Bạn đang xem bài viết Hình Tượng Ông Tơ Bà Nguyệt Trong Văn Hóa Dân Gian được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Từ trong điển tích, giai thoại Trung Quốc
Việt Nam tự điển, quyển hạ của Lê Văn Đức, trang 254, phần Phụ lục Tục ngữ – Thành ngữ – điển tích ghi: Nguyệt hạ lão nhân, ông già ngồi dưới bóng trăng, tức Ông Tơ, vì tiên se duyên cho người đời.
Lý Phục đời Đường kể trong quyển Tục U Quái Lục – Định Hôn Điếm rằng: Đời nhà Đường (618 – 907) có chàng nho sĩ tên Vi Cố, học giỏi, thi phú tài danh. Một hôm du học đến Đông Đô, giữa đêm trăng sáng, chàng thơ thẩn dạo chơi bỗng nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi nhìn vào quyển sổ to, tay se tơ đỏ. Vi Cố lấy làm lạ đến gần, hỏi:
– Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Còn sách này là sách chi và tơ đỏ này, cụ se làm gì?
Cụ già đáp: Ta là Nguyệt Lão, xem sổ định hôn của dân gian. Còn chỉ ta đương se là duyên của vợ chồng do tơ này buộc lại.
Vi Cố mừng rỡ, xin cụ cho biết duyên của mình. Cụ già mỉm cười nói: Số duyên của nhà ngươi là con bé 3 tuổi của mụ ăn mày, thường ăn xin ở chợ Đông Đô.
Vi Cố nghe, thở dài không nói nên lời. Cụ già biết ý, bảo: Đó là duyên trời định. Già này không thay đổi được. Mà nhà ngươi muốn tránh cũng chẳng xong.
Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về. Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Đông Đô, quả thực trông thấy một mụ ăn mày, tay ẵm đứa bé gái 3 tuổi, xin ăn ở góc chợ. Cố bực tức, mướn một gã lưu manh đâm chết được đứa bé kia, sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh vâng lời, cầm dao xông đến, chém một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy.
Tên lưu manh tưởng đứa bé đã chết, sợ người bắt nên bỏ trốn. Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám Hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Cố ra lễ quan Tể Tướng họ Chu vốn làm chủ khảo khoa thi, thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể Tướng liền gả con gái cho. Vi Cố mừng rỡ, bái tạ. Đến khi nhập phòng, Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn ở sau ót có một vết thẹo, chàng lấy làm lạ hỏi. Nàng thành thật kể rõ thân thế mình vốn là con của mụ ăn mày, 15 năm về trước bị tên lưu manh ác độc, không biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân chạy khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể Tướng gặp giữa đường, vì không con nên đem về nuôi xem như máu huyết.
Nghe vợ thuật, Vi Cố thở dài, lẩm bẩm: Thật là duyên trời định!
Một dị bản khác, theo Thần tiên truyện, thời Nguyên Hòa nhà Đường rất thái bình, có quan đại thần Chung Thôi. Quý tử của Chung Thôi là Chung Hạo văn hay chữ tốt. Chung Hạo thường theo cha đi săn bắn. Một hôm, do mãi đuổi theo con thỏ, Chung Hạo lạc vào rừng sâu, quanh co cả ngày không tìm được lối ra. Đêm xuống lạnh giữa rừng hoang, dưới ánh trăng Hạo nghe tiếng suối róc rách, chàng lần đến tìm nước uống. Chàng thấy bên bờ suối, trong hang đá, một bà lão đang ngồi se chỉ, màu chỉ đỏ thắm. Chung Hạo khẽ bước lại gần, thưa:
– Tiểu nhân đi săn, bị lạc đường xin hỏi nơi đây là đâu, sao lão bà lại ngồi một mình se chỉ đỏ?
– Đây là động tiên, ta đang ngồi se duyên cho những đôi tình yêu nhau dưới trần gian. Chỉ này là dây tơ hồng.
Ta se nhiều hay ít thì trai gái cũng theo đó mà thương yêu nhau nhiều hay ít. Ta muốn đôi trai gái nào nên vợ chồng thì ắt chúng sẽ kết duyên, không xa lìa nhau được.
– Vậy thưa lão bà có thể cho tiểu nhân biết sau này sẽ được sánh duyên cùng ai?
Lão bà đưa mắt nhìn vào bên trong động. Ở đó có một ông lão đang cúi gầm trên một cuốn sách dày cộm.
– Kìa là Ông Tơ, công tử muốn biết thì hỏi ông ấy!
Ông lão hỏi tên tuổi Chung Hạo rồi lật từng trang sách ra tra cứu:
– Sau này công tử sẽ được se duyên với Tố Lan, con gái một mụ ăn mày ở chợ Đông, gần kinh thành.
Lão ông chưa dứt lời, Chung Hạo đã đùng đùng nổi giận. Đường đường là một quí tử của quan đại thần, tài nghệ, văn hay chữ tốt khó ai bì kịp mà sau này lại kết duyên cùng vơi con gái mụ ăn mày. Tức tối, chàng quay bước đi, không một lời chào. Ông Tơ vẫn chúi đầu trong sổ bộ, Bà Nguyệt vẫn bình thản se chỉ hồng.
Chung Hạo bỏ chạy thụt mạng. May mắn, sáng sớm mai, quân lính tìm gặp. Trở về dinh, sau ngày đó, chàng đâm ra biếng ăn lười nói. Lời tiên tri của Ông Tơ ám ảnh, Chung Hạo tìm xuống chợ Đông. Vừa đến đầu chợ, đã gặp ngay một đứa bé gái chừng 9 tuổi mặt mày lem luốc, áo quần rách bươm, dắt theo một bà ăn xin mù lòa. Dò hỏi thì biết được tên của con bé là Tố Lan, Chung Hạo thất kinh, bỏ chạy. Trở về nhà, Hạo quyết cải mệnh trời để không phải làm chồng một con bé ăn mày bẩn thỉu.
