuật kì diệu nên thơ.
Tố Hữu yêu nước, yêu chủ nghĩa Mác – Lênin mới có cách nói hay, rất hình tượng về lí tưởng cách mạng. “Mặt trời chân lí” và “vườn hoa lá…” là hai hình tượng rất đẹp, rất thơ. Các từ ngữ: “từ ấy”, “bừng”. “chói”, “đậm”, “rộn” – được chọn lọc tinh tế làm cho vần thơ cất cánh trong tâm hồn chúng ta.
Bài 2. Bài văn của em Hoàng Kim Ngân đã phân tích khổ 1 bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu:
Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một trong những nhà thơ có một vị trí đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, nhà thơ luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và con đường cách mạng luôn song hành với con đường thơ ca. Nổi bật lên là bài thơ “Từ Ấy” in trong tập thơ cùng tên ” Từ Ấy ” – là bài thơ đầu tiên mở đầu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị ở những chặng thơ đầu tiên của nhà thơ.
Đi vào giải thích câu nói : Nói thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị có nghĩa là những sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn với Đất Nước, với cá nhân, làm thay đổi cả một đời người đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ Tố Hữu. cái chất trữ tình cùng cảm xúc chân thành của nhà thơ quyện vào nhau, làm nên những vần thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Cách Mạng.
Bài thơ ” Từ Ấy” là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng ấy đã làm nên sự thay đổi kì diệu về nhận thức, lí tưởng của một hồn thơ thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân..
Đến với khổ thơ mở đầu, ta bắt gặp cảm xúc vui sướng, hạnh phúc, say mê của hồn thơ Tố Hữu khi lần đầu tiên bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Một nguồn cảm xúc thiêng liêng và chân thành xuất phát từ chính trái tim của nhà thơ. Đây cũng là xúc cảm tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”
Ngay từ câu thơ mở đầu đã bắt gặp hình ảnh ” Từ Ấy ” đã đem lại sự ấn tượng và khẳng định một lần nữa khoảng time mà nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng. Nói lên cảm xúc của mình trước những giây phút thiêng liêng như thế, nhà thơ sử dụng các thử pháp nghệ thuật : so sánh, ẩn dụ và nhân hoá.. hình ảnh ” nắng hạ ” cho ta thấy được một cái ánh nắng chói chang gay gắt của buổi trưa hè. Khác với nhiều nhà thơ khác luôn tìm đến ánh trăng, tới cái ánh nắng của buồi chiều sa thì Tố Hữu tìm đến cái nắng của mùa hạ. Đúng vậy, cũng chỉ có ánh nắng ấy mới toả được sự chói chang rực rỡ của lí tưởng cách mạng, mới diễn tả được hết sự sửng sốt và choáng váng của nhà thơ khi đứng trước cái lí tưởng rực rỡ như thế.Soi tỏ vào bài thơ này ta mới thấy hết được nguồn cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước ánh sáng huy hoàng của chân lý.
” Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng Ta đi tới chỉ một đường cách mạng ”
Và dường như như thế chưa đủ để nói lên sự toả sáng của ” lí tưởng cách mạng ” nhà thơ lại tìm đến hình ảnh ” Mặt trời chân lí “, đó chính là biểu tượng cho lí tưởng mà nhà thơ theo đuổi. Hình ảnh mặt trời biểu hiện cho sự ấm nóng, rực rỡ và là nguồn sáng bất diệt. Đúng vậy, lí tưởng ấy đâu phải chí toả sáng trong phút chốc mà sẽ toả sáng bất diệt, là nguồn sáng vĩnh cửu, không gì có thể dập tắt nổi. Tố Hữu gọi lí tưởng cách mạng là mặt trời chân lí bởi đó chính là nguồn sáng dẫn đường cho cuộc đời đã từng tối tăm, mù mịt của nhà thơ khi ” băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời “… Mặt trời chân lý ấy ” chói ” qua tim người nghệ sĩ . hình ảnh trái tim là nơi chứa đựng biết bao tình cảm , cảm xúc, là nơi kết hợp giữa tâm lí và ý thức trí tuệ ” mặt trời chân lí chói qua tim giống như xuyên rọi qua tất cả những tình cảm, lí tưởng của nhà thơ và cũng chỉ khi được ánh sáng ấy chiếu rọi nhà thơ mới thực sự hành động đúng, mới cảm thấy được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Chính ánh sáng chói chang rực rỡ ấy đã làm thay đổi cuộc đời, thay đổi cả tình cảm của nhà thơ:
“Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
Cảm Xúc Của Trong Bài Thơ Khi Con Tu Hú Của Tố Hữu
Tố Hữu là một con chim đầu đàn của nền thơ ca Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thơ Tố Hữu tràn đầy lý tưởng sống cao đẹp đồng thời thể hiện tinh thần sáng tạo không mệt mỏi trên bước đường nghệ thuật. Chính vì vậy, bài thơ Khi con tu hú trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu-đã có sức cuốn hút độc giả yêu thơ, say thơ, một cách mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là những âm thanh sống động, mở ra một không gian tươi đẹp, thoáng đãng:
“Khi con tu hú gọi bầy”
Trong thi ca Việt Nam, mỗi loài chim kêu, mỗi loài hoa nở, … báo hiệu một mùa khác nhau. Tiếng chim cuốc kêu trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu mùa xuân đã muộn. Tiếng chim quyên nô nức gọi hè dưới trăng thanh trong thơ Nguyễn Du,…. Riêng Tố Hữu, tiếng chim tu hú đi vào thơ khắc khoải báo hiệu mùa hạ đã bước sang. Tiếng chim làm sống dậy những ngày tự do, êm đềm, hạnh phúc. Thuở ấy, Tố Hữu hãy còn bên ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Phải là một trái tim nhạy cảm, rạt rào nhựa sống mới có được cái nghiêng tai tinh tế như thế giữa bốn bức tường hôi hám, chật hẹp, tối tăm,…Tố Hữu hay lắng nghe những âm thanh của cuộc sống đời thường:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghé chim reo trong gió mạnh lên triều Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ”.
