Bạn đang xem bài viết Kể Truyện Cổ Tích: Bạch Tuyết Và Hồng Hoa được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đón nghe những câu chuyện cổ tích của nước ngoài sẽ giúp các em có thêm những hiểu biết khác về văn hoá, tập quán… mở ra những chân trời mới thay vì những điều thân thuộc của quê hương. Chương trình hôm nay, chị Thu Loan sẽ kể cho các em nghe truyện cổ tích “Bạch Tuyết và Hồng Hoa”. Mời các em cùng nghe!
BÌNH LUẬN FACEBOOK
Kể Chuyện Cổ Tích: Nàng Bạch Tuyết Và Bảy Chú Lùn
Các em thân mến, “Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn” là câu chuyện cổ tích của Đức, được biết đến qua nhiều nước châu Âu và ngày nay là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất thế giới. Chuyện mang lại cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá.
BÌNH LUẬN FACEBOOK
Truyện Cổ Tích Nước Ngoài Nàng Bạch Tuyết Và Bảy Chú Lùn Nổi Tiếng Cho Bé
Chuyện xưa kể rằng hồi ấy, khi trời đang ở giữa mùa đông lạnh giá, những bông hoa tuyết y như những chiếc lông chim trắng muốt bay phấp phới khắp bầu trời, một bà hoàng hậu đang ngồi khâu ở bên bậu cửa sổ. Chiếc khung cửa được làm từ gỗ mun đen nhánh. Bà hoàng hậu tuy ngồi khâu nhưng bà lại quá mải mê ngắm nhìn những bông tuyết xinh đẹp đang rơi ngoài kia, vì không chú ý nên kim khâu đâm vào đầu ngón tay của bà, có ba giọt máu màu đỏ tươi rớt xuống dưới nền tuyết trắng. Hoàng hậu trông thấy màu máu đỏ nổi bật ở trên nền tuyết trắng, bà thì thầm:
– Giá như mình có được một đứa con có làn da trắng như tuyết, màu môi hồng hào như là màu đỏ tươi của máu, tóc thì đen nhánh như là gỗ mun làm khung cửa sổ này. Nếu được như vậy thì tốt quá nhỉ. Không lâu sau thì hoàng hậu mang bầu và hạ sinh một nàng công chúa có làn da trắng như là tuyết, môi đỏ như là son, tóc thì đen nhánh như là gỗ mun, bởi vậy nên hoàng hậu liền đặt tên cho con gái của mình là Bạch Tuyết. Tuy nhiên, khi hạ sinh công chúa xong thì hoàng hậu cũng qua đời.
Nhà vua để tang vợ mình tròn một năm, sau đó thì cưới người vợ khác làm hoàng hậu. Vị hoàng hậu mới này vô cùng xinh đẹp, tuy nhiên thì tính cách của mụ lại rất kiêu ngạo và ngông cuồng. Chỉ cần mụ ta nghe được người khác nói rằng có người xinh đẹp hơn mụ là mụ sẽ tức điên lên. Mụ ta có chiếc gương thần vô cùng màu nhiệm, mụ thường hay ngắm nhìn nhan sắc của mình trước gương, mỗi lần như vậy mụ lại hỏi gương thần rằng: – Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Mỗi lần mụ ta hỏi như vậy thì gương thần đều thành thật mà trả lời:
– Muôn tâu hoàng hậu, hoàng hậu chính là người đẹp nhất trên thế gian này.
Nghe câu trả lời của gương thì hoàng hậu vô cùng hài lòng, bởi vì mụ biết rằng gương thần chưa bao giờ nói dối cả.
Tuy nhiên, thời gian qua đi, nàng công chúa Bạch Tuyết của chúng ta càng ngày càng lớn, và càng ngày càng xinh đẹp hơn. Khi nàng lên bảy tuổi thì nàng đẹp như là nắng sớm mai, vẻ đẹp của nàng hơn hẳn vị hoàng hậu kia. Có một lần hoàng hậu lại tìm đến gương thần, mụ ta lại hỏi:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Nhưng lần này, ngoài ý muốn của hoàng hậu, gương thần lại trả lời rằng:
– Muôn tâu hoàng hậu, Xưa kia bà đẹp nhất trần, Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Hoàng hậu nghe gương thần trả lời thì giật mình, khuôn mặt xinh đẹp của mụ lập tức tái xanh đi vì tức giận cùng ghen ghét. Kể từ ngày đó trở đi, chỉ cần mụ ta thoáng trông thấy nàng Bạch Tuyết thì mụ lại cảm thấy vô cùng khó chịu, trong lòng thì đong đầy bực tức, cứ dần dần lại càng căm ghét Bạch Tuyết hơn nữa. Sự ghen ghét nảy mầm trong lòng hoàng hậu, và mỗi ngày lại một lớn hơn, lòng đố kỵ ngày càng thêm mãnh liệt khiến cho mụ cả ngày lẫn đêm đều cảm thấy bực bội và bứt rứt không yên. Mụ lập tức cho tìm đến một tên thợ săn và ra lệnh:
– Ngươi mau mang con bé kia vào tận trong rừng sâu, ta không bao giờ muốn trông thấy mặt của nó nữa. Ngươi phải giết nó rồi mang gan và phổi của nó về đây cho ta. Có như vậy ta mới biết rằng ngươi đã giết nó hay chưa.
Người thợ săn nhận mệnh đem nàng Bạch Tuyết vào tận trong rừng sâu tăm tối. Tuy nhiên, lúc bác vừa rút con dao ra khỏi vỏ định giết, cô bé đột nhiên khóc lớn và bảo:
– Chao ôi, hỡi bác thợ săn thân yêu, bác làm ơn hãy để cháu được sống, cháu sẽ chạy sâu vào trong khu rừng hoang vu này, cháu hứa là sẽ chẳng vào giờ đặt chân lại lâu đài nữa.
Bác thợ săn nhìn cô bé xinh đẹp van khóc thảm thiết thì cũng động lòng thương hại, vì thế bác liền bảo:
– Giờ con hãy chạy trốn thật sâu vào trong rừng kia, thật tội nghiệp cho con.
Trong bụng bác lại thầm nghĩ rằng: “Có khi cô bé vào trong rừng ấy lại bị lũ thú dữ ăn thịt mất thôi”. Tuy nhiên thì bác cũng cảm thấy gánh nặng vơi bớt vì đã chẳng phải ra tay giết một cô bé đáng thương như thế.
Vừa lúc ấy thì có con lợn rừng đột nhiên nhảy tới, vì thế bác thợ săn liền đâm chết nó, sau đó moi gan và phổi để mang về giao cho hoàng hậu như là bằng chứng để chứng minh rằng Bạch Tuyết đã bị giết chết. Mụ ta liền sai đầu bếp đem gan và phổi đi xào cho mụ ăn. Vì cứ ngỡ đó là gan và phổi của Bạch Tuyết nên mụ ăn kỳ hết mới thôi.
Lại nói về nàng Bạch Tuyết bất hạnh của chúng ta, từ lúc rời khỏi chỗ bác thợ săn thì cô cứ một mình lủi thủi ở trong khu rừng rậm mênh mông ấy, cô rất sợ hãi, đôi mắt ngơ ngác cứ nhìn khắp nơi, nhìn từ cành cây cho tới ngọn cỏ, cô chẳng biết mình nên làm gì vào lúc này nữa.
