Bạn đang xem bài viết Làm Sáng Tỏ Nhận Định: Vào Thơ Hay, Dù Là Điệu Kiên Cường Hay Làn Êm Ái Đều Là Vào Thế Giới Của Cái Đẹp” được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong cuốn “Đến với thơ hay”, Lê Chí Viễn cho rằng: “ Vào thơ hay, dù là điệu kiên cường hay làn êm ái đều là vào thế giới của cái đẹp”
Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên. Hãy làm sáng tỏ “thế giới của cái đẹp” trong tác phẩm “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du.
* Gợi ý làm bài:
* Giải thích nhận định:– Thơ hay: hiểu chung là chỉnh thể thẩm mĩ, có khả năng khơi gợi ở người đọc những rung động thẩm mĩ, góp phần hoàn thiện con người, nâng con người lên…
– Điệu kiên cường hay làn êm ái: nội dung muôn màu muôn vẻ, phong phú vô cùng của thơ ca, “kiên cường”: thơ nói chí, tỏ lòng, trào phúng hay “làn êm ái”: thơ trữ tình, thơ lãng mạn.
– Thế giới của cái đẹp: “cái đẹp” là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện ở nhiều phương diện: vẻ đẹp của tâm hồn, tấm lòng, tài năng người nghệ sĩ, cái đẹp toát lên từ nội dung và hình thức của thơ, cái đẹp khơi gợi những rung động thẩm mĩ, bồi đắp tâm hồn con người.
⇒ Cả nhận định: Khẳng định giá trị thẩm mĩ của thơ ca.
* Bàn luận:Ý kiến đúng đắn vì:
– Đối tượng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng là đối tượng thẩm mĩ, được khám phá ở chiều sâu thẩm mĩ (mỗi hiện tượng của đời sống bước vào thơ đều được nhìn, được miêu tả dưới góc độ thẩm mĩ – VD: con đường đi vào thơ Xuân Diệu “nhỏ nhỏ xiêu xiêu” của một chiều thu…)
– Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc thăng hoa mãnh liệt, được ý thức nhưng đó cũng là những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ giàu chất nhân văn (niềm vui, nỗi buồn, khát khao, phẫn nộ …đều phải mang tính thẩm mĩ. VD: nỗi căm giận của con hổ trong vườn bách thú trong thơ Thế Lữ, nỗi buồn khi đứng trước cảnh sông nước trong thơ Huy Cận…)
– Thơ hay thực hiện được mục đích thiên chức của người nghệ sĩ là hướng con người tới chân, thiện, mĩ; nâng con người lên, làm cho lòng người phong phú thanh sạch hơn, khiến con người sống đẹp hơn, nhân văn hơn.
– Tiếp nhận văn học, trong đó có việc tiếp nhận thơ và thơ hay thực chất là tiếp nhận thẩm mĩ, lấy cái trong trẻo, tinh tế và tri âm mà cảm nhận, không bao giờ chấp nhận cái vụ lợi tầm thường, lấy hồn ta để hiểu hồn người.
* Chứng minh :
Cần làm rõ bài thơ “Đọc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du là “thế giới của cái đẹp”:
– Cái đẹp của cảnh vật, con người được miêu tả.
– Cái đẹp của tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ
– Cái đẹp trong cấu tứ, cách cảm, cách nói, cách dùng từ ngữ…
– Cái đẹp ở khả năng gợi lên những rung cảm thẩm mĩ, khơi luyện những tình cảm thẩm mĩ trong lòng người đọc.
– Dẫn chứng mở rộng: Những tác phẩm khác của Nguyễn Du và tác phẩm của những nhà thơ khác như Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Đình Chiểu…
* Đánh giá:
– Thơ ca là thế giới của cái đẹp, đó chính là đặc trưng thẩm mĩ của thơ ca, cũng là nội dung mục đích của văn học nói chung: văn học cần hướng đến khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp con người cuộc sống, nhà thơ, nhà văn cũng cần viết về những điều tốt đẹp để khơi gợi tình yêu, lòng lạc quan cho người đọc.
– Không phải thơ ca lúc nào cũng miêu tả cái đẹp. Thơ ca có quyền miêu tả những cái xấu xa, độc ác, để sự thật cuộc đời được chân thực hơn.
– Nhà thơ phải là người sống sâu sắc, tinh tế để cảm xúc thăng hoa trên trang thơ, người đọc cũng cần rung động và hiểu đời, hiểu người để cảm nhận hết được thế giới cái đẹp mà nhà thơ miêu tả và muốn hướng tới.
Mở bài:
“Thơ đưa con người đến với cái đẹp”. Cái đẹp của muôn loài và vạn vật, cái đẹp của cuộc sống con người. Đến với cái đẹp của lòng đồng cảm và vị tha, của những phẩm chất nhân văn là đáng quý. Cái đẹp đó dù với cảm xúc mãnh liệt hay nhẹ nhàng, êm đềm cũng đều để lại cho người đọc những trăn trở, suy nghĩ và bâng khuâng. Bàn về thơ hay, trong “đến với thơ hay” Lê Chí Viễn đã cho rằng “Vào thơ hay, dù là điệu kiên cường hay làn êm ái đều là vào thế giới của cái đẹp”. “Cái đẹp” đó đã được thể hiện sâu sắc qua bài thơ “Độc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du.
Thân bài:
Ý kiến của Lê Chí Viễn đã để lại cho người đọc nhiều băn khoăn và trăn trở, suy nghĩ. “Thơ” là những sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tình cảm, cảm xúc mãnh liệt thông qua ngôn từ cô đọng, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Một bài “ thơ hay” là một bài thơ phải sử dụng ngôn ngữ tinh vi và đặc sắc, hình ảnh gợi cảm, hàm xúc và đa nghĩa; một bài thơ xuất phát từ chính tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ, là bài thơ đã kiến người đọc đồng cảm với chính tác giả, thấu hiểu triết lý, hiện thực cả một tầng lớp, một giai đoạn dân tộc.
“Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng lư). Hay nói cách khác một bài “thơ hay” là bài thơ phải kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp đăc sắc nghệ thuật. “điệu kiên cường” và “làn êm ái” là những dọng điệu, tình cảm và cảm súc của tác giả gửi gắm trong bài thơ, một bài thơ hay, là chiếc cầu nối đồng điệu giữa tâm hồn độc giả với tiếng nói trái tim của người nghệ sĩ. Để rồi, qua đó, người đọc bước vào “thế giới của cái đẹp”, cái đẹp về tư tưởng, tình cảm, cái đẹp về nội dung và hình thức nghệ thuật được tác giả gửi gắm qua bài thơ. Có thể thấy, ý kiến của Lê Chí Viễn đã xuất phát từ đặc trưng và giá trị thẩm mĩ của thơ ca, tác động sâu sắc vào suy nghĩ và cách nhìn nhận của độc giả khi đến với vẻ đẹp tinh tế, đặc sắc của văn chương muôn đời.
