Bạn đang xem bài viết Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Các Bài Thơ Tràng Giang (Huy Cận) Và Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ Tràng giang (Huy Cận) và Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).Thiên nhiên là đề tài muôn thuở trong thi ca. Các nhà thơ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. Trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, từng có một tình cảm mênh mang với Tràng giang của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng thiên nhiên trong Tràng giang lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của “trời rộng”, “sông dài”:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song” …”Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ “con thuyền”, “cành củi khô” đến “nước”, “sóng” và cả “bờ xanh”, “bãi vàng”, “bến cô liêu” đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi “buồn điệp điệp” triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn “mang mang thiên cổ sầu” và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với “bến cô liêu”, với “bèo dạt”, “mây”, “cánh chim”, “bóng chiều”, với “khói hoàng hôn” với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn Huy Cận, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong Tràng giang, “nỗi buồn thấm trong từng câu chữ”, đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.
Còn trong Đây thôn Vĩ Dạ nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ “có bước nhảy cảm xúc” (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, ngắm “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:
“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”
Tràng giang nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: “Con thuyền xuôi mái nước song song” mang dấu ấn cổ điển. Và Đây thôn Vĩ Dạ cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: “Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng “sông trăng” chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Nỗi buồn của Hàn Mặc Tử thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong Tràng giang.
Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, thơ Huy Cận là nỗi “buồn điệp điệp”, thơ Hàn Mặc Tử là nỗi “buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được tác giả nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng Đây thôn Vĩ Dạ; xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp (Tràng giang). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.
Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Huy Cận và Hàn Mặc Tử nói riêng.
Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 1
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Nỗi đau về bệnh tật, nỗi đau về một kiếp sống ngắn ngủi đã khiến cho những vần thơ của ông thấm đẫm một nỗi buồn da diết. “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng là một bài thơ được nhà thơ sáng tác vào những năm cuối đời của mình, với nỗi niềm tiếc nuối với mối tình với cô gái trong mộng chưa kịp chớm nở đã bị số phận trớ trêu cắt đứt. Bài thơ cũng là một bức tranh về thôn Vĩ Dạ thơ mộng bên bờ sông Hương, thật đẹp, những vẫn thấm đẫm một nỗi buồn da diết, bâng khuâng của Hàn Mặc Tử.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh thôn quê mộc mạc nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hiện lên trước mắt người đọc qua từng câu thơ. Từ cổng vào, đã thấy hàng cau thẳng tắp, xanh mướt. Từng tia nắng chiếu trên hàng cau ấy. Nắng mới lên là một màu nắng nhạt, không quá chói chang và cũng không gây ra cảm giác nóng nực của nắng trưa. Nắng mới lên trải đều lên hàng cau, biểu hiện cho một sức sống mãnh liệt, một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn, sinh động. Vào đến sâu trong vườn, cũng lại chỉ thấy một màu xanh của cây cối, của lá trúc. Cả khu vườn xanh mướt, mượt mà đến lạ lùng. Từ “mướt” ở đây, để chỉ một màu xanh bóng, tựa như mọi nơi đều là màu xanh, xanh đến lạ lùng. Màu xanh ngọc ở đây ,cũng có thể là do nắng chiếu xuyên qua lá tạo thành màu xanh ngọc, cũng có thể là do nắng chiếu lên những giọt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo thành những viên ngọc long lanh, đẹp tuyệt vời. Trong không gian xanh mộc mạc, giản dị nhưng cũng tuyệt đẹp đó, con người xuất hiện khiến cho cảnh vật càng trở lên sinh động. Tác giả không nói rõ người ấy là ai, cũng chẳng rõ hình dáng khuôn mặt, chỉ biết người ấy ẩn ẩn hiện hiện sau màu xanh của lá trúc. Đó cũng có thể là một người đang chăm sóc vườn, cũng có thể là một người khách đến thăm.
Chỉ với vài nét phác họa, nhưng cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ dần dần hiện ra trước mắt người đọc. Cũng có thể do thời gian đã lâu, nên những gì còn đọng lại trong tâm trí Hàn Mặc Tử chỉ là những gì nổi bật nhất, đặc trưng nhất mà thôi. Nhưng cũng chỉ cần có thể, một bức tranh nơi làng quê giản dị, mộc mạc nhưng cũng đầy thơ mộng đã được vẽ nên chỉ với vài nét bút. Không chỉ thế, ẩn sau từng câu chữ tả cảnh, cũng được gửi gắm trong đó nỗi lòng nhà thơ, một niềm hi vọng, một nỗi khát vọng sống mãnh liệt.