Bỗng nhiên cô lại cắm đầu cắm cổ chạy, cô giẫm lên cả những gai cùng đá nhọn. Lũ thú dữ vẫn cứ lượn quanh nhưng chẳng con nào nhào tới đụng vào người cô cả. Bạch Tuyết cứ thế mà chạy mãi, cô chạy cho tới khi trời đã sẩm tối thì cô trông thấy đằng xa có một ngôi nhà nhỏ. Quá mệt mỏi, cô liền bước tới mong có chỗ để nghỉ chân.
Khi cô bước vào bên trong nhà thì mọi đồ vật ở trong căn nhà ấy đều bé xíu, nhỏ xinh và cũng rất sạch sẽ, không thể nào chê bai được một điều gì cả. Ở ngay giữa nhà chính là một chiếc bàn, trên nó được trải tấm khăn màu trắng tinh, bên trên bàn có bày ra bảy chiếc đĩa nhỏ, trên mỗi chiếc đĩa lại có một chiếc thìa nhỏ, một con dao nhỏ, một chiếc nĩa nhỏ, và còn có một chiếc ly cũng nhỏ và xinh nốt. Ở sát hai bên tường thì có kê bảy chiếc giường khá nhỏ nằm nối tiếp nhau, ở trên giường đều phủ khăn màu trắng phau.
Cả một ngày lang thang trong rừng sâu khiến bụng của Bạch Tuyết đều đã cồn cào vì đói khát rồi. Nàng liền ăn một chút thức ăn ở mỗi đĩa, và rồi lại uống một hớp nhỏ rượu vang ở mỗi chiếc ly. Mặc dù cô rất đói nhưng cô lại không muốn bất kì ai phải mất phần vì mình.
Và khi bụng đã đỡ đói, đôi chân đã phải rong ruổi trong rừng cả ngày giờ đây mỏi nhừ, vì quá mệt nên cô muốn nằm ngay lên giường mà ngủ một giấc, nhưng những chiếc giường này chiếc nào chiếc nấy đều không vừa với cô, cái thì lại quá dài, cái thì lại quá ngắn. Bạch Tuyết đi một lượt và thử thì phải đến chiếc giường thứ bảy cô mới cảm thấy được, vì vậy cô nằm đó mà thiếp đi.
Khi bầu trời bên ngoài đã tối mịt thì những người chủ nhân của ngôi nhà nhỏ xinh này mới trở về, họ là bảy chú lùn, công việc thường ngày của họ chính là đào bới ở mỏ quặng sắt sâu trong núi. Trở về đến nhà, họ cùng nhau thắp sáng bảy ngọn đèn nhỏ, ánh sáng lan tỏa khắp trong căn nhà và họ cảm giấc được như có người đã vào trong nhà của mình. Bởi vì tất cả những đồ vật ở trong căn nhà của họ đều không giữ nguyên được như lúc họ mới đi làm.
Chú lùn thứ nhất ngạc nhiên nói:
– Đã có ai ngồi vào chiếc ghế xinh đẹp này của tôi rồi?
Chú lùn thứ hai cũng kêu lên:
– Người nào đã ăn nho trong đĩa của tôi thế?
Chú lùn thứ ba lại nói:
– Người nào lại ăn bánh trong đĩa của tôi vậy?
Chú lùn thứ tư nói tiếp:
– Là ai đã ăn rau trong đĩa nhỏ của tôi?
Chú lùn thứ năm bảo:
– Đã có người dùng chiếc nĩa nhỏ xinh của tôi mà cắt gì đó?
Chú lùn thứ sáu tiếp lời:
– Có người dùng con dao bé xíu của tôi làm gì rồi đấy?
Và chú lùn thứ bảy cũng không khỏi bất ngờ:
– Là người nào lại uống nước trong chiếc ly của thôi vậy?
Tất cả các chú lùn đều chạy về chiếc giường của mình mà kêu lên:
– Hình như có người vừa nằm lên trên chiếc giường của tôi thì phải?
Chú lùn thứ bảy cũng kiểm tra chiếc giường của mình, chú trông thấy nàng Bạch Tuyết vẫn đang ngủ say. Chú lập tức gọi mọi người tới. Tất cả đều hết sức ngạc nhiên vì vị khách lạ, họ đem tới bảy cây đèn rồi soi vào Bạch Tuyết, rồi họ cùng nhau reo lên đầy vui mừng:
– Ôi chao, cô bé này sao mà lại xinh đẹp thế nhỉ!
Các chú lùn thấy vậy thì rất vui mừng, cũng không nỡ đánh thức Bạch Tuyết dậy, họ giữ im lặng để cô bé được ngủ ngon. Còn chú lùn thứ bảy không có giường đành phải ngủ nhờ ở giường của những người bạn khác, chú ngủ nhờ mỗi giường một giờ, và thế cũng qua được một đêm.
Khi bầu trời đã hửng sáng thì Bạch Tuyết tỉnh lại, trông thấy cả bảy chú lùn đang vây quanh mình, nhìn mình tò mò thì cô rất sợ hãi. Tuy nhiên họ đều rất thân thiện, vui vẻ mà hỏi cô rằng:
– Tên cô là gì thế?
Cô cũng đáp lại:
– Tên em là Bạch Tuyết.
Và các chú lùn lại tiếp tục hỏi:
– Tại sao cô lại tới được ngôi nhà của bọn tôi vậy?
Rồi Bạch Tuyết thành thật mà kể lại cho mọi người nghe toàn bộ câu chuyện của mình, về mụ dì ghẻ đã tìm cách hãm hại cô như thế nào, chuyện bác thợ săn tốt bụng đã thả cho cô đi ra sao, và cả chuyện cô đã phải chạy trốn cả ngày ở trong rừng sâu và tới được ngôi nhà của họ nữa. Nghe xong câu chuyện vô cùng đáng thương của cô, bảy chú lùn liền bảo cô là:
– Đã vậy thì cô hãy ở lại đây với chúng tôi, nếu như cô có thể trông nom chuyện nhà cửa, rũ giường, nấu ăn, giặt quần áo, thêu thùa, khâu vá, dọn dẹp và quét tước nhà cửa sạch sẽ và ngăn nắp. Nếu cô đồng ý thì từ nay về sau cuộc sống của cô sẽ chẳng thiếu thốn gì nữa.
Lời đề nghị này của bảy chú lùn khiến cho Bạch Tuyết vô cùng vui mừng, cô lập tức trả lời:
– Vâng, nếu được vậy thì em rất sẵn lòng.
Kể từ ngày đó trở đi thì Bạch Tuyết liền ở lại cùng bảy chú lùn trong ngôi nhà nhỏ tận sâu trong rừng. Cô nhận đảm đương tất cả những công việc vặt ở trong nhà, mỗi buổi sáng khi bảy chú lùn kéo nhau đi đào mỏ ở trong rừng sâu để tìm vàng và sắt, đến chiều tối muộn trở về thì đã thấy thức ăn của mình được bày biện đẹp đẽ ngay trên bàn ăn. Bởi vì suốt ngày Bạch Tuyết đều phải ở lại trông nhà một mình nên bảy chú lùn không bao giờ quên nhắc nhở cô là:
Mụ hoàng hậu ở lâu đài vẫn luôn tin rằng mình đã ăn được gan và phổi của Bạch Tuyết nên từ giờ sẽ chỉ có mình mụ là người xinh đẹp nhất trên thế gian này. Mụ lại tới chỗ gương thần, nhìn mình trong gương mụ hỏi:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Gương liền trả lời ngay: – Muôn tâu hoàng hậu, Xưa kia bà đẹp nhất trần, Nhưng nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn. Nàng ở khuất tận núi non, Trong nhà của bảy chú lùn xa xa.