(Tâm tư trong tù)
Có thể nói, từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu đã lắng đọng lòng mình, tập hợp các giác quan và tài năng của người nghệ sĩ để vẽ lên
một bức tranh thiên nhiên mùa hè của miền Trung thân yêu:
“Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”.
Đây là một bức tranh lóng lánh sắc màu: màu vàng óng ả của lúa chín; màu vàng tươi roi rói của hoa quả; màu xanh dịu mát của khu vườn nhiều cây; màu vàng đặc trưng của bắp; màu nắng; màu xanh bao la của da trời. Như vậy hai gam màu vàng và xanh đã tô điểm cho bức tranh thơ thêm những đường nét mỹ miều, rực rỡ, đậm chất đồng quê. Bên cạnh đó, có thanh âm của tiếng ve rộn ràng lảnh lót. Tiếng ve ngân là đặc trưng của mùa hè. Các chú ve dạo bản đồng ca chào đón đức vua mùa hạ đến ngự trị. Nếu thiếu tiếng ve thì nét sinh động, nhộn nhịp của bức tranh thơ giảm đi nhiều lắm. Hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không” là nét chấm phá độc đáo làm cho cuộc sống nơi thôn quê trở nên có hồn và thi vị hơn. Nhà thơ lấy cái hữu hạn (con diều sáo) đế biểu thị cái vô hạn (từng không). Không gian của bức tranh thơ được mỏ’ ra thoáng đãng và tiến tới vô tận.
Nhà thơ đang đối diện với bốn bức tường nóng bức ngột ngạt:
“Ta nghe hè dậy bền lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! (câu 8)
Ngột làm sao, chết uất thôi (câu 9)
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”.
Từ “dậy” trong tiếng Việt, theo Từ điển của Nguyễn Văn Xô có ba nghĩa chính: cất mình lên; nổi lên; vang ầm. Chúng ta có thể hiểu mùa hè đã nổi lên trong lòng nhà thơ ở đỉnh điểm. Hòa với nhịp thơ ỏ’ câu 8 là 6/2; ở câu 6 là 3/3 gợi cảm giác phẫn uất, bực bội, căng thẳng tột độ của hệ thống thần kinh trung ương đồng thời cũng thể hiện được sức mạnh và ý chí anh hùng của tuổi trẻ. Bởi thế, Tản Đà nói: “Tài cao phận thấp chí khí uất”. Điều đó cũng không sai đối với Tô” Hữu. Riêng câu thơ “Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi” gợi cho chúng ta nhớ tâm trạng của Nguyễn Hữu cầu:
“Bay thẳng cánh muôn trùng Tiều, Hán Phá vòng vây bạn với kim ó”.
Phải chăng giữa Nguyễn Hữu cầu và Tố Hữu có cùng chung một ước vọng anh hùng của đấng nam nhi? Tiếng kêu “Ngột làm sao, chết uất thôi” của Tố Hữu cũng là một tiếng kêu xé lòng của một lớp thanh niên ham sống, đầy nhiệt huyết, mong muốn đối đời của xã hội ta lúc ấy.
Cả bài thơ, Tố Hữu không nhắc đến chữ “tự do” nào nhưng qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, chúng ta hiểu được nhà thơ nhận biết cái tất yếu đến tầng bậc nào rồi bởi lẽ “Tự do là nhận biết được cải tất yếu” (Các-Mác).
Bài thơ khép lại theo lối “đầu cuối tương ứng”. Nếu câu mỏ’ đầu gợi tiếng chim tu hú khỏe khoắn mời gọi hè thì câu kết thúc tiếng chim tu hú kêu hoài, kêu mãi giữa bầu trời mênh mông như “tiếng gọi hối thúc của thực tại”. Cái kết cấu ấy làm day dứt, xốn xang cõi lòng người đọc.
Tóm lại, Khi con tu hú là một bài thơ hay, lời lẽ mộc mạc, bình dị, dễ hiểu, câu chữ ít nhưng cô đọng, hàm súc. Bức tranh tả cảnh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng hiện lên rất cân xứng. Kết hợp với thể thơ cổ truyền của dân tộc uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã để lại sức rung, sức gợi sâu xa, bền bỉ trong lòng những độc giả yêu thơ, say thơ suốt mấy mươi năm qua.
Cập nhật thông tin chi tiết về Mạch Cảm Xúc Chính Trong Bài Thơ Nhớ Đồng Của Tố Hữu Bắt Nguồn Từ Tiếng Hò Thân Thuộc. Mạch Cảm Xúc Ấy Được Thể Hiện Như Thế Nào Trong Bài Thơ? trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!