Xu Hướng 10/2023 # Kể Chuyện Ba Lưỡi Rìu Lớp 4 Sáng Tạo Và Độc Đáo Nhất # Top 16 Xem Nhiều | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Kể Chuyện Ba Lưỡi Rìu Lớp 4 Sáng Tạo Và Độc Đáo Nhất # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Kể Chuyện Ba Lưỡi Rìu Lớp 4 Sáng Tạo Và Độc Đáo Nhất được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Nội dung câu chuyện Ba lưỡi rìu lớp 4

Xưa có một anh chàng tiều phu nghèo, cha mẹ anh bệnh nặng nên qua đời sớm, anh phải sống mồ côi cha mẹ từ nhỏ và tài sản của anh chỉ có một chiếc rìu. Hàng ngày anh phải xách rìu vào rừng để đốn củi bán để lấy tiền kiếm sống qua ngày. Cạnh bìa rừng có một con sông nước chảy rất xiết, ai đó lỡ trượt chân rơi xuống sông thì rất khó bơi vào bờ.

Một hôm, như thường ngày chàng tiều phu vác rìu vào rừng để đốn củi, trong lúc đang chặt củi cạnh bờ sông thì chẳng may chiếc rìu của chàng bị gãy cán và lưỡi rìu văng xuống sông. Vì dòng sông nước chảy quá xiết nên mặc dù biết bơi nhưng anh chàng vẫn không thể xuống sông để tìm lưỡi rìu. Thất vọng anh chàng tiều phu ngồi khóc than thở.

Bỗng từ đâu đó có một ông cụ tóc trắng bạc phơ, râu dài, đôi mắt rất hiền từ xuất hiện trước mặt chàng, ông cụ nhìn chàng tiêu phu và hỏi:

-Này con, con đang có chuyện gì mà ta thấy con khóc và buồn bã như vậy?

Anh chàng tiều phu trả lời ông cụ:

-Thưa cụ, bố mẹ cháu mất sớm, cháu phải sống mồ côi từ nhỏ, gia cảnh nhà cháu rất nghèo, tài sản duy nhất của cháu là chiếc rìu sắt mà bố mẹ cháu trước lúc qua đời để lại. Có chiếc rìu đó cháu còn vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày, giờ đây nó đã bị rơi xuống sông, cháu không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Vì vậy cháu buồn lắm cụ ạ!

Ông cụ đáp lời chàng tiều phu:

-Ta tưởng chuyện gì lớn, cháu đừng khóc nữa, để ta lặn xuống sông lấy hộ cháu chiếc rìu lên.

Dứt lời, ông cụ lao mình xuống dòng sông đang chảy rất xiết. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng loáng và hỏi anh chàng tiều phu nghèo:

– Đây có phải lưỡi rìu mà con đã làm rơi xuống không ?

Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng vàng thấy không phải của mình nên anh lắc đầu và bảo ông cụ:

– Không phải lưỡi rìu của cháu cụ ạ, lưỡi rìu của cháu bằng sắt cơ.

Lần thứ hai, ông cụ lại lao mình xuống dòng sông chảy xiết để tìm chiếc rìu cho chàng tiều phu. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm chiếc rìu bằng bạc và hỏi chàng tiều phu:

-Đây có phải là lưỡi rìu mà con đã sơ ý làm rơi xuống sông không?

Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng bạc sáng chói, anh lại lắc đầu và bảo:

-Không phải là lưỡi rìu của con cụ ạ

Lần thứ ba, ông cụ lại lao mình xuống sông và lần này khi lên ông cụ cầm trên tay là chiếc rìu bằng sắt của anh chàng tiều phu đánh rơi. Ông cụ lại hỏi:

-Vậy đây có phải là lưỡi rìu của con không!

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình rồi, anh chàng tiều phu reo lên sung sướng:

-Vâng cụ, đây đúng là lưỡi rìu của con, con cảm ơn cụ đã tìm hộ con lưỡi rìu để con có cái đốn củi kiếm sống qua ngày.

Ông cụ đưa cho anh chàng tiều phu lưỡi rìu bằng sắt của anh và khen:

-Con quả là người thật thà và trung thực, không hề ham tiền bạc và lợi lộc. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này. Đây là quà ta tặng con, con cứ vui vẻ nhận.

Anh chàng tiều phu vui vẻ đỡ lấy hai lưỡi rìu mà ông cụ tặng và cảm tạ. Ông cụ hóa phép và biến mất. Lúc đó anh chàng tiều phu mới biết rằng mình vừa được bụt giúp đỡ.

II. Soạn bài câu chuyện Ba lưỡi rìu lớp 4

Phát triển và ý nếu dưới mỗi bức tranh thành một đoạn văn kể chuyện:

1. Bức tranh 1: Chàng tiều phu đang đốn củi thì lưỡi rìu văng xuống sông

Ngày xửa ngày xưa, có một anh chàng tiều phu mồ côi cha mẹ và rất nghèo khổ. Chàng là một chàng tiều phu khỏe mạnh. Thân hình lực lưỡng. Nước da ngăm đen. Gia tài của chàng chỉ là chiếc rìu đốn củi bằng sắt.