Hoàng hậu vô cùng hoảng hốt, bởi vì mụ biết gương thần chưa từng nói dối điều gì. Vì vậy mụ nghĩ ngay tới chuyện gã thợ săn kia đã lừa mụ, để cho Bạch Tuyết sống và chạy thoát. Giờ mụ ta lại phải ngồi mà nghĩ ra kế nào đó để giết bằng được Bạch Tuyết mới thôi, khi nào mà gương chưa nói mụ là người xinh đẹp nhất trần thì cơn ghen tức này sẽ còn khiến cho mụ mất ăn và mất ngủ mãi.
Sau khi đã suy nghĩ rất nhiều, mụ đột nhiên nghĩ ra được kế rất hay, mụ lấy phấn bôi lên mặt, đem mặc lên người bộ quần áo khác để giả trang thành bà lão bán hàng, dù cho là ai gặp cũng không thể nhận ra đó là hoàng hậu. Với hình dạng mới của mình, mụ lập tức vượt qua bảy ngọn núi cao và tìm tới nhà của bảy chú lùn. Khi đến nơi, mụ nhẹ nhàng gõ lên cánh cửa kia và rao rằng:
– Hàng đẹp, hàng tốt đây, người nào mua không, ai mua đi!
Nghe tiếng rao hàng bên ngoài, Bạch Tuyết tò mò nên mở cửa sổ và thò đầu ra bên ngoài, cô hỏi bà cụ:
– Cháu chào bà ạ! Bà đang bán gì vậy ạ?
Bà lão liền đáp lời nàng:
Vừa nói thì bà lão vừa lấy ra chiếc dây lưng bằng tơ ngũ sắc vô cùng xinh đẹp ra. Nhìn dây lưng rồi lại nhìn bà cụ bán hàng, Bạch Tuyết thầm nghĩ trong lòng: “Nhìn bà lão này thật thà như vậy, chắc mình có thể để cho bà vào trong nhà cũng được”. Vì thế cô lập tức mở cửa rồi chọn mua cho mình chiếc dây lưng đẹp nhất. Bà lão liền bảo cô:
– Con à, nhìn con xem, buộc thật vụng về, hãy lại gần đây để bà buộc giúp cho con thật đẹp, thật cẩn thận.
Nghe lời bà lão, Bạch Tuyết chẳng e ngại hay nghi ngờ gì cả, nàng liền tới đứng ngay trước mặt bà lão để bà giúp mình buộc chiếc dây lưng mà cô mới mua. Đôi tay già nua của bà lão cứ thoăn thoắt mà buộc lại dây lưng, nhưng mụ ta thắt đến chặt cứng khiến cho nàng Bạch Tuyết phải nghẹt thở, và nàng lăn ra đất bất tỉnh luôn. Mụ nhìn cô nằm ở dưới đất, vô cùng hài lòng:
Sau đó mụ ta vội vàng rời khỏi ngôi nhà mà trở lại lâu đài của mình. Không lâu sau thì trời tối hắn, bảy chú lùn cùng nhau trở về nhà, khi thấy nàng Bạch Tuyết chúng yêu quý đang sõng soài dưới đất như là người chết, cả cơ thể cũng chẳng nhúc nhích hay cử động lấy một cái thì họ đều vô cùng lo lắng.
Khi họ chuẩn bị nhấc cô lên khỏi mặt đất lạnh lẽo thì thấy dây lưng của cô thắt rất chặt, họ lập tức chạy đi lấy dao tới và cắt phăng nó đi. Một lát sau thì Bạch Tuyết dần thở khe khẽ rồi tỉnh lại. Bạch Tuyết kể lại cho các chú lùn nghe về chuyện đã xảy ra buổi chiều, bảy chú lùn lúc này mới bảo:
– Cái mụ già bán hàng đó chắc chắn chính là mụ hoàng hậu xấu xa, độc ác kia rồi, cô phải cố mà giữ mình thật cẩn thận đấy, lúc chúng tôi đều đi vắng cả thì đừng có cho người lạ vào trong nhà.
Còn mụ hoàng hậu kia, khi rời khỏi khu rừng đó về tới lâu đài, mụ ta lại tìm tới trước gương thần mà hỏi gương:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Cũng như tất cả những lần trước, gương thần lại thành thật giải đáp:
– Muôn tâu hoàng hậu, Xưa kia bà đẹp nhất trần, Nhưng nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn. Nàng ở khuất tận núi non, Trong nhà của bảy chú lùn xa xa.
Hoàng hậu nghe xong thì máu trong người lập tức sôi trào vì tức giận. Bởi vì mụ biết rằng Bạch Tuyết đã được cứu sống. Mụ lầm bầm:
Mụ dùng những phép thuật quỷ quái để làm ra chiếc lược có tẩm thuốc độc cực mạnh. Sau đó mụ lại ăn mặc giả trang thành một bà lão bán hàng khác hẳn lần trước. Mụ lại vất vả vượt qua bảy ngọn núi cao để tới được ngôi nhà của bảy chú lùn lần nữa. Đến trước cửa thì mụ liền gõ vài cái, rao lên thật to là:
– Hàng đẹp hàng tốt đây, có ai mua không?
Nghe thấy tiếng rao hàng, Bạch Tuyết cũng ngó ra ngoài như lần trước, nhưng cô lại bảo:
– Bà hãy đi đi, tôi đã được dặn là không được cho bất kì ai vào trong nhà rồi!
Mụ ta nhẹ nhàng bảo:
– Nhưng chắc là không có ai cấm con được cầm xem cái lược này đâu nhỉ?
Mụ lấy từ trong giỏ ra chiếc lược đã được tẩm thuốc độc đưa về phía Bạch Tuyết. Nhìn thấy chiếc lược kia, vì thích quá nên cô quên hết tất cả những lời dặn dò của bảy chú lùn, vội vàng chạy ra mở cửa ngay. Đôi bên sau khi đã thỏa thận mua bán xong thì mụ già ấy mới nói:
Bạch Tuyết đáng thương không hề có chút nghi ngờ và đề phòng nào, thấy bà lão bán hàng nhiệt tình giúp đỡ thì đồng ý ngay. Tuy nhiên, khi chiếc lược ấy vừa mới chạm vào làn tóc dài của cô thì cô bị ngấm thuốc độc ngay, ngã lăn xuống đất mà bất tỉnh nhân sự. Mụ già xấu xa cười nói:
– Người đẹp nhất trần gian cuối cùng cũng phải đi đời nhà ma thôi!
Dứt lời mụ ta liền quay lưng bỏ đi. May mắn là trời lúc ấy cũng gần tối rồi, chỉ một lát là bảy chú lùn đã từ khu mỏ trở lại nhà. Khi thấy cô ngã dưới đất như một người chết thì họ nghĩ ngay tới mụ dì ghẻ độc ác của cô. Vì vậy cả bảy người vội vàng lùng sục để tìm kiếm hung khí.
Họ tìm thấy trong mái tóc dày của cô có cắm một chiếc lược lạ, khi lược được lấy ra thì cô dần dần tỉnh lại. Bạch Tuyết lại đem toàn bộ câu chuyện kể lại cho bảy chú lùn nghe. Lần này họ cũng lại căn dặn cô phải hết sức cẩn thận, dù là ai tới gần nhà thì cũng nhất định không được mở cửa.
