Xu Hướng 3/2023 # Làm Rõ Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ “Mộ” (Chiều Tối) # Top 4 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Làm Rõ Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ “Mộ” (Chiều Tối) # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Làm Rõ Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ “Mộ” (Chiều Tối) được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bài ca ngất ngưởng được viết theo thể ca trù, một lối thơ gần với thơ tự do sau này. Bài thơ tuy có những dòng “tự thuật” của tác giả, nhưng vần là một tác phẩm trữ tình, bộc lộ khá rõ tâm hồn, tư tưởng, nhàn cách của Nguyễn Công Trứ. Cố người xem đây như một “tuyên ngôn” bằng thơ của ông. Bởi vậy, Bài ca ngất ngưởng có giá trị khá tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Công Trứ.

được viết theo thể ca trù, một lối thơ gần với thơ tự do sau này. Bài thơ tuy có những dòng “tự thuật” của tác giả, nhưng vần là một tác phẩm trữ tình, bộc lộ khá rõ tâm hồn, tư tưởng, nhàn cách của Nguyễn Công Trứ. Cố người xem đây như một “tuyên ngôn” bằng thơ của ông. Bởi vậy, Bài ca ngất ngưởng có giá trị khá tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Công Trứ.

Nguyễn Công Trứ viết khá nhiều bài ca trù (trên sáu mươi bài). Trước và sau ông trong văn học Việt Nam, cũng có một số người viết, nhưng ca trù của Nguyễn Công Trứ ở vào hàng xuất sắc. “Nếu như ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn đau xót đi tìm những giá trị của mình đã bị mất mát thì thể thơ hát nói, một thể thông dụng trong ca trù lại thể hiện một con người tài tứ thoát vòng cương toả, thoát sáo, thoát tục luỵ, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại.

Không chỉ viết ca trù, đương thời nhà thơ Nguyễn Công Trứ còn tham gia sinh hoạt loại hình nghệ thuật này Giá trị của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ, đây là bài thơ duy nhất Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện thái độ phong cách sống của mình. Sự thể hiện đó chỉ có thế có được trên cơ sở một sự tự ý thức sâu sắc về những giá trị của bản thân, về chốn quan trường và rộng hơn là cả xã hội thời bấy giờ. Điều này, trong văn học trung đại Việt Nam, khá hiếm hoi, nhất là với những nhà thơ tham gia vào chốn quan trường. Nói rộng hơn, những kiểu tự ý thức như Nguyễn Công Trứ báo hiệu cho sự đòi hỏi bức thiết về sự xuất hiện và khẳng định cái tôi trong văn học cũng như ngoài đời. Hơn nữa, bài thơ được Nguyễn Công Trứ viết khi đã cáo quan về nghỉ và bước vào tuổi bảy mươi. Do đó, nó là sự tổng kết, tự đánh giá một cách nghiêm túc, sâu sắc của một người từng trải, chứ không phải nhất thời, bồng bột khi ở tuổi thanh xuân.

Bài thơ có tên: Bài ca ngất ngưởng. Điểm đáng chú ý là từ ngất ngưởng, chứ không phải là “bài ca” (cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng viết nhiều bài ca: Sa hành đoản ca – Bài ca ngắn đi trên cát, Đằng tiên ca – Bài ca cái roi song…). Từ “ngất ngưởng” vốn diễn tả trạng thái không vững, ở chỗ cheo leo, dễ đổ, dễ rơi. Đấy là lớp nghĩa thông thường, càng không phải ở trong trường hợp của Nguyễn Công Trứ. Đáng chú ý hơn, trong bài thơ, tác giả sử dụng tất cả năm lần (kể cả tiêu đề). Hai lần đầu trong bài, từ ngất ngưởng xuất hiện ở cuối một khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh.

Lần thứ nhất, kể từ khi ông Hi Văn đỗ Thủ khoa, rồi làm quan Tham tán và tới chức vụ rất cao (Tổng đốc), ông đã ngất ngưởng. Rồi khi bình Tây, lúc về Phủ doãn Thừa Thiên và tới ngày đô môn giải tổ, ông đều ngất ngưởng. Khi thực sự cáo quan, sống cuộc sống bình thường, ông càng ngất ngưởng. So ra, trong triều, chẳng có ai ngất ngưởng như ông. Như vậy, ngất ngưởng là một thái độ, một phong cách sống của Nguyền Công Trứ. Nó vượt lên muôn vạn người thường, nó cũng không Phật, không tiên, không vướng tục. Nó là một cá nhân – cá thể, là bản ngã của chính nhà thơ.