Một buổi sáng Chung Hạo lại tìm xuống chợ, ném đã vỡ đầu cô bé ăn xin nọ. Thời gian sau, mọi người cho biết con bé bị thương tích quá nặng, e không sống được; và bà lão mù đi đâu cũng không ai rõ.
Bảy năm sau, Chung Hạo đã nên danh phận. Nghe tin thiên hạ bàn tán ở huyện Trúc Giang có con gái quan Thái úy nổi danh là một giai nhân sắc nước hương trời, tên là Thảo Nương. Vương Tôn công tử gần xa, ngày đêm đến cầu thân, nhưng chưa ai được kén chọn. Chung Hạo tìm đến, thuê một phòng trọ trước phủ đường. Mới một lần tình cờ nhìn thấy Thảo Nương, Chung Hạo xao động. Chàng vội quay trở về nhà, xin phụ thân tính đường mai mối. Hai gia đình là môn đăng hộ đối, nên việc kết hôn sớm viên thành. Đôi uyên ương nên vợ chồng yêu nhau thắm thiết.
Một hôm, Chung Hạo âu yếm gội đầu cho Thảo Nương. Thấy vợ mình có một cái thẹo lớn đàng sau gáy, chàng hỏi nguyên nhân. Và nàng kể:
– Nguyên, thiếp là con một bà ăn mày mù ở chợ Đông. Lúc nhỏ, một hôm đang dắt mẹ đi ăn xin, không hiểu sao lại có một kẻ xấu cầm đá ném vào đầu. thiếp, thương tích nặng, tưởng đã lìa đời, may nhờ bà con tận tình cứu chữa. Sau đó, được quan Thái úy có lòng từ tâm, lại hiếm muộn , nên đem hai mẹ con thiếp về nuôi dưỡng. Thiếp được nghĩa phụ dạy dỗ, cho ăn học. Mẹ thiếp qua đời. Thiếp được giúp việc bút nghiên cho nghĩa phụ nơi công đường, đã rất nhiều đám đến dạm hỏi, nhưng đều bị từ chối. Lạ thay, bên nhà chàng vừa ngỏ, thì dưỡng phụ bằng lòng ngay. Chúng ta đẹp duyên ngày nay chắc là có nợ có duyên, …
– Không, Thảo Nương nàng ơi, nếu là định mệnh thì nàng phải là …Tố Lan.
Tố Lan là tên của thiếp lúc còn bé. Sau khi được đưa về dinh, nghĩa phụ đã đổi tên này. Bấy giờ, Hạo mới biết Ông Tơ đã se duyên thì không thể khác được, chàng nhìn Tố Lan và khẽ ngâm:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Nguyên thuỷ, cuộc hôn lễ nào cũng có nghi thức cột chỉ đỏ, nhưng đến đời Tống lại biến thành đội khăn đỏ. Trong hôn lễ, cặp dâu rễ đội chung chiếc khăn đỏ đi vào phòng tân hôn. Tập tục này hàm ý nói: Đồng tâm tương kết, bạch thủ giai lão (đồng tâm kết hợp nhau, đến lúc già đầu bạc). Hiện nay, ở một vài địa phương ở Trung Quốc vẫn còn duy trì tập tục này.
Tương truyền, ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày sinh nhật của Nguyệt Hạ Lão Nhân. Vào ngày ấy, có rất nhiều trai đơn gái chiếc đến Miếu Thờ của Nguyệt Lão để cầu cho được mối lương duyên. Cũng có rất nhiều người được thỏa nguyện nên mang “bánh mừng”, “đường mừng” đến cúng tế, trả lễ.
Từ hình tượng Ông già dưới trăng có thành ngữ Nguyệt Hạ Lão Nhân, còn Nguyệt Lão, là cách nói tắt của thành ngữ này. Và những chữ: Tơ hồng, Chỉ hồng để chỉ việc nhân duyên vợ chồng. Những chữ Ông Tơ, Nguyệt Lão, Trăng già, … cũng do điển này mà ra.
2. Đến Ông Tơ Bà Nguyệt văn hoá dân gian
Trong các nghi thức đám cưới của người Việt xưa đều có nghi lễ tế Tơ Hồng còn gọi tế thần Tình duyên. Nguyệt lão là vị thần Tình duyên theo tích Vi Cố đời Đường (Trung Quốc) mà chúng tôi đã kể trên. Theo đúng ý nghĩa tục lệ thì tế thần Tình duyên phải tổ chức tại phòng hoa chúc vào tối tân hôn. Về sau người ta bày ra tục lệ tế thần Tình duyên tại sân nhà. Nhất Thanh trong Đất lề quê thói viết: Khi xưa tế Tơ Hồng ngay lúc sau khi đưa dâu về đến nhà, trước khi yết lễ tổ họ, lễ yết gia tiên và chào mừng ông bà cha mẹ họ hàng, ý rằng khi cô gái bước chân về đến nhà người ta là nên vợ chồng, lương duyên do ông Tơ chấp mối se lại, điều trước tiên là nghĩ đến công đức của Ông, tế lễ để ông chứng kiến việc hôn phối đã thành đồng thời tạ ơn Ông.
Sau đó, đôi trai gái vào lạy 4 lạy, 3 xá, rồi chồng lấy rượu mời vợ. Vợ bưng rượu mời chồng. Uống xong, cả hai lấy hai cái chén úp lại, gọi là giao bôi hợp cẩn.
2.2. Ông Tơ Bà Nguyệt trong triết lý âm dương
Trong công trình “Tìm về bản sắc vắn hoá Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho rằng: Ở Việt Nam mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài hoá Ông đồng bà cốt, đồng Cô đồng Cậu, đồng Đức Ông, đồng Đức Bà (…), ngay cả khái niệm vay mượn đơn độc, khi nhập vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối là một “ông Tơ Hồng”, thì vào Việt Nam biến thành “Ông Tơ Bà Nguyệt” (trang 112).