Phóng mắt ra xa, chính là trời đất, gió mây, sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tuy vẫn là cảnh thiên nhiên, nhưng nó đã bị vương một chút gì đó của sự tan rã, chia ly. Gió thổi mây bay, từ xưa đến nay gió với mây vốn vẫn luôn quấn quýt với nhau, chẳng mấy khi tách rời. Vậy mà ở đây, gió đi một đường, mây đi một nẻo, hai con đường ấy không trùng nhau. Gió với mây chia ly, dòng nước cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh. Tất cả như dừng lại vì chán nản, chỉ còn những bông hoa bắp ở hai bên bờ khẽ khàng lay động, như vô tình không biết, hay có lẽ là đang quan tâm, an ủi dòng sông đang buồn trước cảnh chia ly. Giữa cảnh thực, Hàn Mặc Tử bỗng lại vẽ lên con thuyền và bến sông trăng. Thuyền sắp đi, liệu có chờ kịp trăng để chở trăng về tối nay. Cái mờ ảo thấm đẫm từng câu thơ, hư hư thực thực. Thuyền trăng, bến sông trắng, đó chỉ là những thứ mà tác giả tưởng tưởng ra, là ảo ảnh, là sự tiếc nuối, lỡ làng của một kiếp sống dở dang với đời, với tình.
Ở khổ thơ thứ ba, thấp thoáng đâu đó là hình ảnh người con gái trong lòng “Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo xem trắng quá, nhìn không ra”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu, có thể hiểu đó là mơ ước, cũng có thể là giấc mơ. Người con gái ở nơi xa luôn ở trong tim, trong tâm và đi theo cả nhà thơ vào trong mơ. Đó là do sự nhớ mong da diết người ở phương xa, nên bất cứ lúc nào cũng có thể nhầm tưởng, cũng có thể mơ tới. Thế nhưng, nhớ nhung thì sao, bởi vẫn là sự chia ly. Em đã là “khách đường xa”, anh cũng chẳng thể nhìn thấy em được nữa. Vì đã là người khách đi xa, bóng hình em cũng chỉ còn là những hình ảnh nhạt nhòa, mở ảo mà thôi. Màu áo dài trắng là một màu đặc trưng của những người con gái Huế, tác giả cũng muốn nhắc đến vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện của người con gái ấy. Mãi mãi, người con gái ấy vẫn luôn đẹp trong tâm trí nhà thơ. Thế nhưng, với một cuộc sống ngắn ngủi, nhà thơ chỉ biết thốt lên lời than:
“Ở đây sương khói mở nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói mờ nhân ảnh, hay cũng chính là cuộc đời lắm chông gai, lắm biến cố, lắm thứ làm người ta mờ mắt. Giữa nhân gian bụi bặm, liệu người còn ghi tạc mối tình năm ấy hay là đã quên rồi? Câu thơ cuối, không rõ là ai hỏi ai, có thể là hà thơ hỏi người tình nơi xa, cũng có thể là nhà thơ tự vấn chính mình. Câu hỏi cũng như tiếng kêu thắt ruột, của một con người cuộc đời dở dang mà tình duyên cũng dang dở. Đoạn cuối khổ thơ đầy những hình ảnh hư hư thực thực, như toàn bộ những cảm xúc tuyệt vọng, đau khổ, nhớ nhung…đang vây lấy nhà thơ.
Về nhan đề, “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là một bài thơ tả cảnh thôn Vĩ, và đúng vậy, một khung cảnh giản dị nhưng đầy thơ mộng đã hiện ra trước mắt người đọc. Thế nhưng, trong cảnh ấy, vẫn thấm một nỗi buồn chia ly, nỗi nhớ nhung sâu sắc của một người đang yêu. Bài thơ sẽ mãi là những vần thơ đẹp nhất trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 2
Hàn Mạc Tử là thi sĩ với phong cách sang tác riêng và “lạ” trong phong trào Thơ mới. Thơ ông luôn bộc lộ nỗi niềm da diết với đời, với người nhưng nhận lại là sự thờ ơ và lãnh đạm. Đọc thơ Hàn Mạc Tử, chúng ta nhận ra cái tôi hơi hướng “điên” với những vần thơ “suýt” vượt ra khỏi “mảnh đất hiện thực”. Nhưng đối lập với những hình ảnh “điên” đó là những hình ảnh thơ rất đẹp và thi vị. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một ví dụ tiêu biểu. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế hiện lên nên thơ và tươi đẹp qua những nét vẽ tài hoa của tác giả.
“Đây thôn Vĩ Dạ” thực ra là lời đáp của nhà thơ dành cho một cô gái ở thôn Vĩ Dạ khi cô gái ấy trách sao lâu rồi không ghé về chơi. Tứ thơ được viết ra từ mạch cảm xúc chân thành và mãnh liệt đó.
Huế luôn là mảnh đất gợi nhớ, gợi thương đối với những ai đã từng đặt chân qua đây. Bởi nó có một nét đẹp vừa tươi mới, vừa cổ kính, vừa gần gũi. Thiên nhiên trong bài thơ chính là chất liệu để làm tôn thêm hình ảnh con người nơi xứ Huế.