Có thể nói, bộ phận thơ ngôn chí trong di sản thơ Nguyễn Công Trứ là những bài thơ có giá trị nghệ thuật cao, mà trong đó bài thơ Bải ca ngất ngưởng có một vị trí quan trọng. Bài thơ mang dáng vẻ một lời tuyên ngôn nhưng thực sự chính là bản tổng kết cả cuộc đời mình cua Nguyễn Công Trứ.

Thật đặc biệt, cả cuộc đời làm quan, nhìn lại, ông chỉ tự định giá bằng bốn từ: ngất ngưởng.

Trước hết, đó là ngất ngưởng khi “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, có nghĩa là sự ngất ngưởng khi Nguyễn Công Trứ đã bước vào hoạn lộ, ông đang “đắc chí”. Làm nên sự ngất ngưởng lúc này là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà nho dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ lập chí ở việc “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời). Đó là sự nghiệp, đương nhiên có công ắt có danh. Nguyễn Công Trứ đã coi điều đó – công danh – là lẽ sống: “Không công danh thà nát với cỏ cây”; đã làm trai đứng trong trời đất “phải có danh gì với núi sông”. Với một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã “vơ” tất cả mọi việc trong thiên hạ vào phận sự của mình: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Cũng không mấy nhà nho hào phóng tự tin đến thế trong việc tự nhận trách nhiệm với đời. Và quả thật trong 28 năm, từ khi thi đỗ đến khi nghỉ quan, Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ tài thao lược của mình. Ông đã liệt kê hàng loạt sự việc lớn:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…

Lúc bình Tây, cờ Đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Tất cả, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời” (nói như ngôn từ đang được lưu hành trong dân gian gần đây):

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lòng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự khen, thể hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân mình trong thời gian ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tha hoá: quyền cao chức trọng.

Tuy nhiên đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm. Vì thế ông đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Thứ hai là trạng thái ngất ngưởng trên lưng bò vàng đeo đạc ngựa khi nghỉ quan.

Thông thường, sự kiện cởi mũ áo nghỉ quan là một việc hết sức hệ trọng, một bước ngoặt trong đời đối với một người iàm quan mà lại là quan to như ông. Nhưng với Nguyễn Công Trứ thì chuyện đó cũng chẳng làm ông bận tâm. Ông không lưu luyến gì và rất muốn “phủi sạch tay trước khi ra về” như giáo sư Trương Chinh nhận định. Ngày 3 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) khi xin về hưu, ông đà làm đơn nộp trả lại hết bằng sắc cho triều đình và ngày “đô môn giải tổ” chỉ còn đọng lại duy nhất trong ông một sự kiện ngất ngưởng:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã làm một việc ngược đời, đã bày ra một đối nghịch: kinh thành đầy vồng lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò vàng nghênh ngang đủng đỉnh! Không những thế, con bò của ông cũng biểu hiện một sự trái khoáy: đã là bò, một loài vật thấp kém, lại còn là bò cái, nhưng được trang sức bằng đạc ngựa – đồ trang sức sang trọng của loài gia súc cao quý. Tương truyền Nguyễn Công Trứ còn cho buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: “để che miệng thế gian”! Nguyễn Công Trứ đã trêu ngươi, khinh thị cả thế gian kinh kì. Không những riêng ông mà cả con bò vàng của ông cũng ngất ngưởng.

Thứ ba là ngất ngưởng trong “dạng từ bi” đến nỗi Bụt cũng phải nực cười.

Nguyễn Công Trứ nghi quan, cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi, mà thay đổi sâu sắc: một ông tướng quyền sinh quvền sát “tay kiếm cung” đã trở thành một ông già mang dáng từ bi. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả một thời vùng vẫy ngang dọc, còn phía trước, chờ đón ông, dường như là một sự trống vắng: chỉ có núi Đại Nại quê ông với những tầng mây trắng phau:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng.

Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khuâng, thoáng ý vị chua chát. Hình ảnh những làn mây trắng – rất trắng – trên đỉnh núi gợi nhiều liên tưởng. Nó biểu tượng cho những gì rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định. Tất cả sẽ là hư vô chăng, “bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó xanh) chăng?