2.3. Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong ca dao
Lẽ tất nhiên, là hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt, Nguyệt Lão, Tơ Hồng gắn liền với tình yêu, hôn nhân và nỗi lòng khát khao giao hoà của tuổi trẻ. Nó biểu hiện đầy đủ những cung bậc tình yêu.
Mới quen nhau, ướm lời, hỏi thử để giao tình, họ mượn hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt “nói chuyện đò đưa”:
Ông Tơ đành vấn Bà Nguyệt đành vương
Phụ mẫu đành gả, hỏi nàng thương không nàng?
Cô gái đáp lại cũng không kém phần sắc sảo:
Vì Ông Tơ Nguyệt đã khuyên lấy chàng
Từ đó, chàng trai chủ động hơn:
Nhờ Ông Tơ Bà Nguyệt kết vợ chồng trăm năm
Hay pha đôi chút hài hước, lém lĩnh, bịa mà như thật:
Ông Tơ Hồng nói nhỏ anh nghe
Để xong mùa cấy ổng sẽ se cho hai đứa mình
Phần cô gái thì mộng cho đến ngày nào đó có được “nửa kia” như tâm nguyện, rồi sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường cho tròn bổn phận:
Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa
Giả tên Bà Nguyệt, Ông Tơ
Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng Hùng
Theo quan niệm dân gian, hôn nhân tốt đẹp không thể thiếu được bàn tay se dây của Nguyệt Lão:
Sớm cùng phận đẹp duyên ưa
Ông Tơ Bà Nguyệt dắt đưa nên gần
Nó đã như duyên số từ kiếp trước, giống như tích đẹp thuở nào:
Thương sao thấy mặt thương liền
Cũng như Ông Tơ Bà Nguyệt nối duyên mình thuở xưa
Yêu nhau, ai chẳng muốn mãi mãi ở bên nhau:
Ông Tơ chỉ quyết se mình với ta
Cũng có khi dân gian dí dỏm chuyện “vái van”. Nhưng điều quan trọng nhất theo họ là mong muốn “tơ duyên” được bền chặt trong bất cứ cảnh ngộ khó khăn nào, thế thôi:
Vái Ông Tơ một chầu bánh tráng
Vái Bà Nguyệt một tán đường đinh
Đôi ta gá nghĩa chung tình
Dầu ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng
Trong tình yêu lứa đôi, lời thề nguyền chung thuỷ là một cung bậc đầy thú vị và dường như không thể thiếu. Ngoài lời minh sơn hải thệ, hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt nhiều lúc cũng phải “có mặt” để chứng giám:
Lời nguyền chứng cớ có Ông Tơ Hồng
Thác thời mới dứt, sống không bỏ chàng
Ai nói chi chàng chớ có nghe
Ông Tơ Bà Nguyệt đã se ta rồi
Đến chừng dang dỡ, có trăm nghìn lý do khiến duyên nợ không thành, khi ấy, Ông Tơ, Bà Nguyệt phải chịu một phần trách nhiệm.
Có khi do tình cảm chủ quan của người trong cuộc:
Kìa khóm trúc nọ khóm mai
Ông Tơ Bà Nguyệt se hoài chẳng thương
Em không trách ông Tơ không phiền Bà Nguyệt
Trách phận mình sao thiệt long đong
Có khi do Ông Tơ chậm tay để lỗi … thời gian:
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Ba năm chẳng xứng duyên hài
Nằm lăn xuống bệ lạy dài Ông Tơ
+ Trách Ông Tơ cùng Bà Nguyệt Lão
Se dây vào lại đảo dây ra
+ Vợ chồng cũng muốn vợ chồng đời
Trách Ông Tơ Bà Nguyệt se rời mối dây
+ Trách Ông Tơ ra tay hờ hững
Lúc se dây sao chẳng lựa ngày
Trước sao se mối tơ này làm chi
Cùng cấp độ ấy, nguyên nhân để hai người yêu nhau không được sống trọn đời bên nhau là bởi … Ông Tơ “lừa lọc”:
Ông Tơ Bà Nguyệt khéo lừa đôi ta
Người trong cuộc tìm gọi Ông Tơ để chất vấn:
Phải gặp Ông Tơ hỏi sơ cho biết
Gặp Bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
Nợ duyên sớm hết cho đành dạ con
Tình nồng, nhưng duyên không thắm, đành phải hỏi Trời cao, hỏi mà như tự trả lời vậy:
Bực mình lên tận thiên cung
Đem Ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời
Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi,
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Trong cuộc sống, không phải việc gì cũng như ý, nói chi là chuyện hoà hợp giữa hai tâm hồn. Chúng ta hãy nghe lời tự than, tự trách, trách mình nhiều, nhưng cũng trách cả tình cảnh éo le, chẳng được ai đoái hoài, thương cảm:
Lên cậy Ông Tơ, Ông Tơ bận cuốc đất đào đá;
Về nhờ Bà Nguyệt, Bà Nguyệt mắc chiếc má (mạ) cấy ruộng bến đình;
Không có ai vô se dây chắp mối cho hai đứa mình thành đôi
Gặp cảnh đồng sàng dị mộng, trái nợ, lỡ duyên, không biết trách ai, thôi thì … trách người se duyên:
Rồi đây ta trách kiện Ông Tơ
Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào.
Ông Tơ chết tiệt, Bà Nguyệt chết toi
Se sao lẫn lộn, se tôi lấy nàng
Uất ức, đau đớn, không còn “lạy van”, “trách móc” nữa, người trong cuộc đã ra tay:
Muốn chôn Bà Nguyệt, muốn vùi Ông Tơ
Giận người làm mối vẩn vơ
Duyên tôi đã lỗi Ông Tơ lại lầm
Bắt tay Ông Tơ mà bơ mà bớp.