Mụ hoàng hậu sau khi làm xong mọi việc và trở lại lâu đài thì lập tức lại tới tìm gương thần mà hỏi:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Câu trả lời của gương thần vẫn không hề thay đổi:
– Muôn tâu hoàng hậu, Xưa kia bà đẹp nhất trần, Nhưng nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn. Nàng ở khuất tận núi non, Trong nhà của bảy chú lùn xa xa.
Khi nghe hết câu trả lời của gương thần thì cả người của mụ cũng phải run lên bần bật vì phẫn nộ. Mụ hét lớn:
– Bạch Tuyết, tao nhất định phải giết chết mày, mày chết rồi thì tao mất mạng cũng sẽ cam lòng.
Mụ tìm tới căn phòng trống ở dưới tầng hầm của lâu đài, đó là một nơi vô cùng hẻo lánh, chẳng có ai bước lại đó cả. Mụ ta chuẩn bị một quả táo cùng một lọ thuốc độc, mụ tỉ mỉ tẩm thuốc độc cho quả táo ấy, khi ngấm thuốc độc rồi thì quả táo có màu chín đỏ vô cùng ngon mắt, bất cứ ai nhìn vào cũng muốn được ăn ngay tức khắc. Tuy nhiên thì nếu ai đó cắn một miếng thôi thì sẽ mất mạng ngay lập tức.
Chuẩn bị táo độc xong, mụ ta lại bôi mặt và ăn mặc như là một bà nông dân hiền lành. Sau đó lại vất vả mà vượt qua bảy ngọn núi cao để tới được ngôi nhà của bảy chú lùn. Đứng trước cánh cửa của căn nhà, mụ nhẹ nhàng gõ cửa. Bạch Tuyết liền thò đầu từ ô cửa sổ nhỏ mà nói rằng:
– Bà hãy đi đi. Cháu không được cho bất kì ai vào trong nhà đâu. Bảy chú lùn cấm rồi ạ!
Bà già ấy nhìn Bạch Tuyết và bảo:
Nhưng lần này Bạch Tuyết nhất định từ chối:
– Không cần đâu ạ. Bởi vì cháu đã bị cấm không được nhận bất cứ thứ gì của người lạ rồi.
Bà già vẫn không bỏ cuộc, bà ta nói:
Mụ ta tẩm chất độc vô cùng khéo léo, một nửa quả táo chín đỏ ấy chính là phần bị dính chất độc, còn phần màu trắng kia hoàn toàn không có vấn đề gì cả. Bạch Tuyết cứ hau háu mà theo dõi quả táo ngon lành ấy. Bà nông dân sau khi ăn nửa quả táo mà không hề gì thì cô chẳng thể nào cầm lòng được nữa, lập tức đưa tay ra nhận lấy nửa quả táo đỏ ngấm thuốc độc kia. Khi Bạch Tuyết vừa cắn vào một miếng thì lập tức lăn ra đất chết ngay.
Mụ hoàng hậu vô cùng hả hê mà nhìn cô, ánh mắt mụ ta gườm gườm, nụ cười khanh khách đáng sợ:
– Trắng như là tuyết à, đỏ như là máu à, đen như là gỗ mun à. Lần này mấy thằng lùn kia còn lâu mới đánh thức được mày sống lại, con ạ!
Khi về đến lâu đài, mụ lập tức tới gặp gương thần và hỏi:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Lần này thì gương lại trả lời rằng:
– Muôn tâu hoàng hậu, hoàng hậu chính là người đẹp nhất trên thế gian này.
Khi nghe được câu trả lời của gương thì lòng ghen ghét và đố kỵ trong lòng mụ mới được nguôi, bây giờ mụ mới cảm thấy mình được mãn nguyện.
Như mọi ngày, khi trời đã tối thì bảy chú lùn lại trở về nhà, khi họ bước chân vào trong nhà thì lại thấy Bạch Tuyết sõng soài ở dưới đất, trái tim của cô cũng đã ngừng đập rồi, hơi thở cũng chẳng thấy đâu nữa, Bạch Tuyết của họ đã chết.
Bảy chú lùn hốt hoảng vội vã nâng cô dậy, rồi cố gắng tìm kiếm chất độc, sau đó lại chạy đi lấy nước, lấy rượu tới lau mặt cho cô, tuy nhiên dù làm đủ mọi cách mà vẫn chẳng ăn thua. Và cô bé đáng thương đã chết, lần này thì cô ấy thực sự chết thật rồi.
Tất cả liền đặt cô vào trong chiếc quan tài, bảy chú lùn đều ngồi xung quanh quan tài mà khóc lóc, họ khóc liền ba ngày. Sau đó họ định đem cô đi chôn cất, nhưng bởi trông thấy sắc mặt cùng với sắc người của cô vẫn còn tươi tỉnh hệt như người sống, còn đôi má hồng của cô vẫn xinh đẹp như đang chìm trong giấc ngủ. Họ bảo với nhau rằng:
– Hãy nhìn thi hài của cô ấy xem, ai nỡ mà đem chôn vùi xuống dưới đất đen chứ.
Họ quyết định làm một chiếc quan tài bằng thủy tinh trong suốt, có thể nhìn được từ bốn phía. Rồi đặt thi thể của Bạch Tuyết vào bên trong, khắc tên của cô bằng những chữ vàng, còn đề thêm phía trước để cho biết cô chính là một nàng công chúa. Sau cùng họ mới cùng khiêng quan tài lên trên đỉnh núi và cắt phiên thay nhau canh gác. Tất cả những loài vật ở trong rừng cũng tới viếng khóc cho nàng Bạch Tuyết xấu số. Thi thể của Bạch Tuyết đặt trong quan tài dù đã rất lâu nhưng mà vẫn nguyên vẹn, nhìn vào chỉ nghĩ nàng đang ngủ mà thôi. Bởi vì làn da của nàng vẫn trắng như là tuyết, môi nàng vẫn cứ đỏ hồng như màu máu, làn tóc của nàng vẫn cứ đen nhánh như là gỗ mun. Không hề có bất kì sự thay đổi nào cả.
Hồi đấy ở bên nước láng giềng có một chàng hoàng tử, ngày kia chàng bỗng nhiên đi lạc vào trong rừng sâu và tới được ngôi nhà nhỏ của bảy chú lùn. Vì trời đã tối muộn nên chàng xin phép được nghỉ lại một đêm. Vô tình chàng trông thấy trên đỉnh núi có một chiếc quan tài bằng thủy tinh, khi thấy nàng Bạch Tuyết ở trong quan tài có khắc những chữ vàng, chàng đọc xong dòng chữ thì liền nói với bảy chú lùn rằng:
– Các anh hãy cho tôi mang theo chiếc quan tài này, dù muốn lấy bao nhiêu thì tôi cũng sẽ trả đủ.
Nhưng bảy chú lùn lại trả lời chàng:
– Dù cho có đem đến đây tất cả vàng bạc châu báu ở trên thế gian này tới đổi, thì chúng tôi cũng nhất định chẳng đồng ý đâu.
Chàng hoàng tử lại bảo:
– Vậy thì các anh hãy tặng lại nó cho tôi, bởi vì giờ đây tôi chẳng thể nào sống tiếp nếu như không được nhìn thấy Bạch Tuyết, vì tôi đã kính trọng và thương yêu nàng như là người yêu nhất trên đời này của tôi vậy.