Tuy nhiên Nguyễn Công Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khuâng triết học đó không dừng lại lâu trong ông. Ông đã nhanh chóng chọn lối sống phá cách đủ để “thích ý”:

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

Ở đây cùng vậy, giữa Nguyễn Công Trứ và thế gian lại diễn ra những điều trái ngược: dạng từ bi nhưng lại sống tiên cách. Nguyễn Công Trứ đã không đi tu khổ hạnh, cùng không theo những phương pháp nghiên cứu Thiền học để tìm đến sự giác ngộ mà trái lại ông sống phóng túng, thảnh thơi, vui vẻ. Những cuộc dạo chơi, cả khi lên chùa theo sau ông, cũng có vài bóng “hường hường yến yến”. Tuy nhiên lúc này Nguyễn Công Trứ dường như không còn “hết mình” trong những cuộc hành lạc “Chơi cho thủng trống long bồng”. Trạng từ đủng đỉnh, nhân dạo số từ không xác định một, đôi rất có giá trị gợi tả, giúp cho người đọc hình dung ra một nhóm người thũng thẳng du ngoạn, kể cả lèn chùa, trong đó có sự trang nghiêm của ông già và sự nhùng nhẵng của những cô gái trỏ. Đó quả là một hiện tượng “trái mắt” nhưng nó chỉ đủ để biểu thị sự trêu ngươi, bất cần của tác giả chứ không thể đủ để lên án ông “đắm say tửu sắc”. Chính vì thế Bụt cùng phải bật cười – một nụ cười vừa như khoan dung vừa như chấp nhận.

Cuối cùng kết luận, Nguyễn Công Trứ tự coi sự ngất ngưởng là nét độc đáo, khác đời cứa nhân cách ông.

Ở các đoạn trôn Nguyễn Công Trứ đà định nghĩa con người mình từng giai đoạn: một tay ngất ngưởng ở quan trường, một cách làm ngất ngưởng khi nghỉ quan và một cách sống ngất ngưởng khi đả là một là một hưu quan. Đoạn này, Nguyễn Công Trứ đánh giá con người mình một cách tổng quát, toàn diện. Ông là một người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng về sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu con hát, nhưng rốt cuộc lại ông không phải là người của Phật, của tiên mà vẫn là một con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục. Người như thế thật là một nhân cách, một bản lình cao, đã “chấp” tất cả, đã không để luỵ và khinh thị tất cả những gì của thói thường. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà nho, mặc dù các bậc “phương diện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ, ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với hộ song trong phấn sâu thẳm của tâm hồn, lí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thế nào từ bỏ vẫn là lòng trung quân, giúp đời:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi chơ vẹn đạo sơ chung.

Tống kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ong đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc, sánh được với những danh tướng thời xưa. Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ dám ngông ngạo buông một câu khẳng định chắc nịch đầy vẻ thách thức:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Thơ Nguyên Cồng Trứ phong phú, nhiều vẻ Bài ca ngất ngưởng có một vị trí đặc biệt. Nó vừa là lời tuyên ngôn về quan niệm, phong cách sống, vừa tự khẳng định về nhân cách, sự nghiệp của chính mình. Chính nhờ bài thơ này với những đặc sắc nghệ thuật của nó mà hậu thế định hình một chân dung Nguyễn Công Trứ: con người ngất ngưởng.

Nhiều Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ Mộ (Chiều Tối) Của Hồ Chí Minh. Anh (Chị) Có Đồng Ý Như Vậy Không? Hãy Nêu Ý Kiến Của Mình, Phân Tích Để Làm Sáng Tỏ

Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, nhất là thể tứ tuyệt, thường có nhãn tự (chữ mắt) như là điểm sáng, cái “thần”, linh hồn của bài thơ. Người ta thường nhắc đến chữ “sầu” trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Nếu chữ “sầu” đọng lại một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong thi phẩm đời Đường, thì chữ “hồng” lại sáng lên một ngọn lửa ấm nóng trong bài thơ Chiều tối của nhà thơ cộng sản Hồ Chí Minh trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo lánh:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Nhưng bỗng tứ thơ chuyển đổi khi người tù đi qua một xóm núi bên đường. Không còn cái hiu hắt, lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng vắng lặng, câu thơ bỗng như reo vui lên trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm núi:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Con người lao động hiện ra khỏe khoắn, tươi vui, đầy sức sống mặc dù cuộc sống của họ còn nghèo nàn, vất vả (chỉ ăn ngô). Hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” hiện lên thật đẹp trong câu thơ, và càng đẹp hơn là cái ánh lửa hồng trong lò than đã tỏa ấm nóng và ánh sáng ra tất cả, đẩy lùi bóng tối và cái lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng. Ngỡ như ngọn lửa hồng đang hắt lên khuôn mặt cô gái làm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ. Tứ thơ chuyển đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng cả bài thơ, đem ấm nóng và sức sống đến cho tác phẩm. “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”. (Hoàng Trung Thông).