Hằng ngày, chành phải vào rừng đốn củi để bán để sống qua ngày.

Một ngày như thường lệ, chàng đang đốn củi cạnh một con sông, thì bất chợt chiếc rìu của chàng bị gãy cáng và văng xuống sông. Vì nước sông chảy rất xiết nên chàng không thể lội xuống để vớt chiếc rìu lên.

2. Bức tranh 2: Một cụ già hiện ra và hứa sẽ vớt cây rìu giúp chàng

Không vớt được chiếc rìu, chàng tiều phu ngồi khốc. Bất ngờ một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ, xuất hiện trước mặt chàng và hỏi:

– Này chàng trai trẻ, có chuyện gì mà con ngồi đây khóc lóc vậy ?

Chàng tiều phu nhìn ông cụ và trả lời:

– Bố mẹ cháu mất sớm, chỉ để lại cho cháu một chiếc rìu. Đó cũng là tất cả gia tài của cháu. Hôm nay, trong lúc đang đốn củi thì chiếc rìu của cháu bị gãy càng và rớt xuống sông. Dòng sông chảy quá xiết, cháu không tài nào lội xuống để vớt nó lên.

Thất vọng, chàng tiều phu lại ôm mặt khóc. Ông lão cười và nói:

– Ta tưởng chuyện gì to lớn. Ta sẽ giúp cháu vớt cái rìu đó lên.

3. Bức tranh 3: Lần thứ nhất, ông lão vớt lên một chiếc rìu bằng vàng sáng lấp lánh

Sau khi đồng ý giúp chàng tiều phu, ông lão nhảy xuống dòng sông. Một lúc sau, ông lão ngoi lên, tay cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng lấp lánh. Ông lão hỏi chàng tiều phu:

– Đây có phải là chiếc rìu của cháu không ?

Khi chàng tiều phu nhìn chiếc rìu bằng vàng rất đẹp kia thì lắc đầu, anh nói với ông lão:

– Thưa ông, đây không phải là chiếc rìu của cháu. Lưỡi rìu của cháu làm bằng sắt cơ

thế là ông lão lại lao mình xuống dòng sông một lần nữa

4. Bức tranh 4: Lần thứ hai, ông lão vớt lên một chiếc rìu bằng bạc

Lần này ông lão ngoi lên mặt nước và cầm trên tay một chiếc rìu bằng bạc rất đẹp. Ông lão đưa cho chàng tiều phu và hỏi:

– Còn lưỡi rìu này thì sao, nó có phải của cháu không?

Chàng tiều phu nhìn chiếc rìu bằng bạc thì buồn rầu và nói:

– Thưa ông, lưỡi rìu của cháu được làm bằng sắt, còn cái lưỡi rìu bằng bạc này không phải là của cháu

Thấy chàng tiều phu buồn rầu và thất vọng, ông lão lại nhảy lặng xuống dòng sông một lần nữa

5. Bức tranh 5: Lần thứ ba, ông lão vớt lên một chiếc rìu bằng sắt

Lần này, sau khi ngoi lên khỏi mặt nước. Ông lão cầm trên tay một chiếc rìu bằng sắt trong rất cũ. Ông lão mỉm cười nhìn chàng tiều phu và hỏi:

– Lưỡi rìu bằng sắt này là của cháu phải không ?

khi nhìn thấy lưỡi rìu bằng sắt, chàng tiều phu vui mừng và reo lên:

– Đúng rồi ! Thứ ông đây chính là lưỡi rìu của cháu. Cháu cảm ơn ông đã giúp cháy vớt cái rìu lên.

Chàng tiều phu nhận lấy chiếc rìu từ tay ông lão đầy sung sướng.

6. Bức tranh 6: Ông lão khen chàng tiều phu là người thật thà và tặng cho chàng cả bà chiếc rìu

Khi nhận thấy chàng tiều phu là một người hiền lành và thật thà. Ông lão đã lấy hai chiếc rìu bằng vàng và bạc trước đó tặng cho chàng và nói:

– Con đúng là một người thật thà và trung thực, không hề ham tiền bạc và lợi lộc. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này. Con cứ vui vẻ nhận.

Anh chàng tiều phu vui vẻ đỡ lấy hai lưỡi rìu mà ông cụ tặng và cảm tạ. Ông cụ hóa phép và biến mất. Lúc đó anh chàng tiều phu mới biết rằng mình vừa được bụt giúp đỡ.

III. Lời Kết: Xây đựng câu chuyện Ba lưỡi rìu tiếng việt lớp 4

Câu chuyện ba lưỡi rìu là một câu chuyện cổ tích hết sức ý nghĩa về lòng trung thực và thật thà. Luyện tập xây dựng xây dựng câu chuyện ba lưỡi rìu tiếng việt lớp 4 sẽ giúp các em học sinh thêm khả năng sáng tạo và tư duy

Chúc các em học tập thật tốt !