Một “bài thơ hay” là bài thơ của tiếng nói tình cảm và tâm hồn của những triết lý nhân sinh và sâu sắc. Những gì đã đi vào trong thơ đều là những trăn trở, suy nghĩ chân thành, là những ấn tượng đặc sắc về thế giới quan của tác giả. Nó phải mạnh mẽ, thăng hoa và mãnh liệt đến nỗi nếu không bộc lộ, người nghệ sĩ sẽ trăn trở và băn khoăn, day dứt. Bởi vậy thế giới của cái đẹp mà nhà thơ sáng tạo lên không đơn thuần là hiện thực cuộc sống bàng quang và vô vị, mặt khác, thế giới đó phải là hình ảnh khách quan trong thế giới chủ quan, nghĩa là phải mang những cảm xúc mãnh liệt, những chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả.
Cái đẹp đó phải khiến độc giả phải đồng điệu trong từng tâm trạng, từng nhịp đập với nhà thơ. “Thế giới của cái đẹp” trong một bài thơ hay được kết nối đến người đọc qua những “điệu kiên cường”, là tình cảm mãnh liệt, lên án và phê phán đanh thép của tác giả, qua những “làn êm ái”, là sự vị tha, đồng cảm, tri tâm, là giọng thơ khắc khoải, ưu sầu của chính tâm hồn người nghệ sĩ. Bởi vậy, một bài “thơ hay” dù xuất phát hay thể hiện bằng bất kỳ ngôn ngữ hay giọng điệu nào để hướng người đọc đến cái đẹp, để cảm nhận “thế giới của cái đẹp”, nét đẹp về nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
Nguyễn Du đã đưa người đọc đến với cái đẹp về nội dung bài thơ, cái đẹp của lòng đồng cảm và tri ân, cái đẹp của sự nhân đạo và xót xa cho bao kiếp người bạc mệnh.
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.
Tây Hồ là hình ảnh cụ thể, một địa danh có thật, tuyệt đẹp xuất hiện trong bài nhưng nay đã hoá thành gò hoang, trống vắng và hoang tàn. Từ hình ảnh cụ thể đó nhà thơ đã liên tưởng đến sự thay đổi khắc nghiệt của cuộc đời con người. Sự thay đổi giữa cảnh đẹp nay thành gò hoang, giữa hiện tại và quá khứ, giữa vẻ đẹp chỉ còn trong hoài niệm mà nay đã biến mất rồi. Để từ đó là sự thay đổi trong cuộc đời nàng Tiểu Thanh. Từ một người con gái nhan sắc đẹp đẽ, tài năng tuyệt diệu mà nay chỉ còn là một nấm mồ. Nàng chết trong cô đơn và lẻ loi, để lại những ước mơ và thanh xuân tươi đep. Một cuộc đời, một con người tài hoa mà bạc mệnh.
“Tẫn” là sự huỷ diệt, đổi thay đến triệt để và tận cùng của thời gian. Để từ đó nêu ra sự thay đổi đến khắc nghiệt của cuộc đời. Dường như trong câu thơ, người đọc vẫn bắt gặp sự ngậm ngùi, xót xa của Nguyễn Du cho người con gái, cho một số phận bạc mệnh, đắng cay. Qua đó, tấm lòng của Nguyễn Du đã được thể hiện qua tâm thế tri ân cùng nàng. Nhà thơ nhớ người xưa trong khung cảnh “độc điến”, một mình ngắm nàng. Hình ảnh đó như kéo ngắn lại không gian và thời gian, cho hai con người sống ở hai giai đoạn khác nhau cùng đồng cảm và tri ân. Hình ảnh đó là sự xót xa, là niềm cay đắng cho kiếp tài tử phong lưu, là tìm được một người bạn cùng thuyền, cùng sẻ chia và cùng tâm sự. Cái đẹp về nhân cách của tác giả chính là biểu hiện ở chỗ đó.
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.
Hai câu thơ đã sử dụng nghệ thuật đối, làm lớp nghĩa được xét đa chiều suy nghĩ khác nhau. Son phấn có thần nên khi đốt vẫn ngậm ngùi, xót xa; văn chương không mệnh nhưng đốt vẫn để lại cho lòng người nhiều cay đắng. “Son phấn” là vẻ đẹp về nhan sắc, ngoại hình. “văn chương” là vẻ đẹp về tài năng và trí tuệ. “Son phấn” hay “văn chương” dù khi đã đốt vẫn để lại xót xa cho hậu thế. Là vẻ đẹp về tài năng và nhan sắc tồn tại vĩnh cửu, không bao giờ bị phai mờ. Dù khi đã hoá tro tàn nhưng luôn khiến những người đời sau phải đau đớn, trăn trở và suy nghĩ. Suy nghĩ cho người phụ nữ, tài hoa mà bất hạnh, suy nghĩ cho kiếp tài tử phong lưu đầy xót xa và cay đắng. Để rồi qua đó cái đẹp mà người đọc thấy được ở Nguyễn Du là cái đẹp của lòng đồng cảm, cái đẹp của sự thấu hiểu và tri ân, cái đẹp vẫn văng vẳng trong lòng độc giả.
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư”.
Nỗi hận ở đây là nỗi hận không có lời giải đáp, nỗi hận mà trời cao cũng không thể trả lời: Tại sao kiếp “Tài tử giai nhân” luôn phải chịu những cay đắng, bi kịch, không bao giờ có lối thoát? Là sự xót xa cho một kiếp người. Nỗi hận đó không ai thấu hiểu, chỉ có những con người đồng cảnh ngộ mới có thể đồng cảm và sẻ chia. . Để rồi Nguyễn Du cũng thấu hiểu cái nỗi oan lạ lùng đó. Xót thương, cay đắng cho một kiếp người nay thành xót thương cho chính mình. Một kiếp người tài năng và trí tuệ nay cuối cùng phải chôn vùi trong tấm bi kịch, để rồi kết thúc là một nấm mồ hoang sơ, lẻ loi và cô đơn theo năm tháng. Nỗi hận đó của Nguyễn Du đã đi vào lòng người đọc, đầy u oán và trách cứ, làm cho tâm hồn phải thổn thức, làm trái tim độc giả phải băn khoăn và suy nghĩ.
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”.
Tác giả đã xưng tên mình vào trong thơ, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng và cảm xúc của mình. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ là nỗi cay đắng xót thương cho nàng Tiểu Thanh mà còn xót thương cho chính bản thân Nguyễn Du. Tiểu Thanh còn có người đồng cảm và tri ân vậy ba trăm năm nữa, ai sẽ rơi lệ mà đồng cảm mà xót xa cho kiếp người “Cánh bèo mạn nước” như Nguyễn Du. Câu hỏi u sầu đó như ám ảnh người đọc, như trăn trở và băn khoăn.
Nguyễn Du còn dẫn độc giả đến “thế giới của cái đẹp” và nghệ thuật qua thể thơ Đường luật đặc sắc, sử dụng thành công nghệ thuật đối, nhân hoá và câu hỏi tu từ. Ngôn ngữ và giọng thơ thấm đượm buồn bã, u sầu và xót xa như gieo vào tâm trí độc giả những bâng khuâng và trăn trở.
Kết bài:
Như vậy, một bài thơ hay sẽ đưa con người vào “thế giới của cái đẹp”, của những tình cảm, cảm xúc, của vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Thế giới đó sẽ là chiếc cầu nối giữa người nghệ sĩ và người đọc. Qua đó, người nghệ sĩ phải biết xây dựng lên những “thế giới cái đẹp” trong lòng người đọc, viết bằng cảm xúc chân thật nhất, còn người đọc phải biết mở rộng tâm hồn để thưởng thức cái đẹp. Có thể thấy, ý kiến của Lê Chí Viễn đã đưa người đọc đến giá trị và đặc trưng của thơ ca, đến với “thế giới của cái đẹp”.