Nhưng do đâu mà có được nhãn tự đó? Do đâu mà một chữ “hồng” đã làm cho người đọc cảm nhận được cái “thần” của bài thơ, linh hồn của bài tứ tuyệt? Chính là do trong lòng thi nhân cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy: ngọn lửa của tình yêu cuộc sống, yêu con người không bao giờ tắt trong lòng nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả những lúc mà cuộc sống của người tù ấy không còn nữa, thì tình yêu ấy vẫn còn, và chất thơ vẫn trào lên để kết tụ lại thành một chữ “hồng” tuyệt đẹp. Ở đây, trong cảnh giải tù này, Bác làm gì còn niềm vui cho riêng mình mà chỉ có nỗi đau, nỗi buồn, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm núi, nhìn thấy cảnh cô gái xay ngô, thì niềm vui đến ngay, và tứ thơ xuất thần bay lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ. Đó là niềm vui cho người lao động, vì người lao động, và hơn thế, còn là sự trân trọng, nâng niu đối với một hạnh phúc thật bình thường, nhỏ nhoi của người lao động nơi xóm núi. Đúng như Hoài Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu không có một tấm lòng nâng niu trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được trong thơ”.

Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối (Mộ)

1.1. Mở bài

– Giới thiệu một cách khái quát về tác giả Hồ Chí Minh

– Giới thiệu về tác phẩm: xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác bài thơ

1.2. Thân bài

– Đi sâu vào phân tích hoàn cảnh sáng tác

Trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, cả ngày đó là một ngày dài Bác phải đi bộ ở đường rừng núi với xiềng xích còng vào tay chân, đã đến tận tối muộn nhưng vẫn chưa được dừng chân.

Chiều tối – khoảng thời gian chuyển giao từ ngày sang đêm, lúc mà cảm xúc thường có nhiều rung động, đối với Bác một người con xa quê thì tâm trạng lúc này là một nỗi buồn man mác rất khó diễn tả.

– Nơi núi rừng khi trời chuyển tối

Đây là bức tranh đầy ấn tượng với bút pháp thơ ca chấm phá, thêm vào đó là phong vị của phong cách thơ thời Tống mang đầy nét cổ điển, có sự sáng tạo nghệ thuật mang nét riêng của Bác.

– Vẻ đẹp tâm hồn của người làm thơ

Bác xuất hiện rất giản dị, bình thường hòa mình vào với thiên nhiên cảnh vật xung quanh. Với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy, bao nhiêu cảm xúc, khát vọng lại ùa về. Bài thơ còn thể hiện ý chí của Bác – một con người phi thường.

Bác vẽ lên một bức tranh sinh hoạt đời thường, hình ảnh con người xuất hiện trở thành trung tâm của khung cảnh rừng núi vào chiều, thể hiện một cách rõ nét cuộc sống khổ cực của những con người lao động. Từ đó có thể thấy được tình nhân ái, yêu thương nhân loại của Bác.

– Sự vận động các hình tượng trong thơ

Nghệ thuật lặp lại điệp ngữ, làm cho nhịp điệu thơ uyển chuyển, tăng lên ý nghĩa bài thơ, đặc biệt phân tích rõ từ ‘’hồng” trong câu thơ cuối để thấy trong thơ có cảnh sắc, trong cảnh có tâm tư tình cảm của Người.

– Sau phân tích bài thơ Chiều tối và đánh giá và khái quát lại toàn bộ nội dung, ý nghĩa của bài thơ

1.3. Kết bài

Nêu lên cảm nhận khi phân tích bài thơ: về các giá trị nghệ thuật, nội dung và về tâm hồn của Bác – người chiến sĩ, người con xa quê qua bài thơ.

2. Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh

2.1. Phân tích về tác giả Hồ Chí Minh

Vốn xuất thân trong  một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là người có kiến thức uyên thâm, sâu rộng, người ta thường gọi Hồ Chí Minh với cái tên vô cùng gần gũi đó là “Bác Hồ”.Ngay từ thuở  bé, tác giả Hồ Chí Minh đã rất am hiểu về văn học cũng như văn hóa của các nước phương Đông và phương Tây. Ban đầu khi còn nhỏ tác giả học chữ Hán, sau đó học chữ quốc ngữ và còn thông thạo rất nhiều thứ tiếng khác.