Thấy chàng hoàng tử vô cùng tha thiết mà nói, bảy chú lùn ấy cuối cùng cũng động lòng, vì thế mà họ đồng ý. Chàng hoàng tử lập tức lệnh cho thị vệ của mình tới để khiêng quan tài trở về cung. Trên đường đi, đám thị vệ vô tình mà vấp phải một cái rễ cây, chiếc quan tài động mạnh, thi thể của Bạch Tuyết cũng nảy lên một cái, miếng táo có thuốc độc mắc trong cổ họng nàng bật ra ngoài.
Chỉ một lát sau, Bạch Tuyết từ từ tỉnh lại, cô nâng nắp của quan tài lên, nhổm dậy nhìn xung quanh, giật mình mà nói:
– Trời đất ơi! Tôi đang ở nơi nào thế này?
Cả hoàng tử lẫn đám thị về đều vô cùng ngạc nhiên. Chàng hoàng tử lập tức chạy tới cạnh chiếc quan tài, nhìn Bạch Tuyết và thỉnh cầu:
– Ta yêu quý nàng hơn mọi thứ ở trên đời, nàng có đồng ý cùng ta trở về lâu đài của vua cha không? Ở nơi đó, nàng sẽ trở thành vợ của ta.
Nàng Bạch Tuyết bị thuyết phục trước sự chân thành của chàng hoàng tử nên đồng ý theo chàng trở về lâu đài. Sau đó lễ cưới của hoàng tử cùng Bạch Tuyết được diễn ra vô cùng trọng thể và linh đình. Và tất nhiên mụ dì ghẻ cũng được gửi thiệp mời. Sau khi đã trưng diện vô cùng lộng lẫy thì mụ ta lại tới chỗ gương thần mà hỏi rằng:
– Gương kia ngự ở trên tường, Thế gian ai đẹp được dường như ta?
Gương thần liền đáp:
– Muôn tâu hoàng hậu, Xưa kia bà đẹp nhất trần, Nhưng hoàng hậu trẻ muôn phần đẹp hơn.
Mụ ta độc ác mà mở miệng chửi đổng, sau đó thì mụ lại đột nhiên cảm thấy sợ hãi, chẳng biết nên làm thế nào. Lúc đầu nghe gương thần nói thì mụ định sẽ chẳng tới dự tiệc cưới nữa, nhưng sau đó lại đứng ngồi chẳng yên, mụ cảm thấy sốt ruột, rất muốn được nhìn mặt của vị hoàng hậu trẻ mà gương thần nói đến. Vậy là mụ lại quyết định tới.
Khi bước vào trong chính điện thì mụ ta nhận ra ngay hoàng hậu trẻ kia không ai khác chính là Bạch Tuyết, là người mà mụ năm lần bảy lượt tìm cách hại chết. Lúc này mụ vô cùng hoảng sợ, nhưng vì quá hoảng sợ nên mụ chẳng thể nhúc nhích được, cứ trợn tròn mắt mà đứng như trời trồng ở đó.
Vì những tội ác mà mụ ta đã gây ra, nhà vua đã quyết định trừng phạt mụ, bắt mụ phải xỏ chân vào trong đôi giày sắt đã nung đỏ ở trên lửa. Không thể phản kháng, mụ ta bắt buộc phải xỏ vào chân đôi giày sắt đỏ rực và nhảy tới khi mụ ngã lăn ra đất chết tươi.
Truyện Cổ Tích Bà Chúa Tuyết
Truyện cổ tích Bà chúa tuyết – Truyện cổ Andersen
Giecđa và Kay là hai người bạn thân thiết. Tuy nhiên, khi Kay bị mảnh gương vỡ của quỷ đâm vào tim đã thay đổi và đến ở cùng bà chúa Tuyết. Giecđa vì nhớ thương người bạn của mình đã đi tìm và sau một hành trình dài đã tìm lại được Kay.
I. Tấm gương và những mảnh gương vỡ.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện về một con quỷ. Một hôm quỷ ta rất sung sướng vì đã làm ra một tấm gương rất kỳ lạ. Những vật tốt đẹp soi vào đấy đều nom chẳng ra gì cả, trái lại các vật xấu xí lại càng rõ nét và nổi bật hẳn lên, trông lại càng xấu xí hơn. Những phong cảnh đẹp vào gương thì trông như mớ rau muống luộc; những người tốt nhìn vào lại trở thành đáng ghét, đi đầu lộn xuống đất, có khi mất cả bụng, mặt thì méo mó không nhận ra ai nữa. Nếu trên mặt có một vết tàn nhang thì nhìn vào gương, vết tàn nhang ấy lại thấy loang ra khắp mặt, mũi mồm đều là tàn nhang.
Quỷ lấy làm thích thú lắm. Khi một người có ý nghĩ tốt thì ý nghĩ đó phản ánh trong gương thành những vết nhăn nhó, quỷ cười khoái trá về sự phát minh xảo quyệt của mình. Đồ đệ của quỷ kể lại rằng tấm gương ấy là một kỳ quan. Chúng bảo: – Bây giờ người ta có thể biết bộ mặt thật của thế giới và loài người. Và chúng mang gương đi khắp nơi, chẳng một vật nào, chẳng có người nào không bị chúng làm méo mó đi. Chúng còn muốn bay lên trời để nhạo báng các tiên đồng và cả Chúa Trời nữa. Chúng càng bay cao, gương càng nhăn nhó. Khó nhọc lắm chúng mới giữ nổi gương. Chúng bay lên, bay lên mãi và cuối cùng lên đến gần Thượng đế và các tiên đồng. Tấm gương nhăn nhó rúm ró lại, cong queo và tuột khỏi tay lũ quỷ, vỡ tan thành triệu triệu mảnh. Sự việc bây giờ trở nên vô cùng tồi tệ, tồi tệ hơn trước nhiều, mỗi mảnh gương vỡ nếu bay vào mắt ai thì găm chặt vào đấy, làm cho người ấy nhìn mọi vật sai lệch, chỉ thấy những cái xấu xa, mỗi mảnh gương có phép ma như tấm gương lớn, có bao nhiêu mảnh gương là bằng ấy tấm gương. Vô cùng tai hại! Một số người bị mảnh gương găm vào tim, tim họ trở nên băng giá. Có mấy mảnh to, người ta cắt ra làm kính cửa, nhưng chớ có nhìn bạn bè qua những vuông kính ấy!