Đọc Truyện Cổ Tích: Câu Chuyện Ba Lưỡi Rìu

Câu chuyện ba lưỡi rìu là câu chuyện cổ tích thế tục Việt Nam vô cùng ý nghĩa kể về một chàng tiều phu mặc dù rất nghèo nhưng có lòng trung thực trong mọi hoàn cảnh và cuối cùng chính sự trung thực trong cuộc sống đó, chàng tiều phu nhận được những đền đáp xứng đáng.

Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng nọ, có một anh chàng tiều phu nghèo, cha mẹ anh bệnh nặng nên qua đời sớm, anh phải sống mồ côi cha mẹ từ nhỏ và tài sản của anh chỉ có một chiếc rìu. Hàng ngày anh phải xách rìu vào rừng để đốn củi bán để lấy tiền kiếm sống qua ngày. Ngay ở cạnh bìa rừng có một con sông nước chảy rất xiết, ai đó lỡ trượt chân rơi xuống sông thì rất khó bơi vào bờ.

Vào một hôm nọ, như thường ngày chàng tiều phu vác rìu vào rừng để đốn củi, trong lúc đang chặt củi cạnh bờ sông thì chẳng may chiếc rìu của chàng bị gãy cán và lưỡi rìu văng xuống sông. Vì dòng sông nước chảy quá xiết nên mặc dù biết bơi nhưng anh chàng vẫn không thể xuống sông để tìm lưỡi rìu. Thất vọng anh chàng tiều phu ngồi khóc, vừa khóc anh chàng vừa than thở cho số phận hẩm hiu của mình.

Bỗng từ đâu đó có một ông cụ tóc trắng bạc phơ, râu dài, đôi mắt rất hiền từ xuất hiện trước mặt chàng, ông cụ nhìn chàng tiêu phu và hỏi:

– Chào con, con đang có chuyện gì mà ta thấy con khóc và buồn bã như vậy?

Anh chàng tiều phu trả lời ông cụ râu tóc bạc phơ đó:

– Thưa cụ, bố mẹ con mất sớm, con phải sống mồ côi từ nhỏ, gia cảnh nhà cháu rất nghèo, tài sản duy nhất của con là chiếc rìu sắt mà bố mẹ cháu trước lúc qua đời để lại. Có chiếc rìu đó cháu còn vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày, giờ đây nó đã bị rơi xuống sông, con không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Vì vậy, con buồn lắm cụ ạ!

Ông cụ liền đáp lời chàng tiều phu:

– Ta tưởng chuyện gì lớn, cháu đừng khóc nữa, để ta lặn xuống sông lấy hộ cháu chiếc rìu lên.

Dứt lời, ông cụ lao mình xuống dòng sông đang chảy rất xiết. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm một chiếc rìu bằng bạc sáng loáng và hỏi anh chàng tiều phu nghèo:

– Đây có phải lưỡi rìu mà con đã làm rơi xuống không ?

Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng bạc thấy không phải của mình nên anh lắc đầu và bảo ông cụ:

– Không phải lưỡi rìu của con cụ ạ, lưỡi rìu của con bằng sắt cơ.

Lần thứ hai, ông cụ lại lao mình xuống dòng sông chảy xiết để tìm chiếc rìu cho chàng tiều phu. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm chiếc rìu bằng vàng và hỏi chàng tiều phu:

– Đây có phải là lưỡi rìu mà con đã sơ ý làm rơi xuống sông không?

Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng vàng sáng chói, anh lại lắc đầu và bảo:

– Không phải là lưỡi rìu của con cụ ạ!

Lần thứ ba, ông cụ lại lao mình xuống sông và lần này khi lên ông cụ cầm trên tay là chiếc rìu bằng sắt của anh chàng tiều phu đánh rơi. Ông cụ lại hỏi:

– Vậy đây có phải là lưỡi rìu của con không!

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình rồi, anh chàng tiều phu reo lên sung sướng:

– Vâng cụ, đây đúng là lưỡi rìu của con, con cảm ơn cụ đã tìm hộ con lưỡi rìu để con có cái đốn củi kiếm sống qua ngày.

Ông cụ đưa cho anh chàng tiều phu lưỡi rìu bằng sắt của anh và khen:

– Con quả là người thật thà và trung thực, không hề ham tiền bạc và lợi lộc. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này. Đây là quà ta tặng con, con cứ vui vẻ nhận.

Anh chàng tiều phu vui vẻ đỡ lấy hai lưỡi rìu mà ông cụ tặng và cảm tạ. Ông cụ hóa phép và biến mất. Lúc đó anh chàng tiều phu mới biết rằng mình vừa được bụt giúp đỡ.

Bài học ý nghĩa câu chuyện Ba lưỡi rìu

Ba lưỡi rìu là câu chuyện cổ tích thế tục Việt Nam vô cùng ý nghĩa kể về một chàng tiều phu mặc dù rất nghèo nhưng có lòng thật thà, trung thực. Dù nghèo khổ, thiếu thốn nhưng mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, anh chàng tiều phu vẫn luôn giữ lòng thật thà và trung thực đó và cuối cùng chàng được đền đáp xứng đáng. Thông qua câu chuyện này, các bậc cha mẹ nên kể chuyện cổ tích này cho bé sẽ giúp bé phát huy khả năng tư duy và tính sáng tạo.

Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu

Ngày xửa ngày xưa, có một anh tiều phu nghèo khổ, cha mẹ anh bệnh nặng chẳng may mất sớm, chỉ để lại cho anh duy nhất một chiếc rìu sắt. Hằng ngày, anh tiều phu phải lên núi đốn củi rồi đem củi bán lấy tiền kiếm sống qua ngày.

Một hôm, như thường ngày anh tiều phu lại vác rìu lên núi để đốn củi. Trong lúc đang chặt củi ở cạnh bờ suối, thì chẳng may chiếc rìu của anh bị gãy cán, lưỡi rìu bị văng xuống dưới dòng suối. Dòng suối nước chảy cuồn cuộn, nếu ai lỡ trượt chân rơi xuống suối thì có thể bị nước cuốn trôi khó lòng bơi được vào bờ, do đó anh tiều phu chỉ biết ngồi nhìn lưỡi rìu chìm sâu xuống đáy nước rồi than khóc tỉ tê, đến cỏ cây cũng mũi lòng:

Bỗng có một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ xuất hiện trước mặt anh chàng tiều phu, ông lão bước đến nhìn chàng tiều phu và hỏi:

– Tại sao con lại ngồi khóc ở đây?

Chàng tiều phu gạt nước mắt, nhìn ông lão đáp:

– Thưa ông, bố mẹ con chẳng may mất sớm, con phải sống mồ côi từ nhỏ. Gia cảnh nhà con rất nghèo, gia tài duy nhất của con là chiếc rìu sắt, đó cũng là kỉ vật mà bố mẹ con trước lúc qua đời để lại. Hàng ngày con nhờ có chiếc rìu lên núi đốn củi, kiếm sống qua ngày. Nhưng vừa nãy trong lúc đốn củi, chẳng may con làm lưỡi rìu rơi xuống suối mất rồi… từ nay con không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Con đau buồn quá thưa ông!

Ông lão nghe xong liền cười và nói:

– Ta tưởng chuyện gì lớn, con đừng khóc nữa, ta sẽ giúp con lấy lưỡi rìu lên.

Vừa dứt lời, ông lão liền lao mình xuống dòng suối. Được một lúc, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc chói loáng và hỏi anh tiều phu nghèo:

– Đây có phải là lưỡi rìu của con hay không?

Chàng tiều phu liền đáp:

– Dạ không thưa ông! Đây không phải lưỡi rìu của con.

Ông lão cười rồi lại lặn xuống dòng suối đang chảy xiết. Một lát sau, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, lần này trên tay ông cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng chói lấp lánh. Ông lão hỏi chàng tiều phu:

– Lưỡi rìu vàng này có phải của con không?

Anh chàng tiều phu nhìn ông lão, anh lại lắc đầu thật thà trả lời:

– Dạ lưỡi rìu này cũng không phải là của con. Lưỡi rìu của con bằng sắt ông ạ.

Nghe vậy, ông lão lại tiếp tục lặn sâu xuống dòng suối đang cuồn cuộn. Lần này, khi ngoi lên khỏi mặt nước ông đưa lên một lưỡi rìu bằng sắt, ông lão lại hỏi:

– Vậy đây có phải lưỡi rìu mà con đánh rơi hay không?

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình, anh chàng tiều phu liền reo lên mừng rỡ:

– Ôi, đây đúng là lưỡi rìu của con rồi. Lưỡi rìu này là cả sinh mạng của con, con vô cùng đội ơn ông đã tìm lại nó cho con, con thật không biết lấy gì để đền ơn ông.

Ông lão bỗng chốc hiện nguyên hình là một ông Bụt. Ông Bụt tươi cười, giọng rềnh vang nói:

– Con đúng là một người thật thà trung thực, không hề tham lam vàng bạc và lợi lộc trước mắt. Để khen thưởng cho con. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này, con hãy nhận lấy.

Anh chàng tiều phu vui mừng cúi đầu cảm tạ, hai tay đỡ lấy hai lưỡi rìu.

Ông Bụt cười vui, vuốt bộ râu trắng muốt, rồi hoá phép biến mất.

Tổng hợp và biên soạn: Thiên Hương

Giúp Trẻ Kể Chuyện Cổ Tích Sáng Tạo

Cô Lò Hoàng Hoài Thương – giáo viên Trường Mầm non Đoàn Kết (Lai Châu) – chia sẻ kinh nghiệm giúp trẻ kể chuyện cổ tích sáng tạo, nhằm nâng cao chất lượng ngôn ngữ kể, cách sáng tạo trong diễn đạt chuyện cổ tích bằng nhiều hình thức khác nhau cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.

Về thời gian: Xây dựng kế hoạch hoạt động tuần cụ thể, phân bổ thời gian hợp lý trong các giờ sinh hoạt chiều (tuần 2 buổi) cùng với trẻ chuẩn bị, làm các con rối, mô hình, tranh ảnh… để bổ sung đồ dùng dạy học và tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với các nhân vật trước khi trẻ được nghe hoặc kể lại chuyện hoặc kể sáng tạo chuyện theo tranh.