Làm Sáng Tỏ Nhận Định “Vào Thơ Hay, Dù Là Điệu Kiên Cường Hay Làn Êm Ái Đều Là Vào Thế Giới Của Cái Đẹp”
Trong cuốn Đến với thơ hay, Lê Chí Viễn cho rằng: ” Vào thơ hay, dù là điệu kiên cường hay làn êm ái đều là vào thế giới của cái đẹp”
Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên. Hãy làm sáng tỏ “thế giới của cái đẹp” trong tác phẩm ” Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du.
* Giải thích nhận định:
– Thơ hay: hiểu chung là chỉnh thể thẩm mĩ, có khả năng khơi gợi ở người đọc những rung động thẩm mĩ, góp phần hoàn thiện con người, nâng con người lên…
– Điệu kiên cường hay làn êm ái: nội dung muôn màu muôn vẻ, phong phú vô cùng của thơ ca, “kiên cường”: thơ nói chí, tỏ lòng, trào phúng hay “làn êm ái”: thơ trữ tình, thơ lãng mạn.
– Thế giới của cái đẹp: “cái đẹp” là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện ở nhiều phương diện: vẻ đẹp của tâm hồn, tấm lòng, tài năng người nghệ sĩ, cái đẹp toát lên từ nội dung và hình thức của thơ, cái đẹp khơi gợi những rung động thẩm mĩ, bồi đắp tâm hồn con người.
⇒ Cả nhận định: Nói về giá trị thẩm mĩ của thơ ca.
* Bàn luận
Ý kiến đúng đắn vì:
– Đối tượng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng là đối tượng thẩm mĩ, được khám phá ở chiều sâu thẩm mĩ (mỗi hiện tượng của đời sống bước vào thơ đều được nhìn, được miêu tả dưới góc độ thẩm mĩ – VD: con đường đi vào thơ Xuân Diệu “nhỏ nhỏ xiêu xiêu” của một chiều thu…)
– Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc thăng hoa mãnh liệt, được ý thức nhưng đó cũng là những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ giàu chất nhân văn (niềm vui, nỗi buồn, khát khao, phẫn nộ …đều phải mang tính thẩm mĩ. VD: nỗi căm giận của con hổ trong vườn bách thú trong thơ Thế Lữ, nỗi buồn khi đứng trước cảnh sông nước trong thơ Huy Cận …)
– Thơ hay thực hiện được mục đích thiên chức của người nghệ sĩ là hướng con người tới chân, thiện, mĩ; nâng con người lên, làm cho lòng người phong phú thanh sạch hơn, khiến con người sống đẹp hơn, nhân văn hơn.
– Tiếp nhận văn học, trong đó có việc tiếp nhận thơ và thơ hay thực chất là tiếp nhận thẩm mĩ, lấy cái trong trẻo, tinh tế và tri âm mà cảm nhận, không bao giờ chấp nhận cái vụ lợi tầm thường, lấy hồn ta để hiểu hồn người.
* Chứng minh:
Cần làm rõ bài thơ “Đọc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du là “thế giới của cái đẹp”:
– Cái đẹp của cảnh vật, con người được miêu tả.
– Cái đẹp của tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ
– Cái đẹp trong cấu tứ, cách cảm, cách nói, cách dùng từ ngữ…
– Cái đẹp ở khả năng gợi lên những rung cảm thẩm mĩ, khơi luyện những tình cảm thẩm mĩ trong lòng người đọc.
– Dẫn chứng mở rộng: Những tác phẩm khác của Nguyễn Du và tác phẩm của những nhà thơ khác như Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Đình Chiểu …
* Đánh giá:
– Thơ ca là thế giới của cái đẹp, đó chính là đặc trưng thẩm mĩ của thơ ca, cũng là nội dung mục đích của văn học nói chung: văn học cần hướng đến khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp con người cuộc sống, nhà thơ, nhà văn cũng cần viết về những điều tốt đẹp để khơi gợi tình yêu, lòng lạc quan cho người đọc.
– Không phải thơ ca lúc nào cũng miêu tả cái đẹp. Thơ ca có quyền miêu tả những cái xấu xa, độc ác, để sự thật cuộc đời được chân thực hơn.
– Nhà thơ phải là người sống sâu sắc, tinh tế để cảm xúc thăng hoa trên trang thơ, người đọc cũng cần rung động và hiểu đời, hiểu người để cảm nhận hết được thế giới cái đẹp mà nhà thơ miêu tả và muốn hướng tới.
“Thơ đưa con người đến với cái đẹp. Cái đẹp của muôn loài và vạn vật, cái đẹp của cuộc sống con người. Đến với cái đẹp của lòng đồng cảm và vị tha, của những phẩm chất nhân văn là đáng quý. Cái đẹp đó dù với cảm xúc mãnh liệt hay nhẹ nhàng, êm đềm cũng đều để lại cho người đọc những trăn trở, suy nghĩ và bâng khuâng. Bàn về thơ hay, trong “đến với thơ hay” Lê Chí Viễn đã cho rằng ” Vào thơ hay, dù là điệu kiên cường hay làn êm ái đều là vào thế giới của cái đẹp” “cái đẹp” đó đã được thể hiện sâu sắc qua bài thơ ” Đọc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du.
Ý kiến của Lê Chí Viễn đã để lại cho người đọc nhiều băn khoăn và trăn trở, suy nghĩ. “Thơ” là những sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tình cảm, cảm xúc mãnh liệt thông qua ngôn từ cô đọng, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Một bài ” thơ hay” là một bài thơ phải sử dụng ngôn ngữ tinh vi và đặc sắc, hình ảnh gợi cảm, hàm xúc và đa nghĩa; một bài thơ xuất phát từ chính tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ, là bài thơ đã kiến người đọc đồng cảm với chính tác giả, thấu hiểu triết lý, hiện thực cả một tầng lớp, một giai đoạn dân tộc.
Hay nói cách khác một bài “thơ hay” là bài thơ phải kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp đăc sắc nghệ thuật. “điệu kiên cường” và “làn êm ái” là những dọng điệu, tình cảm và cảm súc của tác giả gửi gắm trong bài thơ, một bài thơ hay, là chiếc cầu nối đồng điệu giữa tâm hồn độc giả với tiếng nói trái tim của người nghệ sĩ. Để rồi, qua đó, người đọc bước vào “thế giới của cái đẹp”, cái đẹp về tư tưởng, tình cảm, cái đẹp về nội dung và hình thức nghệ thuật được tác giả gửi gắm qua bài thơ. Có thể thấy, ý kiến của Lê Chí Viễn đã xuất phát từ đặc trưng và giá trị thẩm mĩ của thơ ca, tác động sâu sắc vào suy nghĩ và cách nhìn nhận của độc giả khi đến với vẻ đẹp tinh tế, đặc sắc của văn chương muôn đời.