Là người có tinh thần yêu nước và tham gia hoạt động cách mạng hăng say: Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng Bác lên đường ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng thời gian sau đấy vào năm 1918 – 1922, Bác hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết sách, viết báo với mục đích tuyên truyền tinh thần đoàn kết các dân tộc thuộc địa và chống lại chủ nghĩa thực dân. Năm 1923 – 1941, Bác hoạt động cách mạng chủ yếu tại Trung Quốc, Liên Xô, Thái lan. Trong quá trình hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giam giữ tại nhà ngục ở Trung Quốc vào năm 1942 – 1943. Chưa một lần bỏ cuộc, Bác kiên trì trên con đường đi tìm lý tưởng cách mạng chân chính của mình, và đến ngày 2- 9 -1945, bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta đã được Bác đọc dưới sự chứng kiến hân hoan, mừng rỡ của nhân dân cả nước.

Hồ Chí Minh vừa là nhà thơ, nhà văn và cũng là nhà cách mạng lớn của dân tộc, với vô vàn tác phẩm thơ văn đã trở thành di sản quý giá của dân tộc. Phần lớn các tác phẩm văn học của Bác được chia thành các mảng như truyện, kí, văn chính luận và thơ ca. Các tác phẩm đều có phong cách nghệ thuật riêng, mang đậm phong cách của Hồ Chí Minh, Bác luôn chú ý đến cảm xúc của người đọc, luôn có quan điểm rằng tác phẩm văn học phải thật sự chân thật, vì vậy Bác rất quan trọng đến lối biểu đạt, cách thể hiện, không viết quá xa lạ, nặng nề, cầu kì.

2.2. Phân tích bài thơ Chiều tối

– Hoàn cảnh ra đời

Đây là một bài thơ được trích ra từ tập “Nhật kí trong tù”, được Bác sáng tác trong khoảng thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Nguồn cảm hứng chính để Bác sáng tác ra bài thơ này chính là lúc chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

– Bài thơ “Chiều tối”

 Hai câu đầu thể hiện bức tranh thiên nhiên rừng núi bao la, hai câu thơ cuối thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu đất nước của Bác.

– Giá trị nội dung của bài thơ

Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên ý chí lạc quan trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt của người chiến sĩ – nhà thơ Hồ Chí Minh.

– Giá trị nghệ thuật của bài thơ

Bài thơ mang đậm nét đặc trưng của thơ cổ điển, nhưng có pha thêm phần hiện đại.

3. Văn mẫu phân tích bài thơ Chiều tối tham khảo

3.1 Bài văn mẫu phân tích “Chiều tối” số 1

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu, đối với mỗi người dân Việt Nam đây là cái tên được ghi tạc trong tim với lòng kính yêu và tôn trọng vô bờ bến. Trên con đường đi theo lý tưởng cách mạng, tìm lại tự do cho dân tộc, Người đã phải chịu không ít những khó khăn, gian khổ, rất nhiều lần đã bị bắt và bị tra tấn, đánh đập dã man. Tuy nhiên, ở con người ấy dù trong bất kì hoàn cảnh nào vẫn luôn hiện hữu một tinh thần lạc quan, yêu đời mà không gì có thể dập tắt nổi. Phân tích bài thơ Chiều tối một trong những tác phẩm nằm trong tập “Nhật kí trong tù”, được Người sáng tác khi bị bắt giam đã phần nào thể hiện lên tinh thần đáng quý đó. Bài thơ tập trung thể hiện hình ảnh con người lao động trong khung cảnh một buổi chiều tà, nhưng ở bài thơ đó người đọc lại bắt gặp được một tư tưởng lớn lao, khát vọng tự do, ước mơ có thể trở về quê hương yêu dấu để hoàn thành sứ mệnh cao cả của Người.

Bài thơ được Bác sáng tác khi bị giam tại Trung Quốc và trong ngày chuyển lao từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo. Trong mắt người tù binh chân tay đang mang nặng xiềng xích, khung cảnh buổi chiều được hiện lên như sau:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Buổi chiều là khoảng thời chuyển giao giữa ngày sang đêm, khi mà người ta muốn được đoàn tụ với gia đình, và đây cũng là khoảng thời gian khiến người ta cảm thấy vô cùng lạc lõng, cô đơn nếu như phải xa nhà. Những chú chim sau một ngày bay mỏi cánh kiếm ăn cũng đã bắt đầu trở về ngôi nhà của chúng. Trên bầu trời chỉ còn những chòm mây lẻ loi lững lờ trôi. Trong thời khắc đấy, giữa thiên nhiên hùng vĩ bao la, tất cả mọi thứ đều như đang dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn đang nhẹ nhàng trôi đi, điều này càng làm nổi bật lên một khung cảnh vô cùng yên lặng, êm cả nhưng lại buồn tẻ của rừng núi khi trời vào tối.