Bắt lấy Bà Nguyệt mà cột cội cau;
Cứ se khắp thiên hạ đâu đâu,
Bỏ hai đứa mình lận đận, ruột héo gan xàu không se.
Quá đau đơn, quyết phải hành động:
Bắt Ông Tơ mà đánh ba hèo,
Duyên người se cả, phận em đói nghèo không se.
Lí do bị “đánh ba hèo” là vì Ông Tơ không chịu se duyên cho cô gái đói nghèo. Trong lúc những người khác (không đói nghèo như cô ta), thì ông se rất tốt.
Nguyên nhân đánh Ông Tơ vì se duyên muộn hoặc không se mà chưa rõ vì đâu, xem ra không hợp lí bằng thái độ coi khinh người nghèo đói trong xã hội vốn chuộng cảnh “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân. Đó là điều người thấp cổ bé miệng muốn thốt lên để … liệu trời cao có thấu chăng?
Bắt Ông Tơ mà cho ba đấm,
Bắt Bà Nguyệt đánh bốn mươi chín cái hèo;
Sự “trừng phạt” dành cho “Nguyệt lão” cũng được biện luận đầy đủ, song dường như đối tượng hướng đến không phải chỉ một mình người làm mối mai, mà nó hướng đến nhiều người khác nữa:
Hỏi thăm Bà Nguyệt có nhà hay không
Thế gian chuộng của, chuộng công,
Nào ai có chuộng người không bao giờ
Ông Tơ ông buộc ông Trời biểu không
Những câu ca vừa nêu là cảnh ngộ của phận “gái nhà nghèo”, thì đây là cảnh ngộ của một chàng trai độc thân, cũng chẳng phải giàu sang, quyền quý, Ông Tơ Bà Nguyệt bị đem ra hài tội :
Bắt Ông Tơ đánh sơ vài chục,
Bắt Bà Nguyệt nếm mấy mươi hèo.
Người ta năm bảy vợ theo,
Còn tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!
Nguyền rửa để hả dạ hả lòng, duyên phận lỡ làng, biết làm sao hơn được!
Ông Tơ chết tiệt Bà Nguyệt chết trùng tang
Ông thầy bói chết giữa đàng
Anh với em cách xã lạ làng
Muốn trao nhân nghĩa ngỡ ngàng khó trao
Tại cha mẹ đứt đường Tơ Nguyệt
Khuyên em đừng trực tiết uống công
Cuối cùng, họ phủ nhận luôn vai trò của “thần Tình yêu”:
Trăm năm trăm tuổi trăm chồng
Đẹp duyên thì lấy chẳng ông Tơ Hồng nào se!
Ông Tơ Bà Nguyệt là một hình tượng độc đáo trong tín ngưỡng của người bình dân. Từ trong điển tích của văn học cổ điển Trung Quốc, hình tượng ấy đã đi vào đời sống tâm hồn của người dân Việt vừa trở nên gần gũi thân thiết qua những vần ca dao với tất cả những cấp độ của tình yêu lứa đôi, vừa trở thành một phong tục truyền từ đời này sang đời khác.
Dù là thần tiên (hay người bậc trên) mà làm việc chung không công bằng, phân biệt đối xử thì cũng bị hình phạt, dù đó chỉ là lời nói của người dân lao động nhưng xem ra không phải là không “sức nặng”, không có giá trị.
Từ Nguyệt Lão Hạ Nhân đến thành ngữ Ông Tơ Bà Nguyệt, vừa là sự sáng tạo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, độc đáo hơn nó còn gắn liền với một tín ngưỡng: triết lý âm dương hoà hợp mà chúng tôi đã dẫn ý ở trên. Vì thế, khi tiếp nhận hình tưởng này tưởng cũng không nên máy móc, cực đoan, … có thể mới thấy được hết cái hay, cái đẹp của những người gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, vậy!.
Theo http://www.vanchuongviet.org/
Sân Khấu Hóa Tác Phẩm Văn Học Dân Gian
Tạo niềm say mê, hứng thú, tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong việc học và sự năng động, tự tin khi tham gia các hoạt động tập thể là nhu cầu và cũng là mục đích của hoạt động giáo dục nói chung và việc học tập các tác phẩm Văn học dân gian nói riêng.
Nói đến Văn học dân gian không thể không tính nguyên hợp như một đặc trưng cơ bản. Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở chỗ: Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Sự kết hợp này là tự nhiên, vốn có ngay từ khi tác phẩm hình thành. Một bài dân ca trong đời sống thực của nó, không chỉ có lời mà còn có nhạc, điệu bộ, lề lối hát… Biểu hiện rõ nét nhất của tính nguyên hợp là tính diễn xướng. Diễn xướng là trình bày, biểu diễn tác phẩm. Tính diễn xướng gắn liền với Văn học dân gian như điều kiện sống còn, nhờ diễn xướng mà tác phẩm được truyền đến đông đảo quần chúng nhân dân. Chính trong biểu diễn, các phương tiện nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian mới có điều kiện kết hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ tổng hợp.
So với Văn học viết, Văn học dân gian luôn được diễn xướng bằng nhiều hình thức khác nhau ở những môi trường sinh hoạt dân gian khác nhau (nghi lễ, lao động, sinh hoạt). Để làm sống lại tác phẩm Văn học dân gian trong môi trường diễn xướng ấy thì hình thức sân khấu hóa tác phẩm dân gian là một hoạt động trải nghiệm thú vị, bổ ích, phù hợp với đặc trưng thể loại.