Câu thơ đầu có thể nói là câu thơ phác họa một cách rõ nét nhất bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đầy lôi cuốn của mảnh đất kinh đô này:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khổ thơ được cất lên bằng tiếng trách hờ của cô gái đối với nhân vật trữ tình. Một câu trách nhẹ nhàng, nhưng tình cảm và đầy sự tinh tế. Dù có trách thì người khác cũng không nỡ lòng nào để giận để hờn. Và đằng sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng được vẽ ra. Có thể nói tác giả đã không còn đơn thuần dùng chất liệu ngôn ngữ để vẽ tranh nữa mà đã dùng cả sự rung động trong trái tim để vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp đó.
Thiên nhiên cứ thế sang rực lên, tươi tắn và khỏe khắn. Cách dùng từ “nắng mới lên” gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh tSahanh mát và trong lành.
Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ “vườn ai” như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. “Vườn ai” vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thê hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. “Vườn ai” thì chính trong trái tin của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. “Xanh như ngọc” chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi. Từ “mướt” như làm sang bừng lên cả câu thơ, tạo sự mềm mại và uyển chuyển cho khu vườn buổi sang mai.
Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ và tươi đẹp biết bao nhiêu.
Sang đến câu thơ thứ hai thì thiên nhiên từ tươi tắn chuyển sang buồn bã và vương sự chia li.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Gió mây xưa nay vốn đi chung đường nhưng trong thơ của Hàn Mạc Tử lại là chia đôi thành hai đường xa lạ. Từ “buồn thiu” như diễn tả được tâm trạng của thiên nhiên, một sự não nề và thê lương.
Đoạn cuối có thể xem là đoạn thiên nhiên thôn Vi trở nên huyền ảo và mơ hồ hơn. Có thể nói đó chính là sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hàn Mạc Tử.
Với những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên trước mắt người xem một bức tranh thiên nhiên xứ huế vừa tươi mới, vừa thơ mộng, vừa u sầu. Có lẽ đó chính là nét đặc trưng của Huế.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 3
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho “trường phái thơ loạn” xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín…
Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận.
Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Rồi con người xuất hiện:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.
Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận.
Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng quá nhìn không ra.
Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái “không đi đến đâu” trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên bấy nhiêu.
Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.
Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 4
Bài Đây thôn Vĩ Dạ ra đời có nguyên cớ sâu xa từ những kỉ niệm của Hàn Mặc Tử về cảnh Huế và con người Huế. ông đã từng học ở Huế. Khi làm việc ở Qui Nhơn, ông có quen biết một người con gái Huế là Hoàng Cúc. Sau đó, ông vào Sài Gòn làm báo, có trở ra Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã về thôn Vĩ Dạ. Có lần cô đã gửi cho anh một bứcbưu ảnh kèm theo lòi thăm hỏi, đây chính là cái cớ đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết lên kiệt tác Đây thôn Vĩ Dạ – bài thơ vừa là bức tranh huyền ảo đượm buồn về một mối tình xa xăm vô vọng. Tuy nhiên, qua đây ta thấy biết bao nhiêu yêu mến thiết tha với thiên nhiên, với cuộc sống và đất nước, con người.
Bắt đầu là một câu hỏi trách móc nhẹ nhàng của một người con gái. Lời trách thực ra là một thái độ nũng nịu, làm duyên, đầy âu yếm thiết tha:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi cũng cho ta thấy phần nào tính cách của người hỏi, đó là sự thùy mị, kín đáo của con người gia giáo. Một tình yêu thành thật được nói với ngôn ngữ tiết chế. Chỉ cần thay câu thơ này bằng cách diễn đạt: “Anh sao không về thăm thôn Vĩ?”, thì cái tế nhị, cái kín đáo đã giảm đi rất nhiều. “Anh”, mở đầu nó lộ diện quá, “thăm” nó gần gũi quá, yêu cầu cái bổn phận của người ta quá.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Dòng thứ 2 là một sự đáp ứng ngay lập tức của nhân vật “anh” hình như cái tín hiệu phát đi thì mong manh, mờ nhạt còn nơi tiếp nhận thì lại quá nhạy cảm. Hàn Mặc Tử không hề suy nghĩ về cái thực, cái hư trong lời mời, anh đang chờ đợi và chỉ cần có lời mời ấy thôi.