Một “bài thơ hay” là bài thơ của tiếng nói tình cảm và tâm hồn của những triết lý nhân sinh và sâu sắc. Những gì đã đi vào trong thơ đều là những trăn trở, suy nghĩ chân thành, là những ấn tượng đặc sắc về thế giới quan của tác giả. Nó phải mạnh mẽ, thăng hoa và mãnh liệt đến nỗi nếu không bộc lộ, người nghệ sĩ sẽ trăn trở và băn khoăn, day dứt. Bởi vậy thế giới của cái đẹp mà nhà thơ sáng tạo lên không đơn thuần là hiện thực cuộc sống bàng quang và vô vị, mặt khác, thế giới đó phải là hình ảnh khách quan trong thế giới chủ quan, nghĩa là phải mang những cảm xúc mãnh liệt, những chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả.
Cái đẹp đó phải khiến độc giả phải đồng điệu trong từng tâm trạng, từng nhịp đập với nhà thơ. “Thế giới của cái đẹp” trong một bài thơ hay được kết nối đến người đọc qua những “điệu kiên cường”, là tình cảm mãnh liệt, lên án và phê phán đanh thép của tác giả, qua những “làn êm ái”, là sự vị tha, đồng cảm, tri tâm, là giọng thơ khắc khoải, ưu sầu của chính tâm hồn người nghệ sĩ. Bởi vậy, một bài “thơ hay” dù xuất phát hay thể hiện bằng bất kỳ ngôn ngữ hay giọng điệu nào để hướng người đọc đến cái đẹp, để cảm nhận “thế giới của cái đẹp”, nét đẹp về nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
Nguyễn Du đã đưa người đọc đến với cái đẹp về nội dung bài thơ, cái đẹp của lòng đồng cảm và tri ân, cái đẹp của sự nhân đạo và xót xa cho bao kiếp người bạc mệnh.
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu“Cổ kim hận sự thiên nan vấn“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”. Theo chúng tôi Phong vận kì oan ngã tự cư”. Văn chương vô mệnh lụy phần dư”. Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.
Tây Hồ là hình ảnh cụ thể, một địa danh có thật, tuyệt đẹp xuất hiện trong bài nhưng nay đã hoá thành gò hoang, trống vắng và hoang tàn. Từ hình ảnh cụ thể đó nhà thơ đã liên tưởng đến sự thay đổi khắc nghiệt của cuộc đời con người. Sự thay đổi giữa cảnh đẹp nay thành gò hoang, giữa hiện tại và quá khứ, giữa vẻ đẹp chỉ còn trong hoài niệm mà nay đã biến mất rồi. Để từ đó là sự thay đổi trong cuộc đời nàng Tiểu Thanh. Từ một người con gái nhan sắc đẹp đẽ, tài năng tuyệt diệu mà nay chỉ còn là một nấm mồ. Nàng chết trong cô đơn và lẻ loi, để lại những ước mơ và thanh xuân tươi đep. Một cuộc đời, một con người tài hoa mà bạc mệnh.
“Tẫn” là sự huỷ diệt, đổi thay đến triệt để và tận cùng của thời gian. Để từ đó nêu ra sự thay đổi đến khắc nghiệt của cuộc đời. Dường như trong câu thơ, người đọc vẫn bắt gặp sự ngậm ngùi, xót xa của Nguyễn Du cho người con gái, cho một số phận bạc mệnh, đắng cay. Qua đó, tấm lòng của Nguyễn Du đã được thể hiện qua tâm thế tri ân cùng nàng. Nhà thơ nhớ người xưa trong khung cảnh “độc điến”, một mình ngắm nàng. Hình ảnh đó như kéo ngắn lại không gian và thời gian, cho hai con người sống ở hai giai đoạn khác nhau cùng đồng cảm và tri ân. Hình ảnh đó là sự xót xa, là niềm cay đắng cho kiếp tài tử phong lưu, là tìm được một người bạn cùng thuyền, cùng sẻ chia và cùng tâm sự. Cái đẹp về nhân cách của tác giả chính là biểu hiện ở chỗ đó.
Hai câu thơ đã sử dụng nghệ thuật đối, làm lớp nghĩa được xét đa chiều suy nghĩ khác nhau. Son phấn có thần nên khi đốt vẫn ngậm ngùi, xót xa; văn chương không mệnh nhưng đốt vẫn để lại cho lòng người nhiều cay đắng. “Son phấn” là vẻ đẹp về nhan sắc, ngoại hình. “văn chương” là vẻ đẹp về tài năng và trí tuệ. “Son phấn” hay “văn chương” dù khi đã đốt vẫn để lại xót xa cho hậu thế. Là vẻ đẹp về tài năng và nhan sắc tồn tại vĩnh cửu, không bao giờ bị phai mờ. Dù khi đã hoá tro tàn nhưng luôn khiến những người đời sau phải đau đớn, trăn trở và suy nghĩ. Suy nghĩ cho người phụ nữ, tài hoa mà bất hạnh, suy nghĩ cho kiếp tài tử phong lưu đầy xót xa và cay đắng. Để rồi qua đó cái đẹp mà người đọc thấy được ở Nguyễn Du là cái đẹp của lòng đồng cảm, cái đẹp của sự thấu hiểu và tri ân, cái đẹp vẫn văng vẳng trong lòng độc giả.
Nỗi hận ở đây là nỗi hận không có lời giải đáp, nỗi hận mà trời cao cũng không thể trả lời: Tại sao kiếp “Tài tử giai nhân” luôn phải chịu những cay đắng, bi kịch, không bao giờ có lối thoát? Là sự xót xa cho một kiếp người. Nỗi hận đó không ai thấu hiểu, chỉ có những con người đồng cảnh ngộ mới có thể đồng cảm và sẻ chia.. Để rồi Nguyễn Du cũng thấu hiểu cái nỗi oan lạ lùng đó. Xót thương, cay đắng cho một kiếp người nay thành xót thương cho chính mình. Một kiếp người tài năng và trí tuệ nay cuối cùng phải chôn vùi trong tấm bi kịch, để rồi kết thúc là một nấm mồ hoang sơ, lẻ loi và cô đơn theo năm tháng. Nỗi hận đó của Nguyễn Du đã đi vào lòng người đọc, đầy u oán và trách cứ, làm cho tâm hồn phải thổn thức, làm trái tim độc giả phải băn khoăn và suy nghĩ.
Tác giả đã xưng tên mình vào trong thơ, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng và cảm xúc của mình. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ là nỗi cay đắng xót thương cho nàng Tiểu Thanh mà còn xót thương cho chính bản thân Nguyễn Du. Tiểu Thanh còn có người đồng cảm và tri ân vậy ba trăm năm nữa, ai sẽ rơi lệ mà đồng cảm mà xót xa cho kiếp người “Cánh bèo mạn nước” như Nguyễn Du. Câu hỏi u sầu đó như ám ảnh người đọc, như trăn trở và băn khoăn.
Nguyễn Du còn dẫn độc giả đến “thế giới của cái đẹp” và nghệ thuật qua thể thơ Đường luật đặc sắc, sử dụng thành công nghệ thuật đối, nhân hoá và câu hỏi tu từ. Ngôn ngữ và giọng thơ thấm đượm buồn bã, u sầu và xót xa như gieo vào tâm trí độc giả những bâng khuâng và trăn trở.