Kịch Tấm Cám – Lớp 11 Anh
Trong Chương trình Ngữ văn 10, các em được tiếp xúc với 4 thể loại tự sự dân gian là sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười. Với những tác phẩm này, ngoài việc học kiến thức trên lớp, giáo viên có thể hướng dẫn các em đọc kỹ văn bản sau đó chọn lựa một số trích đoạn hay chuyển thể thành kịch bản văn học và nhập vai các nhân vật để biểu diễn trên sân khấu. Trên cơ sở nền tảng của cốt truyện dân gian, bằng trí tượng và khả năng sáng tạo của mình các em có thể chuyển thể thành các trích đoạn kịch nói, ca kịch vừa mang hơi thở dân gian vừa mang nét trẻ trung mới mẻ, sự hài hước, dí dỏm, đáng yêu mà không phá vỡ ý nghĩa của cốt truyện, những bài học về nhân sinh, đạo lý làm người của dân tộc. Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu trang phục, ngôn ngữ, lối sống của người Việt thời đại mà tác phẩm hình thành thông qua sách báo, Internet, và các nguồn khác để có thể phục chế lại một cách sống động nhất bối cảnh xã hội, văn hóa cũng như cách trang phục, ngôn ngữ của các nhân vật.
Hầu hết các tác phẩm tự sự dân gian đều có thể chuyển thể thành kịch bản dưới dạng các trích đoạn để trình diễn trên sân khấu như: Nghêu sò ốc hến, Quan âm Thị Kính, xã trưởng mẹ Đốp, Thị Mầu lên chùa… tuy nhiên để bám sát chương trình Ngữ văn lớp 10, giáo viên nên hướng dẫn các em xây dựng kịch bản từ các tác phẩm được học như thi Đam San, truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy”, truyện cổ tích “Tấm Cám”, truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”… Xây dựng kịch bản đòi hỏi các em phải đọc, nghiên cứu kỹ tác phẩm, nắm bắt được ý nghĩa nhân sinh, những bài học triết lý đạo đức mà tác giả dân gian gửi gắm nên đây là cơ hội để các em khắc sâu hơn những kiến thức được học trong giờ chính khóa. Đồng thời qua trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của các em, tác phẩm dân gian sẽ có thêm màu sắc mới đầy vui tươi dí dỏm, gần gũi hơn cách cảm, cách nghĩ của giới trẻ hôm nay. Từ đó các em sẽ thấy yêu hơn, hứng thú hơn khi tiếp nhận văn học dân gian.
Kịch Sơn Tinh Thủy Tinh – Lớp 6A
Với hình thức sân khấu hóa tác phẩm dân gian bên cạnh hoạt động diễn kịch, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sưu tầm các bài hát dân ca ba miền và luyện tập để trình diễn trên sân . Ca dao dân ca là những câu hát thể hiện tâm tư, tình cảm của người lao động. Ca dao là lời thơ dân gian còn dân ca là những câu hát kết hợp lời thơ và âm nhạc. Vì thế để ca dao dân ca thực sự sống trong lòng người thì hoạt động diễn xướng ca dao là hết sức cần thiết. Với khả năng diễn xuất, trang phục, sự hỗ trợ của âm thanh, ánh sáng, màu sắc trên sân khấu những bài ca dao dân ca sẽ trở nên duyên dáng, lung linh hơn. Các em sẽ có cảm nhận khác hơn khi các em học trên không gian lớp học và chỉ tiếp xúc với văn bản ngôn từ của tác phẩm.
Múa Hồn quê – Lớp 10 A
Có thể nói sân khấu hóa tác phẩm dân gian là một hình thức trải nghiệm bổ ích, hấp dẫn, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh thông qua việc các em tự chọn lựa tác phẩm, tự sáng tác kịch bản, tự thiết kế sân khấu phù hợp với không gian của tác phẩm dân gian xưa. Hình thức này cũng rèn luyện nhiều kĩ năng mà trong chương trình học khó có thể thực hiện được như: làm việc nhóm, đóng vai, viết kịch bản, thiết kế sân khấu…
Sân khấu hóa tác phẩm dân gian giúp học sinh và giáo viên được đặt mình vào “trường sáng tạo” và “trường thưởng thức” các tác phẩm dân gian của nhân dân lao động, từ đó có cách cảm nhận, đánh giá tốt hơn về những giá trị của Văn học dân gian.
Văn Học Dân Gian Quảng Trị
Quảng Trị là một vùng đất giàu có vốn văn hoá phi vật thể, trong đó văn học dân gian có vị trí hết sức đặc biệt. Văn học dân gian Quảng Trị là sản phẩm chứng tỏ sức sống mãnh liệt của dòng văn học truyền khẩu.
Xét giá trị nội dung và nghệ thuật, văn học dân gian Quảng Trị có những nét riêng, đóng góp cho văn học dân gian Việt Nam thêm phần phong phú. Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại (huyền thoại, huyền tích, tục ngữ, câu đố, truyện cười, tuồng hài…) song phong phú,đa dạng và giàu màu sắc địa phương và có thể phân thành 4 mảng chính là ca dao-dân ca, Tục ngữ-câu đố, Truyền thuyết-cổ tích-truyện trạng, hò vè.
Ca dao- dân ca của bất cứ miền nào trước hết cũng là tiếng ca của nghĩa tình, tiếng nói của yêu thương. Trong sinh hoạt gia đình, làng xã, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi tiếng nói của con tim đã đã ở cung bậc cao nhất, người lao dộng dùng lời ca để bày tỏ tâm tình trước cảnh vật, trước những biến diễn của cuộc đời và trao đổi tâm tình với nhau. Tính trữ tình, bởi vậy thấm đượm trong nội dung lẫn âm điệu của các khúc hát dân gian. Một chút buồn thoáng qua của con người trước cảnh vật:
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn
Một tình cảm thành kính dâng lên cha mẹ:
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già
Việc tìm kế sinh nhai nhưng người Quảng Trị luôn nhớ về quá khứ, nào công cha, nghĩa mẹ vô bờ bến, tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gán bó dù sông cạn đá mòn:
Mẹ thương con qua cầu Ái Tử Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu Một mai bóng xế trăng lu Con ve kêu mùa hạ biết mấy thu gặp chàng
Tất cả những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa con người với con người, tất cả những cung bậc phong phú, đa dạng, tinh tế của tình cảm con người, ca dao – dân ca đã “thấu đến chân tơ kẻ tóc” (chữ dùng của Xuân Diệu) và đã nói bằng một tiếng nói đằm thắm, sâu lắng, thiết tha. Tình cảm ấy mở rộng ra, nâng lên thành tình cảm đối với quê hương đất nước, thành tình cảm giai cấp, nghĩa đồng bào, và sau này trong thời đại mới là nghĩa quân dân, tình dân đối với Cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ và tình nam Bắc ruột thịt. Những biểu hiện khác nhau ấy của tình riêng, nghĩa chung trong ca dao – dân ca miền nào cũng có. Vấn đề đặt ra là cần tìm ra những sắc thái riêng. “Những óng ánh riêng” trong cách biểu đạt tình cảm của ca dao dân ca mỗi miền.