Bác cũng giống như chính chòm mây đó, vẫn đang lặng lẽ bước đi một cách đơn độc. Chòm mây một mình cô đơn giữa bầu trời bao la, Bác cũng cô đơn giữa một đất nước xa lạ. Tuy nhiên, Bác hẳn là người có một tình yêu đặc biệt với thiên nhiên, có một tâm thái bình tĩnh, ung dung, lạc quan, yêu đời mới có thể vượt qua khỏi sự xiềng xích của gông cùm để có thể hòa mình vào thiên nhiên và có một cái nhìn về thiên nhiên đặc biệt như thế. Dù thân xác mệt mỏi, đau đớn rã rời vì vất vả đi cả một ngày, nhưng Bác vẫn hướng mắt để nhìn những chú chim bay về tổ, những đám mây nhẹ nhàng trôi lúc chiều tà.

Tuy chỉ qua hai câu thơ ngắn gọn nhưng người đọc đã hoàn toàn có thể hình dung và tưởng tượng ra khung cảnh chiều tà nơi núi rừng bao la, mênh mông, vắng vẻ, âm u, quạnh hiu. Đồng thời  cũng làm cho người đọc thấy rõ được một niềm khát khao, mong ước vô cùng lớn lao muốn được tự do trở về quê nhà của Bác.

Trong cái khung cảnh thiên nhiên bao la, mênh mông, đượm nỗi buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi vắng vẻ ấy bỗng nhiên xuất hiện hình bóng của con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

Giữa bốn bề thiên nhiên buồn như trong thơ cổ ấy, hình ảnh cô sơn nữ xuất hiện như một điểm sáng, làm cho bức tranh ảm đạm bỗng trở nên vui tươi, sinh động hơn. Đó chính là nét cố điển hiện đại mà chỉ trong thơ của Hồ Chính Minh mới có. Bức tranh vừa vẽ lên con người, vừa thể hiện hoạt động khỏe khoắn của một con người lao động, trong đó cô thôn nữ đang miệt mài với công việc xay ngô, cô ngồi xay ngô bên lò than đang cháy hồng để chuẩn bị cho bữa tối.

Ở bản dịch thơ không thể đảm bảo được nghệ thuật mà Bác đã sử dụng trong bản tiếng Hán, Bác đã dùng nghệ thuật lặp từ, lặp lại hai lần từ “Bao túc” ở cuối câu thơ thứ ba và đầu câu thơ cuối, như chính những vòng xoay, như sự tuần hoàn của không gian, thời gian ám chỉ trời đang tối dần và tối dần.

Bức tranh đó hiện lên vừa ấm áp, vừa gần gũi từ hình ảnh của cô thôn nữ lao động khỏe khoắn và từ hình ảnh của ánh lửa hồng ánh ra từ bếp lò. Đó chính là một cảm xúc hạnh phúc đến bình dị, Bác đã gạt bỏ hết những mệt mỏi, đau đớn về thân xác để cảm nhận được cảm xúc đó.

Nhà văn Nam Cao đã từng nói rằng: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác.” Để thể hiện rằng, mỗi con người đều luôn lo lắng cho bản thân mình nhiều hơn là lo cho người khác. Thế nhưng ở đây, Bác – một con người với bao nỗi lo cho dân tộc, cho đất nước vậy mà Bác vẫn còn tâm trí để quan tâm đến những thứ bình dị, nhỏ nhặt xung quanh. Đó chính là nhân cách cao đẹp, đức tính vô cùng đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.

Khi phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rằng đây là một bài thơ tiêu biểu của Hồ Chí Minh thể hiện một nét đẹp vừa cổ điển vừa mang nét hiện đại. Bài thơ không chỉ đơn giản là vẽ lên bức tranh thiên nhiên cũng như con người nơi xóm núi vào lúc chiều tà, mà còn ẩn sâu trong đó tâm tư tình cảm của Bác, niềm khát khao tự do và mong ước được trở về quê hương đất nước, sum họp với gia đình. Đồng thời người đọc cũng có thể nhận thấy được, ở Người luôn mang một vẻ đẹp lớn lao của tinh thần nồng nàn yêu nước, một trái tim ấm áp, giàu lòng yêu thương, dù ở bất kì hoàn cảnh gian khổ khó khăn nào vẫn luôn quan tâm đến mọi thứ xung quanh.