II. Hai em bé
Giờ đến một chuyện thứ hai. Giữa một thành phố lớn, dân cư đông đúc, nhà cửa chen sít, chẳng hở tí đất, muốn có ít cây xanh, phải trồng vào chậu. Đây là vườn cây của họ. Hai em bé nhà nghèo đã có một mảnh vườn như thế. Chúng không phải là anh em ruột, nhưng chúng yêu nhau như con một nhà. Cha mẹ chúng ở cạnh nhau, trên hai buồng gác sát mái nhà. ở giữa hai căn buồng có một máng nước, mỗi buồng có một cửa sổ nhỏ. Chỉ cần bước qua máng nước là nhà nọ sang nhà kia được. Cha mẹ chúng treo dưới mái nhà một cái thùng gỗ lớn, trồng rau trong thùng để ăn và cả một cây hoa hồng nữa. Như vậy là mỗi thùng có một gốc hông, những gốc hồng này mọc rất khoẻ. Cha mẹ chúng đặt hai thùng trên máng nước làm thành cái cầu bắc giữa hai cửa sổ ; có thể gọi đó là một cái vườn nhỏ, các thứ cây trong vườn mọc tốt. Những quả đậu lủng lẳng trên thùng gỗ, hồng uốn thành một cái vòm quanh cửa sổ, trông như một khải hoàn môn xanh tươi kết bằng lá. Hai đứa trẻ chơi với nhau trên mặt thùng. Chúng ngồi trên những chiếc ghế con, dưới cụm hoa hông và chơi đùa ngoan ngoãn. Mùa đông đến, cửa kính phủ đầy băng giá. Hai trẻ, em trai tên là là Kay, em gái là Giecđa, lấy tiền si-linh đồng hơ vào bếp lò, rồi ép vào tấm kính lạnh ngắt; như thế là trên mỗi cửa kính lạnh ngắt; như thế là trên mỗi cửa kính thành hình một lỗ kính trong, tròn và nhỏ, có thể nhìn qua được. Mùa hè chỉ nhảy một bước là chúng đã sang tới nhà nhau rồi; nhưng mùa đông thì phải leo lên, leo xuống rất nhiều cầu thang mới gặp nhau được, ngoài trời tuyết bay tới tấp. Bà của Kay nói: – Đàn ong trắng vo ve đấy. – Chúng có chúa không hở bà? Kay hỏi bà, vì nó biết rằng ông phải có chúa. Bà đáp: – Nhất định là có chứ! Ong chúa bay ở nơi tuyết rơi dày đặc nhất. Ong chúa to nhất đàn và chẳng bao giờ đậu trên tất cả. Nó bay luôn luôn vào trong mây. Nhiều đêm đông nó bay qua các phố trong thành và nhìn qua cửa kính. Lúc đó cửa kính phủ đầy băng giá, thành hình những bông hoa trắng đẹp tuyệt vời. – Ồ! Vâng, cháu đã thấy rồi, hai đứa trẻ đồng thanh nói: – Bà chúa Tuyết có được vào không hả bà? Giecđa hỏi: – Có chứ, bà đáp. – Cứ vào đây mà xem! Kay nói. Mình sẽ cho bà ấy lên bếp lò nóng để cho bà ấy cháy tan ra. Bà Kay vuốt tóc cháu và kể sang những chuyện khác. Buổi tối, Kay mặc áo lót, trèo lên chiếc ghế tựa dựa gần cửa sổ và nhìn qua một lỗ ra ngoài trời. Mấy bông tuyết rơi xuống, một bông lớn lên, lớn mãi, rồi biến thành một người đàn bà mặc áo trắng dài rực rỡ, trông như dệt bằng ức triệu sợi bông nhỏ tí có điểm sao. Trông bà ta lịch sự và đáng yêu, nhưng người bà toàn băng giá, trong loá cả mắt. Tuy vậy bà ta vẫn có vẻ như một người thật. Mắt bà như hai ngôi sao sáng, nhìn mãi không chớp. Bà ta nhìn về phía cửa sổ, gât đầu và vẫy tay. Kay hoảng sợ nhảy tọt xuống dưới ghế. Hình như cu cậu trông thậy một con chim lợn bay qua cửa sổ con sát mái nhà. Ngày hôm sau trời rét khan. Rồi tuyết tan, mùa xuân lại tới. Mặt trời rọi sáng, cây cỏ xanh tươi, chim nhạn làm tổ, cửa sổ mở và hai đứa trẻ lại ngồi chơi trong các vườn nhỏ cao tít, trên chốc các tầng gác, gần máng nước sát mái nhà. Mùa hè tới, hồng trổ hoa rực rỡ, bé Giecđa đã học thuộc một bài thánh ca nói về hoa hồng, bé hát cho Kay nghe:
“Hoa hồng mọc trong thung lũng. Nơi mà đức Chúa Giê su đang phán bảo ta…”
III. Vườn nhà bà biết làm phép lạ
IV. Hoàng tử và công chúa
V. Con gái quân cướp đường
VI. Bà lão xứ Lapôni và bà lão người Phần Lan
Môt túp lều nhỏ tiều tuỵ và yên tĩnh, mãi úp xuống tận mặt đất, cửa thấp, ra vào phải úp người xuống trườn như rắn. Trong nhà chỉ có một bà lão người xứ Lapôni đang ngồi nướng cá trên chiếc đèn bằng mỡ hải cẩu. Nai kể cho bà nghe chuyện của Giecđa. Giecđa bị rét cứng cả người không nói được. Nhưng trước khi kể chuyện Giecđa, nai đã kể chuyện của mình vì nó cho rằng chuyện của nó quan trọng hơn. – Các bạn còn phải đi xa hơn nữa, bà cụ Lapôni nói. Các bạn còn phải đi ít ra là một trăm dặm mới đến đất Phần Lan, nơi bà chúa Tuyết ở, nơi bà ta chiều chiều đốt lên một bó đuốc đỏ rực. Tôi sẽ viết cho các bạn vài chữ lên một con cá khô, vì tôi không có giấy. Các bạn sẽ đưa thư ấy cho bà cụ người Phần Lan ở trên ấy và bà cụ sẽ đưa chỉ dẫn cho các bạn rõ hơn. Khi Giecđa đã sưởi ấm và ăn uống xong, bà cụ viết mấy chữ vào con cá khô, dặn dò Giecđa giữ cẩn thận, buộc nó lên lưng nai và nai lại tiếp tục chạy. Hú! hú! Vẫn có tiếng hú trong không trung.Bắc cực quang toả ánh sáng xanh nhạt suốt đêm ngày khắp vòm trời. Nai và Giecđa tới đất Phần Lan và gõ vào ống khói một cái nhà không có cửa. Trong nhà nóng rực quá! Bà cụ ở trong đó chỉ mặc một bộ quần áo mỏng. Người bà bé nhỏ, da mặt nhăn nheo. Bà cởi quần áo cho Giecđa, tháo găng tay và giầy băng tuýp của nó ra, rồi đặt một mẩu nước đá lên đầu chú nai. Bà đọc những chữ viết trên con cá khô, đọc đi đọc lại cho thuộc lòng, rồi vứt cả vào nồi, vì cá ấy ăn vẫn ngon, bà ta không muốn bỏ phí. Nai kể chuyện mình trước rồi đến chuyện Giecđa. Bà cụ Phần Lan chớp chớp đôi mắt thông minh nhưng chẳng nói gì. Nai nói: – Cụ biết nhiều điều. Người ta đồn rằng cụ có thể buộc gió bốn phương bằng một sợi chỉ. Nếu cụ chỉ trao sợi chỉ ấy cho một hoa tiêu, thì anh ta chỉ cởi một nút à anh ta thuận buồm xuôi gió, cởi nút thứ hai gió thổi mạnh thêm, cởi nút thứ ba thứ tư trời sẽ làm giông bão, lật đổ nhào các khu rừng. Cụ hãy cho cô bé này uống một thứ thuốc gì để cô ta có sức mạnh bằng mười hai người, đủ sức vật ngã bà chúa Tuyết. Bà cụ hỏi