Hai câu thơ rất khó giải thích về ý nghĩa thực tế. Người vừa hỏi dứt câu thì kẻ nghe câu hỏi đã vượt một không gian mênh mông về ngay thôn Vĩ. Thực ra câu hỏi ấy chính là một điểm lóe sáng trong, tâm tư chợt thức. Hàn nghe rất rõ, rất rành rọt nhưng chúng ta thì không nghe. Kí ức riêng tư đã hiện về qua những lần quằn quại đau với bệnh tật nghiệt ngã. Thơ Hàn đầy những nỗi đau thương, đau thương đến điên dại nhưng cũng có khi nó thanh khiết đến tuyệt vời. Trong đau thương thường có những phút giây khoảnh khắc của hạnh phúc. Người ta phải bám lấy nó như chiếc phao cứu mệnh như sự cứu rỗi linh hồn. Những phút sáng láng ấy trong thơ Hàn thường là nghĩ về nước Chúa, nghĩ về một quá khứ và tình yêu tưởng tượng. Thôn Vĩ hiện lên thật đẹp cứ như một khu vườn cổ tích, cứ như một cái vườn địa đàng mà Hàn lần đầu tiên phát hiện, nó trùng với cái ước nguyện về với Chúa.
Thôn Vĩ trong con mắt của Hàn đã trở thành một thế giới mà ông mơ ước. Nó đẹp không phải là có những hàng cau cao, những khu vườn sum suê cành lá và khuôn mặt chữ điền. Cái đẹp ấy nó có mặt ở khắp mọi nơi của thôn quê Việt Nam từ Bắc đến Nam. Cái đẹp của thôn Vĩ là ở chỗ đôi mắt của họ Hàn. Dường như ông không về ngay thôn Vĩ mà là đứng từ xa, lặng người chiêm ngưỡng sắc đẹp của thôn Vĩ, sau đó đi gần lại những khu vườn và cuối cùng nó cụ thể hơn là nhìn “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Nhưng cái quan trọng hơn đó là thôn Vĩ được nhìn vào buổi sáng bình minh “nắng mới lên”, nắng dường như mở ra từ “thượng thanh khí” từ trên trời đổ xuống ào ạt, phóng khoáng.
Một câu thơ có đến hai từ “nắng”, một cái nắng hiện thực, thắp nến trên những ngọn cây cau và một cái nắng đẹp đến mức phải bình phẩm “nắng mới lên”. “Nắng mới” khơi gợi những gì tinh khiết sáng trong, và cái tinh khiết sáng trong ấy nó truyền từ trên cao tắm xuống cả khu vườn, một thứ nắng tinh khôi, lấp loáng.
Khu vườn ấy cho ta một sắc xanh mỡ màng, óng mượt, ngời sáng long lanh. Cả khu vườn lá nõn mềm mại loáng nước sương, màu lá và màu nắng đã thành cái màu xanh ngọc diệu kì mà hơn một lần trong tâm tưởng Xuân Diệu đã nhìn thấy:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Cái ấn tượng về khu vườn cổ tích nó được bồi thấn bằng sự miêu tả xuýt xoa “mướt quá” và bằng sự so sánh “xanh như ngọc”.
Câu thơ thứ tư có rất nhiều cách hiểu:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hàn đã về thôn Vĩ, đã đến khu vườn thôn Vĩ của nhà “ai” và vì thế ông ta đã ngưỡng vọng được cái khuôn mặt chữ điền của người con gái mời ông. Nói đơn giản, mặt chữ điền ở đây là khuôn mặt phúc hậu, đoan trang của người thôn Vĩ.
Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp, thật đáng yêu. Hàn đã hành hương bằng con đường tưởng tượng vì thế thôn Vĩ mới lóe sáng, mới đẹp như vậy, cũng vì thế mà ta hiểu thêm nỗi đau xót xa thương nhớ đầy những niềm khao khát của một tâm hồn yêu trong trái tim rạng rỡ…
Khổ thơ thứ hai là hồi tưởng về một cảnh đẹp không thế tách rời thôn Vĩ, đó là dòng sông Hương, nó êm đềm và thơ mộng, nó chứa đựngbao cảm xúc và suy tư của nhà thơ. Hai câu đầu gợi cho ta một dòng sông và một không gian phóng khoáng về đất trời xứ Huế. Gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng sông vẫn lững lờ, cây cỏ khẽ đong đưa. Tuy nhiên qua con mắt chủ quan hay nói đúng hơn những cảnh vật đã chứa đựng những sắc thái và cảm xúc của nhà thơ, tất cả cảnh vật đều được nhân hóa, nó biểu thị cái lòng người tan tác chia li.
Các quan hệ cặp đôi đã ngoảnh mặt quay lưng và dường như tự đóng cái tâm hồn cô đơn của mình. Gió thổi để mây bay, thế nhưng “Gió theo lối gió, mây đường mây”, dòng sông nổi sóng thì hoa bắp mới lay. Ở đây nước của dòng sông đọng thành vũng vì buồn, buồn đến thiu, đến thối, thế nhưng chẳng có ai chia sẻ nỗi buồn ấy, hoa bắp như lay để đùa cợt trêu ngươi.