Tính thẩm mỹ và an toàn: Đồ dùng trực quan phải có màu sắc phù hợp với nhân vật trong truyện, đa dạng về màu sắc và tuyệt đối an toàn với trẻ (vật liệu sạch; không sắc nhọn; bông hoặc các vật tròn nhỏ cần được bọc kỹ, đính chặt; màu sắc chủ yếu dùng gam màu nóng và hạn chế dùng gam màu lạnh).

Bám sát vào nội dung, tình tiết của câu chuyện: Dựa vào các đồ dùng hiện có, các câu chuyện cổ tích cần kể để sưu tầm, bổ sung đồ dùng cho phù hợp.

Nguồn bổ sung đồ dùng: Giáo viên tự làm, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày, sưu tầm từ mạng internet, các truyện tranh đã cũ… và từ sự đầu tư của nhà trường.

Bài tiết đồ dùng: Hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường; tranh, con rối, sách chữ to bổ sung vào góc kể chuyện, sưu tầm các vi deo-clip và lưu giữ khoa học trong máy tính xách tay…

Sáng tạo về tên truyện: Định hướng cho trẻ dựa vào nội dung câu chuyện để đặt tên truyện khác với tên truyện ban đầu nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với nội dung câu chuyện.

Sáng tạo về tình tiết trong diễn biến của câu chuyện: Trong một số câu chuyện cổ tích phần diễn biến được giải quyết một cách nặng nề, cái ác bị trừng trị quá khắt khe, tàn nhẫn.

Dùng hệ thống câu hỏi giúp trẻ nắm được mốc, sự kiện, tình tiết chính của chuyện

Thông qua hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ lại trình tự cốt truyện và kể bằng ngôn ngữ, trí tưởng tượng sáng tạo của mình.

Ví dụ: Câu chuyện “Cóc kiện trời”, cô hỏi trẻ: Vì sao Cóc lại lên kiện trời? Cùng đi với Cóc có những ai? Khi lên đến trời thì chuyện gì đã xảy ra? Khi về đến trần gian thì thấy hiện tượng gì?

Lột tả hành động nhân vật trung tâm

Nhân vật trung tâm thường xuất hiện xuyên suốt câu chuyện, là điểm để trẻ nhớ được nội dung câu chuyện. Giáo viên có thể trao đổi với trẻ theo hoạt động của nhân vật để trẻ tự kể lại những chuỗi hành động của nhân vật.

Ví dụ: Truyện “Cây tre trăm đốt” cô giáo có thể trao đổi với trẻ theo hoạt động nhân vật như nhân vật anh nông dân cô giáo có thể hỏi:

Anh nông dân làm thuê cho ai? Anh nông dân có tin vào lời của tên nhà giàu không? Anh làm như thế nào? Anh nông dân đi vào rừng có tìm được cây tre trăm đốt không? vì sao?

Trao đổi với trẻ theo hệ thống câu hỏi hướng vào các yếu tố thần kỳ

Câu hỏi phải luôn kích thích sự sáng tạo trong diễn đạt ngôn ngữ và hoạt động kể của trẻ.

Ví dụ: Truyện “Cây tre trăm đốt” yếu tố thần kỳ là phép lạ của ông Bụt. Giáo viên hỏi: Bụt đã giúp đỡ anh nông dân như thế nào?

Truyện “Tấm cám” yếu tố thần kỳ là sự hóa thân của cô Tấm. Giáo viên hỏi: Cô Tấm đã được biến hóa như thế nào?

Ví dụ: Truyện “Sự tích qủa dưa hấu” cô chuẩn bị các tranh: Tranh 1: Mai An Tiêm cùng các quần thần. Tranh 2: Mai An Tiêm cùng vợ con ở trên đảo. Tranh 3: Mai An Tiêm nhặt được hạt dưa. Tranh 4: Ruộng dưa của Mai An Tiêm. Tranh 5: Mai An Tiêm thả dưa trên biển. Tranh 6: Mai An Tiêm cùng vợ con được vua đón trở về đất liền.

Sắp xếp tranh không theo trình tự cốt truyện

Cô giáo có thể sắp sếp không theo trình tự các bức tranh trong chuyện (xen kẽ phần kết, phần giữa, phần đầu truyện). Trẻ tự suy nghĩ, sắp xếp lại theo thứ tự câu chuyện và kể lại câu chuyện theo tranh mà trẻ đã sắp xếp.

Ví dụ: Truyện “Tích Chu” cô chuẩn bị các bức tranh: Tranh 1: Tích Chu đang leo đèo lội suối. Tranh 2: Tích Chu gặp bà tiên. Tranh 3: Bà đang quạt cho Tích Chu ngủ. Tranh 4: Bà ôm Tích Chu vào lòng.

Với những hình ảnh sinh động, hấp dẫn sẽ kích thích được trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ, trẻ hứng thú tham gia kể truyện và kể một cách sáng tạo.

Dạy trẻ thể hiện nhân vật trong chuyện cổ tích

Việc dạy trẻ thể hiện nhân vật trong truyện cổ tích không những giúp trẻ nhớ, kể, kể sáng tạo câu chuyện mà còn định hướng cho trẻ biết yêu quý những đức tính tốt đẹp, phê phán, tránh xa những đức tính xấu.