Tiếp xúc với ca dao – dân ca Bình Trị Thiên, ta thấy có nhiều cách biểu đạt khác nhau về những khía cạnh tinh tế, phức tạp của tình cảm con người. Có bài ca dao hết sức mộc mạc, mộc mạc như là lời ăn tiếng nói hàng ngày, diễn đạt một tiếng long cũng hết sức giản dị, chân thực:
Đôi ta thương chắc mần ri Bọ mẹ mần rứa, eng thì mần răng?
Có trường hợp là một tiếng nói mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh cho một nguyện vọng, một ước mơ một sự trọn vẹn của nghĩa tình.
Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông. Chẳng thà chịu tiếng cho luôn Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.
Song nhìn chung tiếng trong ca dao-dân ca Bình Trị Thiên, dù mỗi vùng sắc thái có khác nhau vẫn là tiếng nói đằm thắm giàu ân nghĩa chứ không thiên về rắn rỏi, mạnh mẽ, quyết liệt hoặc quá mộc mạc, trần tục…Cách diễn đạt lại thường nhẹ nhàng, bóng bẩy, có sự trau chuốt, gia công tỷ mỉ trong việc dùng chữ, đặt câu (sắc thái này thể hiện rất rõ trong ca dao dân ca vùng Huế -Thừa Thiên)
Kháng chiến chống ngoại xâm là một nội dung khá quan trọng. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ca dao dân ca Quảng Trị vẫn không ngừng phát triển để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã vẽ nên những trang sử oai hùng của dân tộc, cho Quảng Trị mà các địa danh Triệu Sơn, Ba Lòng, Như Lệ là những nơi tiêu biểu cho phong trào kháng Pháp. Những nơi khác cũng đã từng in dấu chiến tranh tàn phá như dãy Trường Sơn, sông Thạch Hãn, Bích La Đông, An Hoà, Đại Hào, Phương Ngạn:
Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.
Cần ghi nhận là dân ca cũng theo thời sự mà chuyển biến, phát triển. Chiến đấu để thống nhất, để được sống tự do, độc lập trên quê hương là niềm tin mãnh liệt của người dân Quảng Trị thể hiện rõ từ thời kháng chiến chống Pháp đến thời chống Mỹ. Ca dao dân ca Quảng Trị đã phản ánh một cách sinh động ý chí và tâm tình thiết tha ấy.
Như vậy, sự thêm bớt chữ trong các câu ca dao Quảng Trị là không có quy tắc mà hoàn toàn tuỳ theo cảm hứng của người hò, sao cho tròn ý nghĩa là được. Sự hợp vần trong các dao thường thay đổi, hết gieo vần lưng lại gieo vần chân, như quy luật hợp vần của thể lục bát và song thất lục bát, nhưng một số ít câu ca dao của Quảng Trị lại có lối gieo ở vần chân.
Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao Quảng Trị cũng khá phong phú. Ta sẽ gặp ở đây những loại từ đối nghĩa, đối ý trong dân ca đối đáp: – Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít Trầu cả chợ răng nói trầu không Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi – Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ? Cây không biết chữ răng gọi là thông ? Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi Trong lời hò đối đáp, lối ứng xử thật thông minh: Ngồi buồn nói chuyện trên non Một trăm thứ cá có con không thằng Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã: Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung – Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
Quảng Trị là vùng đất thành lập sau khi nước ta đã định hình hàng nghìn năm trước. Văn học dân gian vùng này là sản phẩm của những con người có gốc từ Thanh Nghệ truyền vào. Qua cuộc sống chung với dân bản địa ở vùng đất mới, dần dần con người ở đây mới tạo được một phong cách riêng. Sự giao lưu văn hoá thế tất phải xảy ra. Ca dao là thể loại để lại những dấu vết rõ rệt trong ngôn ngữ văn học
TỤC NGỮ – CÂU ĐỐ
Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến ở Quảng Trị . Cũng như ở các nơi khác, tục ngữ Quảng Trị được phân làm hai tiểu loại: Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết và sản xuất. Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về đời sống xã hội. Đây là phần quan trọng nhất là mọi người cần quan tâm khi viết về đề tài ca dao- tục ngữ
Nhìn chung, kinh nghiệm của nhân dân ở đau cũng tương tự như nhau. Ở Quảng Trị có những câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết như sau: Chớp ngã Cồn Tiên; Mưa liền một trộ; hoặc: Sấm Đầu mâu không cầu cũng đến.
Lại có những câu đề cập đến sản vật đặc biệt của từng địa phương. Chính qua những câu tục ngữ này, chúng ta lại càng hiểu sâu sắc hơn văn hoá vật chất của vùng đất Quảng Trị:
-Nem chợ Sãi, vải La Vang -Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại -Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ – Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông -Cá bống Bích La, gà Trại Lộc…
Kinh nghiệm về đời sống xã hội có những câu thật xác đáng và thực tế:
-Chạy lóc xóc không bằng góc vườn -Nhiều nghề cá trê húp nác(nước)
Người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:
– Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát – Đừng chóng bạc như vôi – Xách bầu phải xem quai – Địu con phải xem vải buộc – Làm cỏ phải xem cán nắm
Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần theo lối yêu vận chứ không theo lối cước vận.