Các quan hệ cặp đôi nó rời rạc nhưng lại tạo ra những quan hệ trớ trêu, gió thì không muốn hướng tới mây, nhưng hoa bắp lại lắt lay vì gió; sóng chỉ nổi lên khi có gió nhưng mặt nước vẫn buồn thiu…
Dường như khổ thơ đầu là bình minh thì khổ thơ thứ hai là buổi chiều ảm đạm và đêm. Hai dòng thơ sau cho thấy Hàn có buồn, có cô đơn nhưng vẫn biết bao yêu mến thiết tha xứ Huế. Do đó cảnh thực mà cứ như ảo. Sông thật (gợi tới sông Hương) đã trở thành sông Trăng; thuyền thật đã trở thành chiếc thuyền Trăng. Dường như trăng là chất liệu của một dòng sông, một con thuyền đơn độc đầy mộng tưởng, đậu ở bến sông Trăng đang muốn chở Trăng về một nơi nào đó trong mơ.
Đi qua cái thế giới hình tượng độc đáo mà cảnh đẹp lên nhiều lần, ta gặp được cái thơ mộng tuyệt vời của cảnh sông, con thuyền trên sông ở đất cố đô. Dĩ nhiên, dưới lớp vỏ của cảnh đẹp xứ Huế, của con thuyền Trăng thôn Vĩ người ta gặp một tâm hồn đang khẩn thiết, đang tính từng giây khát khao được có trong tay mình hạnh phúc. Từ hai bờ sông trăng ấy, cái bí mật huyền diệu của con thuyền Trăng ấy bỗng vọng lên một câu hỏi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, “tối nay” là muốn nói cái thời gian hữu hạn trước mắt, “kịp” hé mở cho ta thấy một mặc cảm: mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy một cách sống: sống là phải chạy đua với cái chết, với bạo bệnh. Vâng, mời tôi về thôn Vĩ nhưng có cho tôi được hạnh phúc kịp thời không? Vì:
Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
Bây giờ tôi dại, tôi điên
Chắp tay tôi lạy mọi miền không gian
Câu hỏi “Có chở…” là một vái lạy không gian thôn Vĩ, con người thôn Vĩ trong cái tâm trạng điên dại của hiện tại, vì thế nó là khát vọng rất đớn đau. Vì thế, ánh trăng rất nhẹ, “tối nay” rất ngắn lại được nói bằng chữ “kịp”, bằng cái tâm hồn nặng trĩu nỗi đau.
Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng tràn vào mọi thi tứ đẹp nhất của Hàn, đây là trăng xứ Huế với Vĩ Dạ đò trăng. Cảnh vật làm cho chúng ta thêm một lần yêu Huế đẹp, Huế thơ; tuy nhiên con người thôn Vĩ ấy là một ẩn số không biết có đáp lại một tình yêu nông nổi chân thành? Vì thế mà Hàn tâm sự với trăng.
Hai khổ đầu nói nhiều đến cảnh, còn khổ cuối thì chủ yếu nói về tâm sự của nhân vật trữ tình.Giấc mơ nào về tình yêu cũng đẹp nhưng giấc mơ được báo động, nó chỉ làm đau khổ trái tim. “Khách đường xa” nó xa lạ hơn đại từ “ai” và dĩ nhiên sẽ xa lạ hơn rất nhiều người con gái hỏi câu đầu tiên trong bài thơ. Thế mà “khách đường xa” điệp đến 2 lần như phá vỡ một giấc mơ. “Khách đường xa” hiện lên rồi hình như gót sen rời bước xa dần, có níu lại cũng không sao được.
Đang tuyệt vọng thì người khách ấy lại trở về cho hi vọng, “khách đường xa” đã thành “em” trong gang tấc. Hạnh phúc đột biến bất ngờ không hề được dự báo đã khiến Hàn choáng váng, cái áo trắng kì lạ ấy lại nhìn rất rõ. Có phải là sương khói xứ Huế làm mờ nhân ảnh mà Hàn “nhìn không ra” .Trong ý nghĩa ẩn dụ, đây là một mặc cảm mà người ta thường có:
Em lớn quá anh làm sao giữ nổi?
Nên lúc nào em muốn cứ xa anh
Hàn mong ước tình yêu, khi tình yêu không tới thì dỗi hờn, trách móc. Nhưng khi người yêu hi sinh cho anh (dĩ nhiên do tưởng tượng) thì Hàn lại sợ, lại không dám nhìn vào hạnh phúc chứ không phải là “nhìn không ra”.
Câu thứ 3: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại trở về với nhận thức mình không có tình yêu. Câu thơ có dư vị chua chát của triết lí ngàn đời “Con quay búng sẵn lên trời – Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” (Nguyễn Gia Thiều). Vâng, hạnh phúc trong đời là một cuộc xổ số có mấy ai cầm được tấm độc đắc? Vì thế mà Hàn nghẹn ngào, nghi ngờ, buồn tủi. Câu hỏi nghi vấn nhưng thực ra là tan vỡ hi vọng một mối tình trong tâm tưởng:
Ai biết tình ta có đậm đà?