Trong việc dạy trẻ thể hiện vai nhân vật, cô Lò Hoàng Hoài Thương luôn chú trọng đến việc diễn tả được cả nội tâm và tâm trạng của nhân vật một cách phù hợp.

Với những giọng điệu nhân vật khác nhau mà cô hướng dẫn trẻ kể và nhấn mạnh vào những từ để làm nổi bật rõ ý, tính cách của nhân vật và các điệu bộ cử chỉ cụ thể là:

Giọng điệu: Căn cứ vào diễn biến tâm trạng của nhân vật, hành động của nhân vật, bối cảnh xảy ra các tình tiết đó mà lựa chọn ngữ điệu thể hiện phù hợp.

Cử chỉ: Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt… hỗ trợ rất nhiều cho việc lột tả tính cách nhân vật. Trong thực hiện cử chỉ phù hợp với nhân vật trong truyện, cô Lò Hoàng Hoài Thương định hướng

cho trẻ thể hiện cụ thể như: Phác hoạ cử chỉ xoa đầu, âu yếm của ông Bụt; nếu là một chuyện buồn nét mặt biểu lộ ủ rũ; tức giận thì dậm chân, mắt lườm, chỉ tay…

Việc định hướng cho trẻ sử dụng cử chỉ, giọng nói trong kể chuyện để lột tả tính cách nhân vật cần được uốn nắn kịp thời ngay khi trẻ kể cũng như khi trẻ giao tiếp trong và ngoài giờ học. Tránh trường hợp trẻ sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ “thái quá” ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành nhân cách của trẻ.

Phối hợp với phụ huynh tạo môi trường cho trẻ tích cực kể sáng tạo chuyện cổ tích

Để phụ huynh am hiểu và tạo môi trường thuận lợi ở gia đình cho trẻ kể sáng tạo truyện cổ tích, cô Lò Hoàng Hoài Thương đã chủ đông thực hiện các công việc:

Trao đổi với phụ huynh vào các buổi họp phụ huynh, giờ trả trẻ về các nội dung: Tên câu truyện kể hôm nay, tình cảm của trẻ về câu chuyện, mức độ kể của trẻ…, giải thích khái quát cho phụ hunh rõ về kể chuyện sáng tạo (không nhất thiết phải là y nguyên như câu chuyên trong sách về lời nói, kết chuyện…).

Tư vấn cho phụ huynh về cách nhà sách, nhà xuất bản và các tập truyện cổ tích phù hợp với trẻ mầm non như.

Lưu ý cho phụ huynh về cách “khen, chê” trẻ để không gây sự tự ty cho trẻ, trẻ được thường xuyên khích lệ khi thể hiện kể lại mội câu chuyện cổ tích cho ông bà, bố mẹ, mọi người trong gia đình cùng nghe.

Cô Lò Hoàng Hoài Thương nhấn mạnh: Trong việc phối hợp với phụ huynh học sinh để tư vấn về tạo môi trường cho trẻ tích cực kể sáng tạo truyện cổ tích đòi hỏi người giáo viên cần hết sức ân cần, tôn trọng phụ huynh, tôn trọng trẻ (kể cả đối với trẻ chưa có nhiều tiến bộ) thì mới đạt hiệu quả trong công tác vân động phụ huynh tham gia tạo môi trường cho trẻ kể sáng tạo truyện cổ tích.

Đề Xuất 10/2023 # Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu # Top Like

Xem 99

Cập nhật nội dung chi tiết về Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu mới nhất ngày 02/10/2023 trên website chúng tôi Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 99 lượt xem.

Ngày xửa ngày xưa, có một anh tiều phu nghèo khổ, cha mẹ anh bệnh nặng chẳng may mất sớm, chỉ để lại cho anh duy nhất một chiếc rìu sắt. Hằng ngày, anh tiều phu phải lên núi đốn củi rồi đem củi bán lấy tiền kiếm sống qua ngày.

Một hôm, như thường ngày anh tiều phu lại vác rìu lên núi để đốn củi. Trong lúc đang chặt củi ở cạnh bờ suối, thì chẳng may chiếc rìu của anh bị gãy cán, lưỡi rìu bị văng xuống dưới dòng suối. Dòng suối nước chảy cuồn cuộn, nếu ai lỡ trượt chân rơi xuống suối thì có thể bị nước cuốn trôi khó lòng bơi được vào bờ, do đó anh tiều phu chỉ biết ngồi nhìn lưỡi rìu chìm sâu xuống đáy nước rồi than khóc tỉ tê, đến cỏ cây cũng mũi lòng:

Bỗng có một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ xuất hiện trước mặt anh chàng tiều phu, ông lão bước đến nhìn chàng tiều phu và hỏi:

– Tại sao con lại ngồi khóc ở đây?