Câu đố Quảng Trị có thể phân thành những tiểu loại:
-Về những bộ phận cơ thể của con người -Về những hoạt động của con người -Về các con vật -Về các loại cây trái -Về các sự vật hiện tượng khác.
Qua những câu đố ấy, ta thấy được sự tinh vi trong những nhận xét về sự vật, con vật sống cạnh người, như đố về con gà trống:
Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình. Hoặc con chó : Khen ai nho nhỏ Mắt tỏ như gương Tối trời như mực Biết người thương ra chào
Có nhiều khi sự liên tưởng vô cùng sâu sắc. Đố về cau, trầu, vôi có câu:
Hai cây cao đã nên cao Một người dưới rào xa đã nên xa Ba người họp lại một nhà Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên
Có thể nói sự thông minh dí dỏm, óc nhận xét tinh vi của người Quảng Trị đều được thể hiện trong câu đố:
Da non mà bọc lấy xương Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa ( Cây đèn sáp) Một mẹ sinh đặng ngàn con Trai có gái có , tài khôn rõ ràng Mặt trời đã xế vàng vàng Con xa ngái mẹ lại càng thương thay Cách nhau đã bốn năm ngày Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng (Phiên chợ Cam Lộ)
Một số câu đố khác theo lối “đố tục giảng thanh” cũng thường được nhân dân Quảng Trị vận dụng để sáng tác.
Các truyền thuyết về đền- tháp- miếu- chùa như “Sự tích tháp Dương Lệ và tháp Trung Đan”, ” Đề Tương Hầu”, ” Miếu Tương Nghè”…đã vẽ lại một giai đoạn lịch sử lâu đời lúc thần linh còn ngự trị khá sâu sắc trong tư tưởng của nhân dân.. Qua các truyền thuyết đó, ta thấy được lòng tôn trọng văn hoá, biết ơn những vị có công với đất nước, quê hương
Truyện cổ tích lại mang một nội dung khác. Đó là những chuyện phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, đề cập đến những tình cảm riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong các truyện cổ. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thủy, hiền hậu, đảm đang, cần kiệm. Truyện” Vác mía tìm dâu”, “Tình mẹ con” có mục đích khuyến dụ thanh niên nam nữ giữ gìn và phát triển những đức tính ấy để bảo vệ tình cảm, đạo đức trong cuộc sống gia đình. Truyện” Vợ làm quan cho chồng” đề cao người vợ khôn ngoan cũng là truyện có khuynh hướng đạo lý… Có thể nói các truyện cổ tích dân tộc kinh tại vùng đất Quảng trị dù phương thức diễn đạt khác nhau, có truyện mang tính thần kỳ, có truyện mang tính khôi hài… nhưng nhìn chung xu hướng trong các truyện cổ là đe cao đạo lý làm người.
So với truyện cổ dân tộc kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong phú hơn. Một số truyện cổ tích có tính suy nguyên luận như ” Sự tích sao hôm sao mai” (taôi), ” Tình nghĩa gà vịt” (Vân kiều)…phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích khuyến giáo đạo lý làm người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng xảo trá, lừa đảo trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện cổ tích thần kỳ miền núi khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần, vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn ở nội dung độc đáo, thể hiện sự chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc miền núi.
Trong kho tàng truyện kể Quảng Trị, truyện cười cũng chiếm số lượng lớn và vô cùng phong phú. Đặc biệt vùng đất Như Lệ khô cằn lại tập hợp một khối lượng truyện cười đáng kể. Đáng chú ý hơn cả là Chuyện Trạng Vĩnh Hoàng . Nghệ thuật kể truyện Trạng Vĩnh Hoàng tuy cũng dùng biện pháp khoa trương, phóng đại, nhưng dựa trên cơ sở hiện thực như chuyện “Trâu đen trâu bạc” là để phóng đại dưa hấu ở Vĩnh Hoàng, chuyện “Mắc cọp mà cày” là để phóng đại việc người Vĩnh Hoàng ngày trước đi cày rất sớm và vùng này cũng nổi tiếng có nhiều cọp như ở Thuỷ Ba. Về phương thức phóng đại, người Vĩnh Hoàng không dùng lối trực tiếp mà diễn tả bằng lối gián tiếp. Để chỉ quả dưa khổng lồ, họ không so sánh quả dưa đó với vật thể nào mà diễn đạt một cách thông minh hơn: dưa mà đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn, rồi mang cả dưa lẫn quạ bay lên cao.
Truyện Trạng Vĩnh Hoàng đã nêu bật được bản sắc độc đáo của con người Việt Nam ở Vĩnh Hoàng. Tuy là truyện Trạng nhưng vẫn có một giá trị hiện thực. Đây không phải là những truyện bông lơn, nói láo một cách hời hợt dễ dãi mà xây dựng từ những thành quả lao động và chiến đấu. Giá trị ấy cần phải được khẳng định khi xét đến mối tương quan của nó với các loại truyện khác như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn…
HÒ VÈ
Hò địch vận ở Như Lệ vốn là biến điệu của hò mái nhì nhưng vang xa như tiếng ngân vút cao mạnh mẽ phát ra từ con tim yêu nước nồng nàn. Tiếng hò Như Lệ là nét độc đáo trong dân ca kháng chiến Quảng Trị, nó đã phát huy tác dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ, tiếng hò kháng chiến lại được dịp vang xa. Nhiều câu hò hai bên bờ sông Bến Hải nói lên niềm ước vọng đất nước thống nhất. Chính ở vùng này đã hình thành nên một bộ phận văn học dân gian mang những đặc điểm riêng của một vùng đất bị chia cắt.
Sông Hiền Lương bên bồi, bên lở Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương Bao giờ giặc Mỹ hết phương Bắc Nam sum họp con đường vô ra.