Hai từ “ai” nhắc lại đối tượng mà mình yêu vì thế mà nó tha thiết, nhưng cũng vì thế mà nó xa lạ. Vừa mói xưng “em” được một lần, Hàn đã nhận ra đó là ai. Hàn không cần những tình yêu thoáng qua. Muốn có một tình yêu đậm đà trong hoàn cảnh bi kịch đâu phải dễ?
Đây thôn Vĩ Dạlà một bức tranh bằng thơ thật đẹp bởi vì có sự hài hòa giữa thực và ảo, giữa cảnh và người, giữa tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu được viết ra từ trái tim của một con người đang ngày đêm đếm từng giờ để gặp mặt cái chết thật đáng trântrọng. Hàn sắp về với thế giới bên kia nhưng vẫn khát khao một tình yêu trần thế. Đó là một giá trị nhân văn, là niềm mơ ước không nguôi của Hàn. Hàn sẵn sàng ngã giá.
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 5
Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”,câu hỏi như một lời trách cứ nhưng dường như cũng là lời tự vấn,thể hiện niềm nuối tiếc.
Cảnh sắc của buổi sớm mai được miêu tả thật sinh động
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Ánh nắng ban mai tươi đẹp chiếu qua những tán lá cau,những mảnh vườn cây xanh non mơn mởn vẫn còn đẫm sương.Cảnh sắc thật tươi mới,thật trong lành.Xứ Huế mộng mơ hiện lên thật tươi đẹp và thật nên thơ
Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn thi sĩ.
Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ: “Gió theo lối gió,mây đường mây” Câu thơ diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”,nỗi buồn của thi sĩ đã lan trải ra khắp không gian.Lòng người sầu muộn khiến cảnh vật cũng đượm buồn
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy mặt sông. Tâm trạng mộng mơ của thi sĩ dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi sĩ trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực.
“Mơ khách đường xa,khách đương xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng trong tà áo trắng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện.Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây.Thi sĩ như cảm thấy sự vô lực với tình yêu,như một nỗi day dứt mối tình không được toàn vẹn.Biết là “em” mà lại “nhìn không ra”,không phải thi sĩ không nhìn thấy mà là không dám nhìn vào hạnh phúc,bởi hạnh phúc giờ đây là quá xa vời,quá hư ảo
Cảnh xứ Huế mộng mơ thật đẹp, giàu sức sống nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện tâm hồn của một thi sĩ tài hoa nhưng đa sầu, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ đó nỗi buồn,sự luyến tiếc với cõi trần,với cuộc sống ,với tình yêu .Tình yêu được viết ra từ trái tim của một con người đang ngày đêm đếm từng giờ để trở về bên kia thế giới
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Bài làm 6
Trong làn thơ mới nước ta nếu như chúng ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phươu lưu trong trường tình của Lê Trọng Lư, đắm say cùng Xuân Diệu với tình yêu và cuộc sống thì cũng điên dại cùng với Hàn Mạc Tử. Thật vậy trong phong trào Thơ Mới hàn Mạc Tử nổi tiếng với những phần thơ điên loạn cùng hình ảnh của hồn và trăng. Thế nhưng lại ít có ai biết rằng ngoài những phần thơ điên loạn ấy Hàn Mạc Tử còn có những vần thơ trữ tình dịu dàng đằm thắm. Trong số những tác phẩm trữ tình nhẹ nhàng ấy nổi bật có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ không chỉ thể hiện được tâm trạng của nhà thơ mà còn vẽ lên một bức tranh quê tuyệt đẹp, ở trong bức tranh quê ấy ta thấy một tấm lòng yêu đời của nhà thơ.
Bài thơ được viết khi ông đang ở trại phong Tuy Hòa, sống trong cảnh cách ly với tất cả mọi người. Chính vì thế mà ông chỉ có thơ làm bạn, thơ văn như một cứu tinh tâm hồn của Hàn Mạc Tử. Khi ấy ông bất ngờ nhận được bức thư của người con gái năm xưa tên Hoàng Thị Kim Cúc. Đó là người con gái mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ nhưng vì nhút nhát mà ông tơ mà nguyệt chẳng thèm se duyên kết tóc cho hai người. bức thư ấy mang lại cảm xúc cho nhà thơ viết lên bài thơ này.
Trước hết là bức tranh quê được thể hiện rất rõ nét và mang đậm bản chất xứ Huế trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử. Đó là những hình ảnh thiên nhiên mà chỉ có xứ Huế mới có, nó mang một nét đẹp không pha trộn không lẫn với một địa danh nào.