Chàng tiều phu gạt nước mắt, nhìn ông lão đáp:

– Thưa ông, bố mẹ con chẳng may mất sớm, con phải sống mồ côi từ nhỏ. Gia cảnh nhà con rất nghèo, gia tài duy nhất của con là chiếc rìu sắt, đó cũng là kỉ vật mà bố mẹ con trước lúc qua đời để lại. Hàng ngày con nhờ có chiếc rìu lên núi đốn củi, kiếm sống qua ngày. Nhưng vừa nãy trong lúc đốn củi, chẳng may con làm lưỡi rìu rơi xuống suối mất rồi… từ nay con không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Con đau buồn quá thưa ông!

Ông lão nghe xong liền cười và nói:

– Ta tưởng chuyện gì lớn, con đừng khóc nữa, ta sẽ giúp con lấy lưỡi rìu lên.

Vừa dứt lời, ông lão liền lao mình xuống dòng suối. Được một lúc, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc chói loáng và hỏi anh tiều phu nghèo:

– Đây có phải là lưỡi rìu của con hay không?

Chàng tiều phu liền đáp:

– Dạ không thưa ông! Đây không phải lưỡi rìu của con.

Ông lão cười rồi lại lặn xuống dòng suối đang chảy xiết. Một lát sau, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, lần này trên tay ông cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng chói lấp lánh. Ông lão hỏi chàng tiều phu:

– Lưỡi rìu vàng này có phải của con không?

Anh chàng tiều phu nhìn ông lão, anh lại lắc đầu thật thà trả lời:

– Dạ lưỡi rìu này cũng không phải là của con. Lưỡi rìu của con bằng sắt ông ạ.

Nghe vậy, ông lão lại tiếp tục lặn sâu xuống dòng suối đang cuồn cuộn. Lần này, khi ngoi lên khỏi mặt nước ông đưa lên một lưỡi rìu bằng sắt, ông lão lại hỏi:

– Vậy đây có phải lưỡi rìu mà con đánh rơi hay không?

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình, anh chàng tiều phu liền reo lên mừng rỡ:

– Ôi, đây đúng là lưỡi rìu của con rồi. Lưỡi rìu này là cả sinh mạng của con, con vô cùng đội ơn ông đã tìm lại nó cho con, con thật không biết lấy gì để đền ơn ông.

Ông lão bỗng chốc hiện nguyên hình là một ông Bụt. Ông Bụt tươi cười, giọng rềnh vang nói:

– Con đúng là một người thật thà trung thực, không hề tham lam vàng bạc và lợi lộc trước mắt. Để khen thưởng cho con. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này, con hãy nhận lấy.

Anh chàng tiều phu vui mừng cúi đầu cảm tạ, hai tay đỡ lấy hai lưỡi rìu.

Ông Bụt cười vui, vuốt bộ râu trắng muốt, rồi hoá phép biến mất.

Tổng hợp và biên soạn: Thiên Hương

Tổng Hợp Những Mở Bài Hay Và Độc Đáo Về Các Tác Phẩm Lớp 12 ( Phần 4)

Tuyển tập những mở bài hay nhất về các tác phẩm lớp 12 ,dành cho học sinh tham khảo ( Phần 4 ) Một số mở bài về Tây Tiến – Quang Dũng Một số mở bài về Việt Bắc – Tố Hữu

Mở bài 1: Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN trong đó bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10-1954 sau thắng lợi chiến dịch ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: ” Bài thơ VB của TH là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến” Mở bài 2: Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc.Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Mở bài 3: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta thắng lợi được nhân loại tiến bộ vinh danh là “cuộc chiến tranh thần thánh”. Tính thần thánh, huyền thoại ấy được biểu hiện ở đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt , ở lòng yêu nước, lý tưởng độc lập – tự do, ở tinh thần kiên cường, dũng cảm của quân dân ta. Với một lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân ta phải đối diện trước bọn thực dân Pháp binh hùng, tướng mạnh, vũ khí hiện đại,…Vậy mà cuối cùng dân tộc ta đã chiến thắng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, sức mạnh của tình dân với Cách mạng, tình người mặn nồng, tha thiết, yêu thương, gắn bó với nhau.Vẻ đẹp của khối đoàn kết toàn dân, của tình người ấy đã được nhà văn Tố Hữu ngợi ca bằng những từ ngữ, những câu thơ, những hình tượng thẩm mĩ vô cùng ấn tượng trong đoạn trích phần một của trường ca Việt Bắc. Ngày nay, cuộc chiến đã đi qua, nhưng tình người thì còn lại mãi mãi… Mở bài 4: Tố Hữu là nhà thơ lớn, con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, các chặng đường thơ của ông đều gắn bó với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của Tố Hữu luôn in đậm khuynh hướng trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc. Và “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Nó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, anh hùng của dân tộc và lời tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng. Đoạn trích “…” là lời của cán bộ kháng chiến về xuôi với người dân Việt Bắc, như sự đáp lời cho câu hỏi đau đáu “Mình về mình có nhớ ta?”. Nếu như đồng bào Việt Bắc nhớ cán bộ kháng chiến thì cán bộ kháng chiến cũng dành trọn tình cảm yêu thương cho những con người nghĩa tình ấy. Một tình cảm tri ân đồng vọng.