Tóm tắt: Đọc bài phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rõ tâm hồn của Bác, cho người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người vượt qua một hoàn cảnh khó khăn gian khổ.

3.2 Bài văn mẫu số 2 phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ “Chiều tối” 

“Đi khắp đèo cao khắp núi cao

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao

Núi cao gặp hổ mà vô sự

Đường phẳng gặp người bị tống lao”

(Đường khó khăn)

Hồ Chí Minh đã viết những câu thơ này khi bị bắt giam tại nhà lao Tưởng Giới Thạch, trong thời gian đó, Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” ghi lại những gian khổ, khó khăn mà mình đã trải qua. Nhưng dù có khó khăn, đày đọa, ở người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn ngời sáng một niềm tin và ý chí cách kiên cường. Tinh thần thép này được thể hiện ở rất nhiều tác phẩm trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến là “Chiều tối”. Đọc bài thơ, ta thấy được nét hiện đại và cổ điển cùng với vẻ đẹp tâm hồn của vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” gồm 134 bài thơ. Bài thơ được sáng tác trên đường bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây tới nhà lao Thiên Bảo, trong một buổi chiều tối tại một vùng rừng núi bao quanh. Trong thơ vừa có nét cổ điển mà ta vẫn thường bắt gặp trong thơ Đường, cũng vừa có nét hiện đại của người chiến sĩ cách mạng.

Trước tiên nét cổ điển của bài thơ được thể hiện qua hai câu thơ đầu:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh chiều tối vốn là một cảnh quen thuộc trong thơ cổ, nhiều nhà thơ đã chọn khung cảnh buổi chiều tối, khi ánh mặt trời vừa tắt để thể hiện tâm trạng buồn man mác của mình. Trong bài thơ “Cảnh ngày hè”, buổi chiều tối với Nguyễn Trãi là ánh dương còn sót lại trên “lầu tịch dương”: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, Lý Bạch xưa cũng từng lấy hình ảnh cánh chim và chòm mây để vẽ lên bức tranh chiều tối:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”

(Chim bầy vút bay hết

Mây lẻ đi một mình)

(Độc tọa kính Đình Sơn_Lý Bạch)

Hay trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta cũng nhiều lần bắt gặp bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà nơi đèo núi “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà lảng bảng bóng hoàng hôn”. Hay trong “Tràng Giang”, Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh chim nghiêng để diễn tả khoảnh khắc ngày tàn: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”.

Nếu như trong thơ cổ, cảnh chiều thường gợi một cảm giác buồn mênh mông, vô định thì trong thơ Bác, cánh chim và chòm mây dường như thể hiện rất rõ tâm trạng của con người gửi gắm trong đó. Cánh chim “mỏi” hay chính người tù đang cảm thấy mỏi mệt sau một ngày dài bị đày lao, đi những chặng đường dài. Hành trình tìm một nơi chốn nghỉ ngơi sau một ngày dài kiếm ăn vất vả phải chăng chính là niềm mong mỏi của Bác có một chốn nghỉ chân khi buổi chiều đã dần buông xuống.

Hồ Chí Minh dường như thấy được chuyển động bên trong của cảnh vật, từ “cánh chim mỏi” đến chòm mây “lẻ loi”. Bút pháp cổ điển chấm phá, hình ảnh ước lệ tượng trưng là hình ảnh ta vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ, nay đã được thể hiện rất xuất sắc trong thơ Bác. Qua đó, ta thấy được bức tranh thiên nhiên núi rừng rộng lớn, thoáng đãng, đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên của Bác, dù cho có mỏi mệt nhưng tầm mắt vẫn hướng lên trời cao với một tư thế hiên ngang để cảm nhận sức sống của từng cảnh vật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, Hồ Chí Minh bằng bút pháp cổ điển đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tối, đồng thời phần nào thể hiện tâm trạng của người tù cách mạng thì ở hai câu thơ cuối bằng nét vẽ hiện đại, nhà thơ đã tập trung làm nổi bật bức tranh cuộc sống con người mà trung tâm của bức tranh ấy chính là vẻ đẹp của người lao động bình dị:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bức tranh thiên nhiên đã không còn vẻ buồn, u tối, lạnh lẽo mà trở nên sinh động hơn, có sức sống hơn, ấm áp hơn. Bức tranh cảnh vật đã nhường chỗ cho bức tranh cuộc sống con người, thời gian đã có sự chuyển biến từ chiều sang tối mặc dù trong câu thơ không hề có một chữ “tối” nào được nhắc đến.