lại: – Khoẻ bằng mười hai người ư? ừ, đúng là phải khoẻ đến thế! Nói rồi, bà đi về phía cái giá có nhiều ngăn, lấy một tấm da khô cuộn tròn và mở ra xem. Mồ hôi long lanh trên trán, bà cụ đọc những chữ kỳ dị viết trên tấm da. Nai nằn nì cầu xin bà cụ ban phép cho Giecđa. Giecđa khóc sướt mướt, nhìn bà cụ bằng đôi mắt cầu khẩn. Thấy vậy, bà cụ chớp mắt, lôi nai vào một góc nhà, vừa thì thầm vừa đặt miếng nước đá lên đầu nai: – Cậu bé Kay đang ở nhà bà chúa Tuyết thật và cậu ta lấy làm mãn nguyện được ở đấy. Như vậy là vì cậu ta bị một mảnh gương quỷ bắn vào tim và một mảnh bắn vào mắt. Trước hết cần phải lấy mảnh gương ấy ra, nếu không cậu ra chẳng bao giờ trở lại bình thường và vẫn bị bà chúa Tuyết mê hoặc. Nai nói thêm với bà cụ Phần Lan: – Cụ thử nghĩ xem cụ có thể cho cô bé một phép lạ gì để cô bé có thể chiến thắng được con quỷ ấy không? – Ta không thể cho cô ấy một quyền lực nào lớn hơn quyền lực mà cô ấy sẵn có. Nai không thấy cô ấy đã làm được những gì ư? Nai không thấy rằng nhiều người và súc vật đã phải làm theo ý cô ta đấy sao? Nai không thấy cô ta đã đi rất nhiều nơi mà chỉ đi bộ thôi ư? Chúng ta chẳng cần phải giúp cô ta nữa. Cô ta sẵn có một sức mạnh trong trái tim, trong tấm lòng trung hậu và trong trắng của cô ta. Nếu cô ta không tự mình đi đến nơi ở của bà chúa Tuyết để gỡ những mảnh gương đang găm trong tim và trong mắt của Kay ra thì chẳng có ai làm được việc ấy. Vườn của bà chúa Tuyết cách đây hai dặm đường. Nai có thể đưa cô ta đến đấy được. Nai sẽ dừng lại ở một bụi cây lớn, có quả đỏ, xung quanh toàn tuyết phủ, nai chỉ đưa Giecđa đế đấy thôi, rồi đứng chờ Giecđa. Bà cụ phúc hậu đặt Giecđa lên mình nai, nai phóng đi rất nhanh. Đang đi bỗng Giecđa kêu lên: – Ôi thôi! Tôi quên mất giầy và bao tay rồi! Cái rét cứng người làm cho cô bé nhớ đến bao tay và giầy, nhưng nai không dừng lại. Nó chạy một mạch đến bụi cây lớn có quả đỏ, hôn vào môi Giecđa, nước mắt nó ứa ra chảy trên má em bé. Giecđa tiếp tục đi một mình, chân không giầy tay không găng, giữa đất Phần Lan phủ đầy băng tuyết. Nó ra sức chạy. Nó gặp một đám bông tuyết lớn. Tuyết không rơi từ trên trời xuống, lúc này bắc cực quang còn đang chiếu sáng; bông tuyết bao là là mặt đất, càng tới gần càng lớn lên, Giecđa chợt nhớ lại ngày nào nhìn qua kính hiển vi ở nhà bông tuyết hiện ra rất to, nhưng so với bông tuyết này thì chẳng thấm vào đâu, những bông tuyết này to lớn đáng sợ và y như những loài động vật vậy. Chúng có những hình thù rất kỳ quặc. Một số trông giống như những con lợn lòi hoặc những con nhím; một số giống như những rắn rết đang ngóc đầu lên; còn các bông khác lại giống bầy gấu, con lớn, con nhỏ, lông dựng ngược. Tất cả đều trắng toát. Tất cả đều là những bông tuyết sống. Giecđa đọc bài kinh cầu nguyện. Rét đến nỗi nó trông thấy hơi thở ra. Hơi thở bốc lên như đám khói, càng ngày càng dày đặc, và biến thành những tiên đồng, trước nhỏ tí, sau đó lớn mãi lên rồi đặt chân xuống đất. Cả bọn đều đội mũ sắt, một tay cầm giáo, một tay mang mộc. Càng ngày đội ngũ tiên đồng càng đông thêm. Đến khi Giecđa đọc xong bài kinh thì có tới một đạo quân đứng quanh nó. Họ cầm giáo đập vào bông tuyết làm chúng tan ra thành muôn mảnh. Nhờ thế Giecđa có thể ung dung tiến lên phía trước. Các tiên đồng vỗ vào chân vào tay nó cho đỡ rét. Và thế là nó đi tới lâu đài bà chúa Tuyết. Nhưng Kay bây giờ ra sao rồi? Nó không hề nghĩ gì đến Giecđa và nó không ngờ rằng Giecđa đến bên ngoài lâu đài.
VII. Việc xảy ra trong lâu đài bà chúa Tuyết.
Tuyết rơi quanh lâu đài thành một bức tường dày. Cửa ra vào và cửa sổ là nhưng lỗ hổng qua đấy gió bấc rít lên. Lâu đài có tới hàng trăm phòng, phòng nào cũng có tuyết rơi lả tả. Phòng lớn nhất rộng tới một trăm dạm. Bắc cực quang chiếu sáng khắp nơi. Tất cả các phòng đều trống rỗng lạnh buốt và lóng lánh. ở đây chẳng bao giờ có hội hè, chẳng bao giờ có khiêu vũ, hoà nhạc hay tiệc trà. Trong một gian phòng trống rỗng và lớn nhất có một cái hồ trống rỗng và lớn nhất có một cái hồ đóng băng. Mặt hồ vỡ thành nhiều mảnh, mảnh nào cũng giống nhau, trông như một tác phẩm nghệ thuật. Gian phòng này là nơi bà chúa Tuyết ngự khi bà ta ở nhà. Bà thường nói rằng bà ngồi trên tấm gương của trí thông mình và đó là hạnh phúc lớn nhất trên đời này. ở nơi ấy, Kay tím sậm đi vì rét, nhưng nó không nhận thấy điều ấy, vì tim nó đang đóng thành băng và nó ghép những mảnh bằng nhỏ thành các hình thù đủ loại và còn ghép thành chữ nữa, nó gọi trò chơi ấy là “trò chơi thông minh” có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó vẫn bị một mảnh gương quỷ nằm trong mắt mê hoặc. Nhưng loay hoay mãi nó không sao ghép được hai chữ “Vĩnh Cửu”. Bà chúa Tuyết nói: – Nếu em xếp được hai chữ ấy, em sẽ làm chủ được mình. Ta sẽ cho em cả thế giới và một đôi giầy trượt tuyết mớ tinh. Chúc em thành công. Giờ ta phải bay xuống xứ nóng, đến núi lửa Etna và Vêduyvơ. Ta muốn nhuộm tráng chúng nó một chút. Như thế hợp với chúng hơn, hợp với những vườn chanh và vườn nho mọc trên sườn núi. Bà chúa Tuyết nói xong bỏ đi. Kay còn lại một mình trong gian phò băng giá. Nó ngắm nhìn những mảnh băng. Nó thấy như thân thể đang gãy răng rắc. Cứ ngồi im lặng và cứng nhắc như thế có khi cuối cùng rồi nó cũng biến thành băng chứ chả chơi! Đúng lúc ấy Giecđa bước qua cửa lớn vào lâu đài. Gió thổi như quất vào mặt nó. Nó đọc bài kinh cầu nguyện ban tối. Gió dịu đi. Nó bước vào gian phòng lớn lạnh lẽo, trống rỗng và nhìn thấy Kay. Nó