Thứ nhất trong tứ thơ Đây thôn Vĩ Dạ bức tranh thiên nhiên được hiện lên với hình ảnh của buổi sáng tinh khôi với ánh nắng mai nhẹ nhàng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu hỏi không về chơi thôn Vĩ như là cái tựa để cho nhà thơ giới thiệu về bức tranh quê xứ Huế mộng mơ. Sao không về chơi thôn Vĩ giống như câu hỏi và lời trách của người con gái tên Hoàng Cúc cũng giống như một lời mời gọi hãy về xứ Huế thôn Vĩ Dạ. Ở đó có bức tranh quê hương đẹp đẽ tuyệt vời. Nhà thơ chọn khung cảnh buổi sáng để nói về thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh “nắng” được nhắc đến hai lần trong một câu thơ nhấn mạnh nét đẹp nơi đây là ánh sáng của nắng. Đến với thôn Vĩ chúng ta như được ngập tràn trong những ánh nắng của bình minh và những hàng cau dài thẳng vút lên trời. Ánh nắng nơi đây vào buổi sáng không mang cái màu “sớm mai hồng” của quê hương Tế Hanh mà nó mang màu nắng tinh khôi nhẹ nhàng thanh khiết. Ánh nắng của trời đất như soi tỏ xuyên chiếu vào từng thân cau đọt cau khiến cho những cây cau cũng trở nên lung linh trong nắng sớm. nắng chiếu cả xuống những mảnh vườn của con người Vĩ Dạ khiến cho màu xanh trở nên trong trẻo như ngọc vậy. Tính từ “mướt” như thể hiện được sự tốt tươi sinh sôi nảy nở của thiên nhiên nơi đây. Ban sang bắt đầu một ngày mà hình ảnh thiên nhiên nơi đây dịu dàng mà lại lung linh đến như vậy. Nhắc đến Huế người ta không chỉ biết đến những con người dịu dàng thơ mộng mà còn biết đến thiên nhiên cũng dịu dàng như con người vậy.
Tiếp theo bức tranh quê Vĩ Dạ được nhà thơ khám phá vào lúc tối đến đêm về. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại chọn hình ảnh thiên nhiên vào buổi tối và buổi sáng. Mà có lẽ là do bức tranh quê hương Huế hiện lên ở hai khoảnh khắc thời gian đó đẹp nên nhà thơ nhớ đến và miêu tả về nó:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hình ảnh gió, mây, sông, nước, con thuyền, hoa bắp hiện lên cũng thật sự thu hút hấp dẫn người đọc. Nếu bức tranh buổi sớm tinh khôi trong trẻo thế nào thì đến buổi tối lại hắt hiu đến thế. Nó không còn sự sinh sôi nảy nở tươi tốt nữa mà nó mang một nét thơ mộng nhưng phảng phất nỗi buồn. Vốn thường là gió thổi mây bay mà nhà thơ lại nói là gió theo lối gió mây đi đường mây. Phải chăng chính tâm trạng buồn thương của mình cho nên hình ảnh cũng mang tính chia ly chi a cắt đến như thế?. Tuy nhiên trước mắt chúng ta vẫn hiện lên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp. Nó vẫn không tài nào dấu đi được sự nhẹ nhàng đặc trưng của xứ Huế. Gió chỉ nhẹ nhàng khẽ thổi khiến cho cành hoa bắp khẽ lay chứ không tài nào rung rinh được. Lẽ nào đến cây cối nơi đây cũng nhẹ nhàng như con người. Trăng không thể thiếu trong một cảnh đêm tuyệt đẹp càng không thể thiếu được trong xứ Huế thơ mộng này. Ánh trăng như soi tỏa in hình dáng mình lên dòng sông kia. Con thuyền đứng cạnh đó như đang chuẩn bị trở trăng về. Thật là một hình ảnh thơ mộng biết bao, ở đây thuyền không gắn với biển mà gắn với hình ảnh của trăng. Tất cả những hình ảnh ấy tạo nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng lung linh trữ tình.
Bức tranh xứ Huế còn hiện lên mờ ảo trong hình ảnh của khách đường xa, sương khói mờ nhân ảnh:
“Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Lúc nào cũng thế Huế luôn mơ màng và thơ mộng khiến cho người ta thấy thương thấy nhớ vô cùng.
Thứ hai là trong bài thơ này ta còn cảm nhận được tấm lòng yêu đời của Hàn Mạc Tử mà trước hết đó là tình yêu thiên nhiên:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Hay
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Có thể nói nhà thơ phải là một người yêu thiên nhiên lắm thì mới có thể miêu tả một bức tranh thiên nhiên quê đẹp đến như vậy. Ngay cả khi tâm trạng ông rất là buồn, đau khổ, nhớ thương dằn vặt khiến cho hình ảnh thiên nhiên cũng mang sự chia cắt nhưng càng chia cắt càng bi kịch thì lại càng thể hiện sự yêu đời yêu thiên nhiên của nhà thơ. Bởi lẽ trong bị kịch ấy nhà thơ vẫn thể hiện sự khao khát được sống, được yêu thương được hòa nhập với cuộc đời này.