Như vậy một bài thơ hay sẽ đưa con người vào “thế giới của cái đẹp”, của những tình cảm, cảm xúc, của vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Thế giới đó sẽ là chiếc cầu nối giữa người nghệ sĩ và người đọc. Qua đó người nghệ sĩ phải biết xây dựng lên những “thế giới cái đẹp” trong lòng người đọc, viết bằng cảm xúc chân thật nhất, còn người đọc phải biết mở rộng tâm hồn để thưởng thức cái đẹp. Có thể thấy, ý kiến của Lê Chí Viễn đã đưa người đọc đến giá trị và đặc trưng của thơ ca, đến với “thế giới cái đẹp”.
Hỏi Thế Gian Tình Ái Là Chi !
Ảnh internet
Con người ai ai cũng vì cái tình mà sống. Yêu, hận, vui, buồn, hạnh phúc, đau khổ… mọi trạng thái cảm xúc của con người đều xuất phát từ tình.
Tình khiến con người ta si mê, chìm đắm trong hỷ lạc, bi ai.
Tình đem đến hạnh phúc thăng hoa nhưng cũng có những đau khổ tột cùng.
Sống làm một kiếp người thì ai ai cũng phải lẩn quẩn trong vòng xoáy tình của thế gian.
Ảnh internet
Ví như bài thơ trong truyện Thần Điêu Đại Hiệp của tác giả Kim Dung ở Trung Quốc, đã lột tả tâm trạng bi ai thống khổ vì tình của nhân vật Lý Mạc Sầu:
“Hỏi thế gian tình ái là chi
Mà đôi lứa thề nguyền sống chết
Nam bắc hai đàng rồi ly biệt
Mưa dầm dãi nắng hai ngả quan san
Thiếp nhớ chàng muôn ngàn đau khổ
Thiếp nhớ chàng khốn khổ xiết bao
Giờ chàng đang ở nơi nao
Nhấp nhô mây núi nao nao cõi lòng”
Tại sao con người phải vì tình mà thống khổ, bi ai, dằn vặt tâm can, sao ta không thể thoát khỏi được cái lưới tình bủa vây này, sao ta không thể buông bỏ cho tâm được an lạc, nhẹ nhàng.
Buông đi cho nhẹ cõi lòng
Buông đi để đón tấm lòng vị tha.
Buông đi cho hết sầu bi
Buông đi để đón từ bi vào lòng
Buông đi để được an vui
Buông đi để đón niềm vui ngập tràn.
Ảnh internet
Và cho dù tình là gì đi chăng nữa, thì sợi dây tình được gắn kết ta với những người ta gặp trong kiếp nhân sinh này, dù hữu duyên hay nghịch duyên tất cả đều được trời xanh an bài để giúp ta trả những nợ nghiệp đã mang (bao gồm cả nghiệp thiện và nghiệp ác) ta đã gây ra từ nhiều kiếp luân hồi.
Nhân sinh như mộng ảo vội đến rồi vội đi, trong cõi hồng trần này, dù gặp nhau hữu duyên hay nghịch duyên, chúng ta cũng phải trân quý mối quan hệ, trân quý thời gian được ở gần nhau và luôn dùng tâm thái hòa ái, từ bi để đối nhân xử thế. Sau này khi đã đi hết hành trình của kiếp nhân sinh, mỗi người sẽ về một phương trời nào đó thì ta vẫn có những ký ức đẹp lưu lại cho hậu thế mai sau.
Hương Liên
Hits: 313
Truyện: Lạc Vào Thế Giới Cổ Tích
Sao vậy? -nhỏ lo lắng nhìn tôi.
“Ọt… ọt” bụng tôi liền biểu tình khiến tất cả ngạc nhiên rồi bật cười hừ cười cái gì chứ! Trưa đói là chuyện đương nhiên.
Mãi đến chiều tối chúng tôi mới về tới nhà của lọ lem sau đó liền lẻn lên phòng của cô. Phòng của lọ lem rất nhỏ chỉ bằng ¼ phòng tôi nhưng lại rất ngăn nắp (đâu như phòng tôi!). Lúc này Nhung đang đứng ở cửa sổ nhìn ra bên ngoài.
Hi Nhung mọi việc thế nào rồi -Trang vui vẻ chạy lại gần nhỏ. Nhung liền quay lại khiến tôi suýt cắn phải lưỡi, trông nhỏ chẳng khác gì gấu trúc ha ha ha.
Cười cái gì! -nhỏ liếc mắt nhìn tôi rôi quay sang Trang -tớ hoàn thành xong rôi chỉ hận cái mụ già đó cứ hành hạ tớ muốn cho mụ ta ăn đánh quá.
Ừm…tớ…xin lỗi -lọ lem ngượng ngùng lên tiếng ha ha ha thế mới là lọ mọ xí lộn lọ lem của chúng ta chứ.
Cục tác… cục cục -nhỏ liền lao đến gõ mỏ vào mặt ki ki.
Xin lỗi… em chỉ đùa thôi mà um ba la -ki ki trong tình trạng “thương binh” mếu máo. rồi biến Nhung thành…con chó. Ki ki liền đơ ngay lâp tức và kết quả là haizzz bạn nào có điện thoại làm ơn gọi trạm tiêm phòng chó dại giùm híc híc. Rất may sau abc lần cuối cùng Nhung cũng trở lại làm người.
Hừ -Nhung liếc xéo ki ki khiến con bé mặt tái xanh lại càng tái xanh hơn khi nghe nhỏ nói một câu rất ưa la”nhẹ nhàng” -haizz lâu rồi không có ăn thịt thỏ bỗng thèm quá đi
Ừm tớ cũng, vậy dạo này toàn ăn hoa quả gầy đi bao nhiêu rồi! -tôi cười gian tà theo Nhung khiến ki ki khóc không ra nước mắt.
À lọ lem này đây là thành quả của mình và lũ chuột dành tặng cậu đó -Nhung mỉn cười lấy ra một bộ váy màu hồng phấn rất đẹp. Rồi chúng tôi giục nhỏ đi thay
Thế…thế nào? -lọ lem đỏ mặt bước ra.
Được lắm! -Chúng tôi ồ lên kinh ngạc, lọ lem trông rất dễ thương.
Nhưng làm sao để cho lọ lem đi được đây -Trang nhíu mày lên tiếng, ừm nhỏ nói cũng có lý theo như thông tin nhỏ cung cấp thì lọ lem sẽ đòi đi dự tiệc nhưng bị mụ dì ghẻ cấm rồi được bà tiên giúp đỡ hazz làm sao đây!
“Cạch” cửa đột nhiên mở khiến chúng tôi giật mình ki ki lập tức dùng thuật tàng hình, một bà cô trông già hơn cả mẹ tôi mặt trát đầy son phấn, quần áo thì lòe loẹt giống tắc kè hoa bước lại phía lọ lem.
Dì! -cô ngạc nhiên lùi lại.
Chà chà con kiếm đâu ra bộ váy đẹp vậy lọ lem -bà cô tắc kè đảo mắt về phía lọ lem
Con… – chết rồi sao có thể nói là chúng tôi làm cho lọ lem được bà già này sao lưu manh quá vây!
Nhà này nghèo đến nỗi mày phải đi ăn trộm váy nhà người khác sao? Thật mất mặt! -cáo già đã lộ đuôi tôi biết ngay mà thể nào bà ta cũng ngăn cấm lọ lem cho mà xem
-Con không hề ăn trộm.
“Bộp” một cú đánh giáng xuống mặt cô.