nhận ra cu cậu, bá cổ ôm chặt lấy cậu ta và reo lên: – Kay! Kay yêu của mình. Thế là cuối cùng mình đã tìm thấy cậu! Nhưng Kay vẫn trơ trơ và lạnh lẽo. Giecđa oà lên khóc. Những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên ngực và thấm vào tận tim Kay. Nước mắt làm tan nước đá và đánh tan cả mảnh gương quỷ. Kay nhìn Giecđa. Nó hát bài kinh cầu nguyện. “Hồng mọc đầy thung lũng Nơi cậu bé Giếu phán bảo ta”. Bỗng nhiên Kay ứa nước mắt. Nó khóc đến nỗi mảnh gương quỷ trôi ra ngoài. Nó nhận ra cô bạn gái, say sưa nhìn Giecđa và vui mừng reo lên: – Giecđa! Giecđa dịu hiền của mình. Cậu đi đâu từ bấy lâu nay thế? Còn mình, không biết tại sao mình lại ở đây thế này? Câu bíu chặt lấy Giecđa đang lúc cười lúc khóc vì sung sướng. Giây phút ấy cảm động đến nỗi cả những mảnh băng vỡ cũng nhảy nhót vui mừng, cho đến lúc mệt nhoài chúng mới chịu nằm im. Nhưng kỳ diêu thay, chúng nằm im thì mặt đất hiện ra hai chữ “Vĩnh Cửu” do bà chúa Tuyết đề ra. Thế là Kay đã tự chủ được mình và bà chúa Tuyết sẽ phải tặng cậu cả thế giới và đôi giầy trượt tuyết mới tinh. Giecđa ôm hôn Kay làm hai má Kay ửng đỏ lên như hoa, nó hôn lên mắt Kay, mắt Kay ánh lên như mắt của nó, nó lại hôn lên chân tay của Kay, chân tay của Kay lại trở nên mạnh mẽ như cũ. Hai đứa không phải đợi bà chúa Tuyết trở về vì hai chữ “Vĩnh Cửu” kia đã chuộc lại quyền tự do cho Kay. Hai đứa dắt tay nhau và thoát khỏi toà lâu đài rộng lớn. Chúng nói chuyện về bà của chúng, về hai cây hồng trồng sát mái nhà nhau. Chúng đi đến đâu thì ở đấy gió tắt và mặt trời hiện ra lấp lanh. Khi chúng đi tới bụi cây quả đỏ, nai vẫn đang đợi chúng. Đứng bên nai có một con nai cái, vú căng sữa, đang cho đàn con bú và đang hôn lên mõm chúng. Trước hết Kay và Giecđa đến nhà bà cụ Phần Lan – Chúng hỏi thăm bà cụ đường về. Sau đó chúng đến nhà bà cụ Lapôni; bà may quần áo mới và chữa lại xe trượt tuyết cho chúng. Vợ chồng nhà nai chạy theo xe đến tận biên giới. Khi nhìn thấy ngọn cỏ đầu tiên nhô lên mặt đất, chúng từ biệt đôi nai và bà cụ Lapôni. Tiếng hót của những con chim đầu tiên chúng trông thấy vang lên. Trong rừng mầm non đã nhú mọc. Một con ngựa đang chạy tới, chính là một trong hai con đã kéo cỗ xe thếp vàng. Cưỡi trên mình ngựa là một em bé đội mũ màu đỏ rực, mỗi tay chĩa ra đằng trước một khẩu súng ngắn. Đó là con gái lũ cướp, chán cảnh nhà định đi về phương Bắc, rồi khi nào không thích ở đấy nữa lại đi nơi khác. Hai em bé nhận ra nhau vui mừng khôn xiết. Đứa con gái lũ cướp nói: – Đằng ấy thật liều lĩnh. Đằng ấy bắt người ta đi theo đằng ấy khắp thiên hạ phỏng có ích gì! Giecđa tát yêu vào má cô bạn và hỏi tin tưc về công chúa và hoàng tử? – Họ đã đi du lịch ra nước ngoài sau khi tiễn chân Giecđa đi Lapôni được vài ngày. Từ dạo ấy chẳng ai biết tin tức gì về họ cả, và cũng chẳng biết khi nào họ về. – Con quạ đen thì sao? Giecđa hỏi. Quạ đã chết rồi, vợ hắn để tang bằng buộc một sợ len màu đen vào chân. Sau khi chồng chết, quạ tỏ vẻ thương xót, nhưng chẳng qua là để che mắt thế gian mà thôi! – Quạ đen tội nghiệp của tôi! Giecđa nói. Quạ đối với tôi rất tốt. Quạ đã chết sớm vì tự do ngoài trời, không quen sống gò bó trong bốn bức tường. – Dào ôi! Đứa con gái lũ cướp nó. Quạ chết vì bội thực đấy thôi, để chuyện ấy đấy. Hãy kể cho tớ nghe cậu làm thế nào mà tìm được Kay. Giecđa và Kay tranh nhau kể. Nghe xong đứa con gái lũ cướp nắm lấy tay hai đứa và nói: – Được rồi! Tốt lắm. Nó khen và hẹn hai đứa rằng nếu một ngày kia có dịp đi qua thành phố, nơi hai đứa ở, nó sẽ ghé lại thăm. Nói rồi nó thúc ngựa lên đường. Kay và Giecđa nắm tay nhau bước đi. Lúc này đã sang xuân, khắp nơi cây cối xanh tươi, trăm hoa đua nở. Chuông nhà thờ ngân vang. Chúng đã nhận ra những tháp cao của thành phố, nơi hai đứa đã sống trước đây. Chúng đi vào thành phố về đến trước cửa nhà, leo lên tầng gác cao nhất và bước vào phòng, tất cả mọi vật đều y nguyên như cũ.Chiếc đồng hồ quả lắc đung đưa tích tắc. Hai chiếc kim vẫn quay đều. Nhưng lúc vào nhà, chúng nhận thấy mọi người đã già đi. Hồng vẫn nở hoa gần nơi cửa sổ, ở đó vẫn còn những chiếc ghế nhỏ. Mỗi đứa ngồi vào ghế của mình và nắm lấy tay nhau. Như vừa qua cơn ác mộng, chúng đã quên những vật kỳ lạ ở lâu đài băng giá và đìu hiu của bà chúa Tuyết. Bà các em ngồi dưới ánh nắng, cất cao giọng đọc trong thánh kinh. “Nếu ngươi không trở thành những đứa trẻ ngươi sẽ không được đi vào giang sơn của chúa”. Kay và Giecđa nhìn nhau. Đến lúc ấy chúng mới hiểu thấu ý nghĩa của câu thánh thi: “Hồng mọc đầy trong thung lũng Nơi cậu bé Giêsu đang phán bảo ta” Giờ đây cả hai đứa đã lớn, nhưng tâm hồn các em vẫn là tâm hồn trẻ con, và mùa hạ sáng rực lên, mùa hạ nóng bức và nhân hậu.
Bạn đang đọc các câu chuyện cổ tích tại website chúng tôi – Kho tàng truyện cổ tích chọn lọc Việt Nam và Thế Giới hay nhất và ý nghĩa cho mọi lứa tuổi dành cho thiếu nhi, tổng hợp trên 3000 câu chuyện cổ tích chọn lọc hay nhất Việt Nam và thế giới. Tại chúng tôi luôn được cập nhật thường xuyên, đầy đủ và chính xác nhất về truyện cổ tích giúp bạn dễ dàng tìm kiếm cho mình câu truyện cổ tích cần tìm.
Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất: Truyền thuyết Thánh gióng, truyện cổ tích tấm cám, sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,…
Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…
Cập nhật thông tin chi tiết về Kể Truyện Cổ Tích: Bạch Tuyết Và Hồng Hoa trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!