Hai câu thơ là vẻ đẹp hiện đại của bức tranh sinh hoạt bình dị, trung tâm bức tranh là cô em gái xóm núi đang thực hiện công việc hàng ngày là “xay ngô tối”, công việc vất vả, nặng nhọc nhưng ta lại cảm nhận được niềm vui, sự hăng say của người lao động khi thực hiện công việc đó.

Hình ảnh “lò than đã rực hồng” đã thể hiện sự vận động của thời gian, từ tối chuyển sang đêm. Chữ “hồng” ở cuối bài chính là nhãn tự của bài thơ, vừa gợi lên sự ấm áp, vừa gợi một nét tươi sáng, ở thời điểm sáng tác bài thơ, ta có thể xem như đây là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng hay chính là thắng lợi của cách mạng.

Trong nhiều bài thơ khác, Bác cũng từng nhắc về chữ ‘hồng”, điều này thể hiện một tinh thần lạc quan, luôn hướng về ánh sáng:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”

(Tảo giải)

hay:

“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc

Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài

Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”

Thành công của Bác chính là việc kết hợp hài hòa chất cổ điển và nét hiện đại trữ tình, giữa tâm hồn thơ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tâm hồn của một người lính cách mạng kiên cường, lạc quan, luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Tác phẩm “Chiều tối” đã thể hiện rất rõ tài hoa của Người cũng như tâm hồn đẹp, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chính vì nét đẹp sáng ngời trong tâm hồn Bác mà Tố Hữu đã từng viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người”

Những vần thơ của Bác sẽ vẫn sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam thế hệ bây giờ và cho mãi về sau.

Ôn Tập Bài Thơ Mộ ( Chiều Tối)

Ôn tập bài thơ Mộ ( Chiều Tối)

– Hồ Chí Minh là nhà văn, nhà thơ lớn. “Nhật ký trong tù” là tác phẩm tiêu biểu của Người. Tập thơ ra đời trong thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc.

– Bài thơ “Chiều tối” được viết khi Bác bị chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

– Qua bức tranh chiều tối nơi xóm núi, bài thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu con người và luôn hướng về cuộc sống của Bác.

1. Bức tranh cảnh chiều tối buồn vắng nơi xóm núi khi người tù bị giải đi qua: (Câu 1 + 2).

– Nghệ thuật lấy không gian tả thời gian, lấy động tả tĩnh.

2. Bức tranh sinh hoạt rực sáng hình ảnh con người: (Câu 3 + 4).

– Hình ảnh cô gái xay ngô bên bếp lửa rực hồng khiến bức tranh thơ thêm sinh động. Ý thơ có sự vận động, ghi được cảnh sinh hoạt, sự sống của con ngừơi ấm no và bình dị. Ngọn lửa hồng tỏa ấm bức tranh, xua tan cái lạnh, cái buồn, cái vắng vẻ cô đơn của cảnh vật nơi núi rừng lúc chiều tối.

3. Từ cảnh vật liên hệ đến hoàn cảnh người tù (tuy không xuất hiện).

– Bị áp giải, đi bộ suốt ngày đã mệt mỏi (giống cánh chim), cô đơn, lẻ loi nơi đất khách, đói, mệt và một nhà tù khác đang chờ đợi, lạnh lẽo và dơ bẩn.

– Vậy mà, nhìn thiên nhiên, thấy sự sống diễn ra bình thường (chim vẫn về tổ, mây vẫn trôi nhẹ) lòng cũng cảm thấy nhẹ nhàng thư thái; nhìn sinh hoạt của con người, thấy ánh lửa hồng, cũng cảm thấy ấm áp, vui tươi, phấn khởi.

– “Chiều tối” tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh: miêu tả cảnh bằng bút pháp ước lệ với vài nét chấm phá; kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại: Bức tranh chiều với bút pháp thơ cổ dễ gợi buồn- nhưng ở đây lại ấm áp tình người và niềm tin vào cuộc sống.

– Bài thơ bộc lộ phẩm chất cao đẹp của Bác: một bản lĩnh phi thường, một tấm lòng nhân đạo bao la đến quên mình, một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước cảnh vật thiên nhiên. Chất thơ và chất thép hài hòa trong bài thơ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Làm Rõ Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ “Mộ” (Chiều Tối) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!