Vè là một thể loại kể chuyện bằng văn vần phổ biến ở Quảng Trị, phát triển mạnh vào thế kĩ XIX. Vè Quảng Trị cũng như các nơi khác, phần lớn là những bài có dung lượng vừa phải được sáng tác theo thể lục bát, hoặc tứ tự, song thất lục bát. Một số bài nổi bật với nội dung mang tính xã hội sâu sắc. Đó là loại vè thế sự. Vè “Mẹ Hẹ” là một sáng tác độc đáo. Hình thức sáng tác gần như lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật: cô Hẹ và quan huyện. Nội dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi phới đã bị quan huyện lừa phỉnh. Sau khi để lại một bầu thai cho cô Hẹ, quan huyện ấy đã tàn nhẫn đuổi cô Hẹ ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ. Sau khi sinh nở, thấy cô vẫn còn xuân sắc, quan huyện lại giở trò tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói bạc tình, bạc nghĩa của tên quan này bằng một ngôn ngữ cay chua, mang sắc thái địa phương đậm đà mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được.
Xoay quanh thể loại này có những giai thoại mà mỗi khi quây quần bên ấm chè xanh hoặc đôi phút giải lao nơi đồng áng thường được người dân truyền tụng. Chuyện ông Bộ ở làng Gia Độ và O Thơi ở làng Xuân Thành là một trong số đó. Ông Bộ là người nho nhã, có vốn nho học. Tuy đã có gia đình nhưng lại rất say mê hò hát. Còn O Thơi là một gái chưa chồng, tài sắc vào đám nhất vùng thời ấy. Một hôm, gặp O Thơi quang gánh di chợ qua cánh đồng giáp hai làng, ông Bộ nổi hứng cất câu hò:
“Buôn bán chi chi rày lời mai lỗ, vất quách thúng rỗ theo anh. Một mai công toại danh thành, ta ngồi chung kiệu hành đó đây”
Không hề chần chừ nghĩ ngợi lâu, O Thơi cất giọng hò đối lại ngay lập tức:
“Chữ thánh hiền dược mấy pho mấy bộ, dám huênh hoang xuất lộ vi hành? Một mai đỗ đạt thành danh, đã có O Tam thể nó đợi anh kết nguyền”
Ông Bộ đỏ mặt vì câu hò cay độc. Ai đời đường là một đấng trượng phu ra rứa lại cho rằng chỉ có con mèo tam thể mới lấy anh!
Vẫn cái máu mê gái lại mê hò, một hôm vợ ông Bộ chuyển bụng sắp sinh, nhà lại hết dầu, vợ ông bảo ông xuống chợ mua dầu. Vừa ra đến đầu ngõ gặp cô Thơi đang đang mò cá. Hai người đối đáp đến nổi quên cả mặt trời đã xuống núi. Bỗng ông Bộ cất lên một câu hò trêu chọc rằng:
“Cảm thương cho Em sớm thì lăn đồng cạn, chiều lại lặn đồng sâu. Con tôm con tép liệu được mấy đồng xu”.
O Thơi hò đáp lại:
“Chứ làm ra năm trự mười đồng, trước ngon cơm anh sau lành áo mẹ để tỏ tấm lòng nàng dâu”.
Cũng cần đề cập thêm một nội dung khác cũng khá phong phú của vè Quảng Trị, đó là vè kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài bao nhiêu năm trên đất Quảng Trị khô cằn là đề tài cho hàng trăm bài vè phản ánh những nỗi khổ cực của người dân trong cuộc chiến tranh xâm lược, nêu bật tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh.
Bao năm tháng qua, văn học dân gian Quảng Trị đã sống cùng nhịp sống của dân tộc bằng tiếng nói hồn hậu, trung thực của mình, ngân vang bằng giọng hò thiết tha, trìu mến thân thương cho đến ngày nay.
Nguồn Internet
Chuyên Đề Ngữ Văn Lớp 6: Dạy Học Truyện Dân Gian Qua Hình Thức Sân Khấu Hoá
Học văn là gì? Học văn là cảm thụ và tiếp nhận cái hay, cái đẹp cả về giá trị nội dung lẫn hình thức của một tác phẩm văn chương. Cốt lõi của việc học văn là rèn luyện con người biết yêu cái đẹp, có lối sống nhân văn, trở thành một con người có ích cho xã hội.
Chuyên đề môn Ngữ văn lớp 6 được cô giáo Phan Thị Ngọc Lệ thực hiện ngày 20/10/2020 đã giúp HS hiểu thế nào là học văn, thế nào là học văn học dân gian.
Văn học dân gian -món ăn tinh thần của người dân lao động – là tâm tư tình cảm của con người. Nó bao gồm nhiều thể loại, trong đó truyện cổ tích là một trong những thể loại lớn tạo nên những giá trị vượ thời gian; đó là những câu chuyện đêm khuya bà và mẹ vẫn kể, đó là những giấc mơ huyền diệu của tuổi thơ về những nàng công chúa xinh đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, anh dũng, những vị vua anh minh, nhân hậu, những trạng nguyên thông thái, lỗi lạc…
Hôm nay các em học sinh khối 6 trường THCS Đồng Mai được trải nghiệm một tiết học truyện cổ tích theo một cách rất tự nhiên. Các em được hóa thân vào các nhân vật trong truyện, thỏa sức sáng tao cho nhân vật của mình. Các em đã chọn nhiều hình thức kể chuyện: đóng kịch, kể chuyện theo tranh, kể diễn cảm…
Bằng ngôn ngữ hình ảnh của mình, các em đã khiến nội dung câu chuyện trở nên đơn giản, gần gũi và sinh động. Tự nhiên như thế, các em đã thấm, hiểu nội dung và yêu thích truyện cổ tích.
Một giờ học văn vui vẻ và bổ ích.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Tượng Ông Tơ Bà Nguyệt Trong Văn Hóa Dân Gian trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!