Hừ mụ già này, già rồi thì ở nhà bế cháu đi còn muốn là lưu manh giả danh quý tộc, tớ phải cho mụ một trận mới được! -Nhung nghiến răng định xông tới may là tôi với ki ki đã ngăn lại không an mạng lâu rồi.
Thưa dì! Con nói thật -lọ lem ôm một bên má nức nở khóc.
Còn cãi được à hôm nay ta phải thay mẹ mày dạy dỗ lại mày mới được -mụ dì ghẻ nhếch mép tiến lại gần lọ lem rồi bắt đầu giật các sợi ruy băng cho đến khi nó chỉ còn là một đống giẻ lau.
Hừ, tôi mặc kệ mụ ta liền hướng mắt về phía lọ lem đang ngồi dưới đất khóc nức nở.
Làm sao đây? -tôi ái ngai nhìn Trang nhỏ đang an ủi lọ lem.
Bà tiên đâu rồi? Lẽ nào bà ta bị kẹt xe nhỉ? Bây giờ tắc nghẽn giao thông nhiều lắm -ki ki sốt rột lên tiếng, trời ơi cứ tưởng mỗi thế giới loài người có nạn tắc nghẽn giao thông cơ ai dè… hơ hơ.
Đúng rồi ki ki em có thể được không? -Nhung liền nhìn ki ki.
Ừm nhưng em sợ sẽ không thành công -ki ki ái ngại ha ha chắc con bé sợ cái vụ của Nhung rồi.
Cứ làm đi cùng lắm ăn đánh vài cái nếu không ăn lẩu thỏ cũng được! -Nhung tức giận nói.
Đừng khóc nữa tụi này sẽ giúp cậu -Trang liền mỉn cười an ủi lọ lem.
Um ba la -ki ki đọc thần chú biến lọ lem từ một cô gái mặc bộ đồ rách rưới thành một công chúa xinh đẹp, cô mặc một bộ váy màu xanh nước biển bó sát eo còn ở dưới thì phồng ra đạc biệt còn lấp lánh đến lộng lẫy, mái tóc màu nâu được búi lên nhờ chiếc trầm màu hồng, dưới chân lọ lem đi một đôi giày bằng thủy tinh.
Oa còn đẹp hơn trước nữa -tất cả chúng tôi ồ lên mắt không rời nổi lọ lem còn ki ki thì thở phào nhẹ nhõm.
Vậy còn xe ngựa? -tôi ngạc nhiên lên tiếng.
Có liền! Um ba la -ki ki mỉn cười biến ra hai cái xe…đạp.
Ki ki! -Nhung tức giận gầm lên khiến con bé xanh mặt.
ủa em chẳng phải đã từng học phép biến ra đồ vật rồi còn gì? -Trang cau mày liếc ki ki.
Ha ha em có học qua rồi nhưng… hôm đó em trốn đi ăn kem! -ki ki gãi đầu lên tiếng, lập tức nhận được những cái liếc mắt đầy “thiện cảm” của chúng tôi.
Mà thôi ta mau đi không muộn rồi -Trang thở dài rồi cùng mọi người leo lên xe đạp, tôi và Nhung đi cùng một xe Trang và lọ lem một xe. Có lẽ do lần đầu tiên lọ lem đi xe đạp nên cô vừa cười vừa hét cứ như đi tàu siêu tốc ý! Tôi cá rằng nếu mà lọ lem tới thời hiện đại mà la hét như vậy thể nào cũng bị hàng xóm vác chổi đuổi là cái chắc ha ha. Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến cung điện, chao ôi nguy nga kinh khủng ít nhất cũng phải mấy tỷ đô la Mỹ, he he biết thế mình trộm vài món chắc chẳng tốn mấy đâu nhỉ?! (Máu tham tiền đã nổi lên!!!)
Em có thể nhảy cùng tôi được không? -một giọng nói vang lên, một chàng trai lớn hơn tụi tôi tầm một hai tuổi rất đẹp trai mặc âu phục hoàng gia cúi gập người mời lọ lem nhảy tôi đoán đó là hoàng tử mà sao hắn giống tên hôm qua vậy?
Các chị có muốn nhảy không? -ki ki mỉn cười, tôi liền nhìn xuống quần áo mình hơ hơ mặc váy màu trắng chỉ dài đến đầu gối là…là váy ngủ của tôi thảo nào ai cũng nhìn tôi ngượng quá (Hôm qua còn mặc nguyên bộ này đi dạo chơi mới đau).
Được -Trang mỉn cười gật đầu còn tôi và Nhung ngồi một chỗ đánh chén đồ ăn.
Um ba la -ki ki liền đọc thần chú biến Trang thành một vị tiểu thư trong bộ trang phục màu hồng phấn đính những hạt cườm nhỏ lấp lánh, nhỏ mặc một cái áo hai dây bó sát eo và để hở cái cổ trắng ngần, mái tóc uốn xoăn thành từng lọn được thả xõa, trên mái tóc còn cài một bông hoa màu hồng làm cho Trang nổi bật không kém gì lọ lem.
Cậu có thể nhảy với tôi được chứ -một giọng trầm ấm vang lên, tôi giật mình là chàng trai hôm qua, hôm nay cậu ta thật bảnh bao trong bộ trang phục hoàng gia đầu đội một cái vương miện khiến cậu ta thêm uy quyền…A vương miện ư?
Cậu ta là hoàng tử? -ki ki thốt lên đầy ngạc nhiên.
Đâu? Đâu?Oa đẹp trai thiệt anh em nhà này giỏi thiệt chưa gì đã tìm được ý trung nhân rồi -Nhung trầm trồ ngắm cặp đôi của Trang.
Haizz mặc kệ đi -tôi thở dài cho quả táo lên mồm cắn.
“Bong…bong” chưa gì đã 12 giờ rồi chán quá!
A A -ki ki chợt kêu lên khiến tôi và Nhung giật mình.
Sao vậy ki ki? -tôi lo lắng nhìn con bé.
Có ai đó đang ngăn chặn phép thuật của em phải mau đi trước khi phép thuật của em hết tác dụng -ki ki hoàng loạn nói rồi bỏ ra ngoài trước chắc là mụ già Obira rồi.
Trang! Lọ lem! Mau đi thôi phép thuật sắp hết tác dụng rồi! -tôi liền hô to lập tức cả hai người giật mình. Trang và lọ lem đành luyến tiếc bỏ đi lọ lem không biết có tập thể dục thường xuyên hay không mà chạy rơi cả giày (Thông cảm tôi có bao giờ đọc truyện cổ tích đâu!!!) còn tôi và Trang chạy cuối cùng ha ha ha tôi dốt nhất môn chạy mà.
A -Trang liền đánh rơi một chiếc giày nhỏ định quay lai nhặt thì tôi liền kéo nhỏ đi hừ sắp chết đến nơi rồi còn giày với chả dép…Rồi tất cả chúng tôi leo lên xe đạp nhưng đột nhiên nó biến mất.
Mau chạy thôi phép thuật của em hết tác dụng rồi -ki ki lo lắng ,hả lại chạy nữa ư? Thôi vì tương lai của con em…chạy!!!!!!!!
TRANG!!! -giọng nói của chàng trai đó vang lên khiến nhỏ giật mình quay lại.
110 Nhận Định Hay Về Thơ Ca Cần Nhớ Để Trích Dẫn Vào Bài Làm Văn
110 nhận định hay về thơ ca cần nhớ để trích dẫn vào bài làm văn
1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)
2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay.