Mở bài 1: Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Mở bài 2: Trong suy nghĩ của mỗi người, yêu nước thường là một tình cảm lớn lao, xa vời, khó cảm nhận. Nhưng qua bài Đất nước, bằng những câu thơ vừa dồn nén cảm xúc vừa trĩu nặng suy tư, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thầm nhắc bạn đọc – nhất là lớp người trẻ tuổi “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình/Phải biết gắn bó và san sẻ…” Đất Nước gắn bó, biểu hiện ngay bên cạnh chúng ta. Phải chăng lòng yêu nước bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi nhất, như yêu cha mẹ, gia đình, mái nhà ta ở, hạt gạo ta ăn, từ mỗi giọt máu, đốt xương của chính mình? Từ tình yêu nhỏ, tuổi trẻ hãy mở rộng tấm lòng để có tình yêu lớn. Từ tình yêu, chúng ta cần thức tỉnh sứ mệnh của mình trước lịch sử. Ngày xưa, sứ mệnh ấy là chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, còn ngày nay, sứ mệnh ấy là gì? Mở bài 3: Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu song gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Một số mở bài về Sóng – Xuân Quỳnh

Mở bài 1: Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loai. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Mở bài 2: Sẽ thật là thãi thừa khi nói về vẻ đẹp, sự huyền bí, sự hấp dẫn, niềm sung sướng và cả những đớn đau do Tình Yêu đem lại. Thế gian đã tốt bao nhiêu giấy, mực, thậm chí cả ..máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng…Đó chính là sự thuần khiết, lung linh của Tình yêu. Có lẽ tự thủa hồng hoang, tình yêu của loài người cũng đã vậy và cho đến nay nó vẫn vậy về bản chất, tình yêu đó chỉ thay đổi về hình thức thể hiện nhưng bảo tồn nguyên vẹn chất liệu nội dung.Thật là đẹp và lãng mạng biết bao khi tác giả Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để nói lên những trăn trở, khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Mở bài 3: Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Muôn đời tình yêu vẫn mới lạ vẫn hấp dẫn với mọi người.Nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu đã nói về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt in đậm dấu ấn tâm hồn tư tưởng và phong cách của mình. Xuân Quỳnh với bài thơ “sóng”-một bài thơ tình duy nhất trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên. Tình yêu ở đây được đề cập đến một cách sâu sắc đậm đà. Chị đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc tâm trạng những sắc thái tình cảm vừa phong phú phức tạp vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mở bài 4: “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Một số mở bài về Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

Mở bài 1: Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lý Pá Tra và vợ chồng A Phủ. Mở bài 2: Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài cho biết, “ngoài tài liệu và trên cả sáng tạo”, ông đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ”: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Thật vậy, cụ thể trong “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tô Hoài là biệt tài phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được. Mở bài 3: Tô Hoài – nhà văn của người dân miền núi. Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong sương với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị – nhân vật chính trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ vào đêm tình mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc. Mở bài 4: Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực tram bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Mở bài 5: Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại ở chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay “Vợ chồng A Phủ” – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến. Mở bài 6: Tô Hoài được biết đến như nhà văn của phong tục và người dân miền núi phía Bắc. Có lẽ vậy mà Tô Hoài chia sẻ: “Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi”. Ông tìm kiếm sự chân thực với quan niệm viết văn là một quá trình không tầm thường, phản ánh sự thật ở đời cho dù phải đập vỡ những hình tượng trong lòng bạn đọc. Nếu cùng thời với nhà văn, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc tìm thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Tô Hoài Lên Tây Bắc với quan niệm Văn chương và khao khát đóng góp cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc (trong đợ theo bộ đội lên Tây Bắc mở trại sáng tác) là tám tháng Tô Hoài hiểu và cảm đời sống cùng tấm lòng của người dân nơi đây. Trước khi về, tạm biệt dân làng tại chân núi, hai tiếng “Cháo lù! Cháo lù!” (Trở lại! Trở lại!) để lại nỗi nhớ da diết về người thương nơi đây. Ông viết tập Truyện Tây Bắc và trong đó “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện hoàn thành năm 1953 với người phụ nữ tên Mị trải qua cuộc đời đầy bi kịch trước những hào quang bề ngoài. Thế nhưng, sau sự cam chịu sống dật dờ, Mị đã thức tỉnh khao khát hạnh phúc và bứt phá khỏi sợi dây cường quyền, thần quyền để tìm lại tự do cùng với A Phủ.

Một số mở bài về Vợ nhặt – Kim Lân

Mở bài 1: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Mở bài 2: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà. Mở bài 3: Dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế dưới ngòi bút đầy tinh tế và tài hoa của Kim Lân Mở bài 4: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Một số mở bài về Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

Mở bài 1: Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu. Mở bài 2: …Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra với các tác phẩm thuộc loại này chỉ nói đến tính sử thi là đủ bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó). Mở bài 3: Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngăn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

Một số mở bài về Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu

Tài liệu tổng hợp từ nhiều nguồn

Cập nhật thông tin chi tiết về Kể Chuyện Ba Lưỡi Rìu Lớp 4 Sáng Tạo Và Độc Đáo Nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!