(Chế Lan Viên)
3. Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ (Hans Sachs)
4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.
(Chế Lan Viên)
5. Sau dòng thơ cuối, chẳng có gì theo sau ngoại trừ phê bình văn học. (Joseph Brodsky)
6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)
7. Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vẫn thơ . (Jorge Luis Borges)
8. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già. Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. (Xuân Diệu)
9. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng (Lawrence Ferlinghetti)
10. Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người . (William Wordsworth)
11 Thi ca là một tôn giáo không kì vọng. (Jean Cocteau)
12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)
13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)
14. Thơ là thần hứng. (Platon)
15. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin)
16. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình. (C. Mac)
17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)
18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng)
19. “Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi Còn một nửa cho mùa thu làm lấy Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá Nó không là anh nhưng nó là mùa”
(Chế Lan Viên)
20. Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc. (Denise Levertov)
21. Hội họa phải đạt được sự thấu hiểu qua tự thân nó, không cần tới giải thích, và thi ca cũng vậy. Nếu một bài thơ hay một bức họa cần phải được giải thích thì đó là thất bại trong giao tiếp. (Lawrence Ferlinghetti)
22. Người nghệ sĩ không có thời gian để nghe các nhà phê bình. Người muốn trở thành nhà văn đọc phê bình, người muốn viết không có thời gian để đọc phê bình. (William Faulkner)
23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ. (Raxun Gamzatop)
24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)
25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ. (Maiacopxki)
26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)
27. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu.
(Chế Lan Viên)
29. Hình thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Chế Lan Viên)
31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi.
(Chế Lan Viên)
33. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao Không thể nằm yên mà ngủ được nào.
(Chế Lan Viên)
35. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
(Chế Lan Viên)
36. Không có may mắn trong sáng tác. Không có chỗ cho những trò lừa gạt. Điều tốt nhất anh có thể viết là con người tốt nhất của anh. (Henry David Thoreau)
37. Một tác phẩm cổ điển là một cuốn sách chẳng bao giờ kết thúc điều nó cần phải nói. (Italo Calvino)
38. Làm thơ, tuy quý cổ kính đạm bạc, nhưng phong phú rực rỡ không thể không có, cũng ví như tùng bách có thêm đào lý, có vải lụa còn thêm gấm vóc. (Tạ Trăn)
39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (B. Shelly)
40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị. (Nguyễn Cư Trinh)
41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)
42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)
43. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực)
44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)
45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. (Maiacopxki)
46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki)
47. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu)
48. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu)
49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp)
51. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại. (LLVH)
52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật . (P. Povienko)
53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương. (Pauxtopxki)
54. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)
55. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)
56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)
57. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu)
58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài Thanh)
59. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki)
60. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng)
61. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp)
62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)
63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa)
64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình. (Tố Hữu)
66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn. (Platông)
67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)
68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)
69. Câu thơ hay là câu thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người. (Chu Văn Sơn)
70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có. (Tô Hoài)
71. Người xưa trong ý có giấu những điều không thể nói ra, mới mượn vần thơ để truyền đi những điều mình muốn nói. Nếu trong lòng không cảm xúc mà chỉ vẽ vời lòe loẹt thì làm sao mà có thể có những vần thơ tuyệt diệu. (Thẩm Đức Tiềm)
72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)
73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.
74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ. Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi tới.
75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ. (Eptusencô))
76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. (R.Tagore)
77. Thơ phát khởi trong lòng người ta. (Lê Quý Đôn)
78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần. (Ngô Thì Nhậm)
79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa. (Xuân Diệu).
80. Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc . (Hegel).
81. Hai cô gái phát hiện ra bí ẩn cuộc đời trong một dòng thơ đột ngột. (Denise Levertov)
82. Các nhà thơ bị nguyền rủa nhưng họ không mù, họ nhìn với đôi mắt của thiên thần . (William Carlos Williams)
83. Tại sao thi ca lại phải khiến người ta hiểu được?. (Charlie Chaplin)
84. Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ. (Hans Sachs)
85. Người tìm được niềm vui sướng cao quý từ những cảm xúc của thi ca là thi nhân thực thụ, cho dù anh ta không viết được dòng thơ nào trong cả cuộc đời . (George Sand)
86. Hội họa là thi ca được ngắm thay vì được cảm nhận, và thi ca là hội họa được cảm nhận thay vì được ngắm (Leonardo da Vinci)
87. Thi ca phải có gì đó man rợ, bao la và hoang dại . (Denis Diderot)
88. Thứ duy nhất có thể cứu được thế giới là phục hồi nhận thức của thế giới. Đó là công việc của thi ca . (Allen Ginsberg)
89. Nhà thơ là giác quan, triết gia và trí tuệ của nhân loại. (Samuel Beckett)
90. Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vẫn thơ . (Jorge Luis Borges)
91. Người giỏi vẽ thì vẽ ý mà không vẽ hình, người giỏi thơ thì nói ý mà không nói tên . (Tô Đông Pha)
92. Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người. (William Wordsworth)
93. Làm thơ cũng như dùng binh, cẩn thận với địch thì thắng. Mệnh đề tuy dễ, không thể sơ suất hạ bút. Không đem hết công phu làm sao đến được chỗ hồn nhiên biến hóa . (Tạ Trăn)
94. Thơ là hành vi của con người. Người cao thì thơ cũng cao. Người tục thì thơ cũng tục. Một chữ cũng không thể che giấu. Thấy thơ như thấy người. (Từ Tăng)
96. Thi ca gần với sự thực chân chính hơn lịch sử. (Plato)
97. Thi ca là khi một cảm xúc tìm được ý nghĩ và ý nghĩ tìm được ngôn từ. (Robert Frost)
98. Thi ca là khoảng cách ngắn nhất giữa hai con người. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng. (Lawrence Ferlinghetti)
99. Thi sĩ là gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi đẹp tới mức khi tiếng thở dài và tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du dương… Và người ta xúm lại quanh thi sĩ và bảo: ‘Hãy hát tiếp đi’ – hay nói theo cách khác, ‘Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm nhạc thì lại rất hay”. (Soren Kierkegaard)
100. Thơ của một người bình dị hay tân kỳ, nồng hậu hay đạm bạc, không phải là mỗi bài mỗi câu đều hạn chế trong một thể cách. Có thể nào chỉ lấy một cái lông mà định đoạt cả con báo ư? (Ngô Lôi Phát)
101. Thơ ca không phải là ghi chép sự kiện: nó chính là sự kiện . (Robert Lowell)
102. Làm người không thể không phân biệt giữa nhu mì và nhu nhược, giữa cương cường và cường bạo, giữa kiệm ước và biển lận, giữa trung hậu và hôn ngu, giữa sáng suốt và khắc bạc, giữa tự trọng và tự đại, giữa tự khiêm và tự tiện, mấy cái đó hình như giống nhau mà thực khác nhau; còn làm thơ thì không thể không phân biệt giữa bình đạm và khô khan, giữa tân kỳ và tiêm xảo, giữa mộc mạc và vụng về, giữa cường kiện và thô bạo, giữa hòa lệ và khinh phù, giữa thanh tú và mỏng manh, giữa trọng hậu và cứng đờ, giữa tung hoành và tạp loạn, mấy cái đó cũng hình như giống nhau mà kỳ thực khác nhau, sai một ly đi một dặm . (Viên Mai)
103. Thơ không thể làm không vì mục đích gì cả. Thử xem những bài thơ hay của người xưa, có bài thơ nào mà không vì mục đích gì không? (Tiết Tuyết)
104. Trong lòng có điều gì, tất hình thành ở lời, cho nên thơ nói chí vậy. (Phan Phu Tiên)
195. Thi sĩ có thể sống sót qua mọi thứ, trừ lỗi in ấn . (Oscar Wilde)
106. Thi ca là những hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim của tất cả mọi người . (Lawrence Ferlinghetti)
107. Không có mảnh nhỏ cuộc đời nào lại không mang trong mình thi ca. (Gustave Flaubert)
108. Tình trạng của thế giới kêu gọi thi ca đến cứu nó . (Lawrence Ferlinghetti)
109. Đừng dùng điện thoại. Người ta hiếm khi sẵn sàng trả lời nó. Hãy dùng thi ca . (Jack Kerouac).
110. Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy. (Tố Hữu)
Nghị Luận: Thơ Ca Là Cái Đẹp Đi Tìm
Nghị luận: “Thơ ca là cái đẹp đi tìm”
Thuở xa xưa, khi con người chưa biết gì đến thi ca và âm nhạc, họ thưởng thúc cuộc sống tươi đẹp qua những hình ảnh và tiếng vọng của thiên nhiên. Một hôm, họ thấy một con chim đang say sưa hót trên bầu trời. Tiếng hót trong trẻo vút cao lảnh lót. Bỗng con chim khép đôi cánh lại, bất ngờ lao vút vào bụi gai rậm và chết trên gai nhọn. Xúc động trước cảnh tượng đó con người cố tìm một cách biểu đạt thật cảm động những tình càm của mình. Và thế là, thơ ca ra đời từ đó.
Theo ý nghĩa đó, thơ ca chính là sự rung động của con người trước cái đẹp. Tiếng chim là âm thanh nổi bậc và quyến rũ nhất trong các âm thanh của tự nhiên. Tiếng chim réo rắt trên trời cao, tiếng chim thì thầm trong lá biếc đều mang đến cho ta cảm giác thanh bình thật dễ chịu, xua tan hết bao điều bực dọc và u uẩn đưa tâm hồn ta đến với sự thanh cao, giải thoát. Từ lúc biết lắng nghe tiếng hót của loài chim, con người mới cảm nhận được cái hay của âm thanh. Họ bắt đầu lắng nghe tiếng nước suối chảy và phát hiện ra ở đó một nhịp điệu. Họ cũng lắng nghe tiếng mưa rơi và cả những âm thanh dữ dôi nhất của tự nhiên và tìm thấy ở đó một niềm thích thú mạnh mẽ. Âm thanh đã thực sự thu hút con người và khiến họ biết rung cảm.
Thế nhưng, chỉ đến khi nhìn thấy con chim lao mình vào cành gai nhọn, cắt đứt sự sống và tiếng hót đầy say mê của nó, những rung động ấy mới chuyển hóa thành thơ. Thơ ca chính là nỗi đau thương của con người trước cuộc sống. Thơ ca là niềm cảm thông, đồng vọng, đồng cảm, xót thương, đau khổ,… kể cả niềm hụt hẫng của con người trước trước nghịch cảnh khổ đau, bất trắc.
Theo thần thoại Hy Lạp, Calliope được xem là nữ thần của thi ca. Bà là người đứng đầu trong 9 nữ thần nghệ thuật và khoa học. Calliope còn được xem là nữ thần của trí tệu, tri thức, hùng biện và giai điệu. Nghĩa là, người Hy Lạp cổ đại cho rằng thơ ca đứng đầu trong các ngành nghệ thuật và năng lực của rất nhiều nguồn sức mạnh.
Thơ ca tự nó khởi phát chứ không phải do một năng lực được kí thác. Con người tự biết rung động trước thiên nhiên và tìm cách biểu đạt nó ra bằng ngôn từ. Và từ muôn đời nay, dù xã hội có thế nào, thì thơ ca vẫn cất giữ trong nó ngọn lửa bất diệt sẵn sàng bùng cháy lên trong mọi hoàn cảnh.
Những thi sĩ luôn là những người được kính trọng trong xã hội. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp, nhiều hoàn cảnh nhưng đối với con người họ là những vị thần sáng tạo, mang đến cho cuộc sống những vần thơ êm dịu, giúp họ vơi bớt nỗi đau và tìm thấy mình ở đâu đó trong câu thơ.
Có thể nói, hầu hết các bộ sử thi vĩ đại của nhân loại đều viết bằng lời thơ. Hai bộ đại sử thi Ấn Độ Ramayana hay Mahabharata là những bài thơ bất tận, kết tinh trí tuệ của rất nhiều con người qua nhiều thời đại. Người ta ví hai bộ sử thi này là túi khôn của người Ấn và hằng ngày mỗi người Ấn đều ca tụng nó. Những gì có trên Ấn Độ đều có trong hai bộ sử thi vĩ đại này. Người ta cũng kinh ngạc là làm sao khi chưa có chữ viết mà người Ấn Độ có thể lưu lại hai bộ sử thi ấy một cách nguyên vẹn qua mấy ngàn năm. Đó cũng là một câu hỏi khiến các nhà nghien cứu phân vân. Một cách trả lời rất đơn giản đó là nó đã được viết bằng lời thơ chứ không phải là văn xuôi.
Tiếp đến là phải kể đến hai bộ sử thi cũng không kém phần đồ sộ của Hy Lạp: Odixe và Ilyat. Hai bộ sử thi đồ sộ thâu tóm toàn bộ cuộc chiến đấu của đoàn quan Hy Lạp chinh phục kẻ thù và cả những cuộc nội chiến. Odixe tiếp sau nội dung của Ilyat nhưng được viết dài hơn. ĐIểm chung nhất của các bộ sử thi là biểu hiện cái đẹp trong trạng thái rực rỡ nhất của con người và tự nhiên. Đó có thể là một vị anh hùng với sức khỏe và dáng dấp phi thường, trái tim bao dung, ý chí mãnh liệt, trí tuệ phi phàm. Đó có thể là một trận đánh vô cùng khốc liệt, diễn ra trong một thời gian dài ở thế trận dằng co, gây cấn và khi thắng bại phân tranh thì chiến trường hoang tàn đầy xác chết. Có thể nói ngôn ngữ sử thi luôn biểu hiện sự vật ở trạng thái tột bậc, phi thường, tráng lệ.
Người đời sau đọc sử thi, họ lại tiếp tục đi tìm cái đẹp được ẩn giấu sau lớp ngôn từ mềm mại ấy. Đã qua biết bao thời gian, biết bao cái mới được hình thành nhưng những giá trị cũ xưa luôn gây cho ta niềm hứng thú, say mê đến bất tận. Ta càng đọc càng thấy cha ông vĩ đại, thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn trong nhiệm vụ giữ gìn, phát huy tiếp biến những giá trị vĩnh hằng ấy.
Cập nhật thông tin chi tiết về Làm Sáng Tỏ Nhận Định: Vào Thơ Hay, Dù Là Điệu Kiên Cường Hay Làn Êm Ái Đều Là Vào Thế Giới Của Cái Đẹp” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!