Một tình cảm minh chứng cho sự yêu đời của Hàn Mạc Tử đó chính là tình yêu, sự nhớ thương tới người con gái năm ấy. Hình ảnh người con gái hiện lên với nét đẹp của đặc trưng của con người xứ Huế đó là nét đẹp phúc hậu, kín đáo qua hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Không những thế dù Kim Cúc đã đi lấy chồng, mặc cho hoàn cảnh khó khăn cũng như bệnh tình của mình nhà thơ vẫn thương vẫn nhớ người con gái Huế ấy.
Qua đây ta thấy được bức tranh quê tinh khôi trong trẻo, lãng mạn thơ mộng lung linh và tấm lòng yêu đời của con người tài năng nhưng bạc mệnh. Dù sống trong hoàn cảnh đau đớn của bị kịch tinh thần và bệnh tật nhưng niềm yêu đời của nhà thơ mãi như ngọn lửa sáng trong đêm trường, dù cho mọi đau đớn dằn vặt ông vẫn giữ nguyên tấm lòng yêu người yêu đời ấy.
Từ Các Bài Thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử), “Đây Mùa Thu Tới”, “Thơ Duyên” (Xuân Diệu), “Tràng Giang” (Huy Cận), “Chiều Xuân” (Anh Thơ). Hãy Viết Bài Văn Trình Bày Quan Niệm Của Anh (Chị) Về Lòng Yêu Nước
Từ các bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử), “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” (Xuân Diệu), “Tràng giang” (Huy Cận), “Chiều xuân” (Anh Thơ). Hãy viết bài văn trình bày quan niệm của anh (chị) về lòng yêu nước
Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng đối với mỗi một con người. Mỗi giai đoạn thăng trầm, thịnh suy của đất nước tình cảm đó lại được biểu hiện dưới những dáng vẻ khác nhau. Trước Cách mạng tháng Tám, các nhà thơ thơ mới thả lòng mình vào những trang thơ như Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Đây mùa thu tới, Thơ duyên (Xuân Diệu), Chiều xuân (Anh Thơ)… Ngày nay, lòng yêu nước vẫn tiếp tục kế thừa tinh thần đó song lại có những nét mới mẻ hơn.
Thời kì thơ mới ra đời nằm trong khoảng thời gian 1932 – 1945, thời gian ấy đất nước ta còn đói nghèo, tăm tối, còn đẫm dấu đen nô lệ. Các nhà thơ cách mạng sáng tác để kêu gọi đấu tranh tìm độc lập tự do cho Tổ quốc. Chưa biết đến lá cờ đỏ búa liềm, chưa biết đến chủ nghĩa Mác- Lê-nin, chỉ có thơ là người bạn sẻ chia tấm chân tình đối với quê hương đất nước, các nhà thơ thơ mới lấy tình yêu thiên nhiên và nỗi buồn thời đại làm cảm hứng sáng tác.
Ca ngợi thiên nhiên non nước mình là một nội dung tiêu biểu của thơ mới. Phải yêu mến và tự hào về đất nước mình đến vô bờ mới có thể viết được.
Thiên nhiên trong thơ mới tất cả đều xinh đẹp, hữu tình. Điều đặc biệt phải nhắc đến là sự xinh đẹp, hữu tình ấy đều xuất phát từ phong cảnh non nước mình mà ra, không vay mượn, không khuôn sáo, tất cả đều thân quen mà đẹp đẽ đến lạ lùng! Bức tranh Chiều xuân trong thơ Anh Thơ êm ả quá:
“Mưa bụi đổ êm êm trên bến vắng Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra Làm giật mình một cô nàng yếm thắm Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.
Cả bài thơ không thể bỏ một câu nào. Bức tranh làng quê ngày xuân xinh đẹp tràn đầy sức sống, sự vật nào cũng hoà mình vào không gian mùa xuân: “tràn biếc cỏ” “sà xuống” “rập rờn” “xanh rờn”… Làng quê Việt Nam, trong thơ có lẽ khó tìm được một bức tranh chính xác đủ đầy đến thế: “chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” “trâu bò thong thả cúi ăn mưa”… trong cái “rụng tơi bời” của hoa xoan cũng tràn đầy sức sống: hoa rụng xuống để quả mọc lên tiếp nối cho sự sống rạo rực muôn đời này. Điều này trong thơ quan trọng lắm, đến cả “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” Nguyễn Khuyến tả cảnh miền đồng bằng Bắc bộ cũng “cốt gợi không cốt tả”, vẽ thiên nhiên bằng những nét chấm phá đôi khi còn ước lệ: “Trời thu xanh ngắt mây tầng cao/ Cành trúc lơ phơ gió hắt hiu”. Nhưng Chiều xuân thì khác, cảnh cứ tràn ra làm mát rượi lòng người, đến những vật tầm thường bé mọn như con trâu con bò, đám cỏ dại cũng hoá thành thơ. Hình ảnh người thôn nữ “cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa” đã vẹn toàn bức tranh Chiều xuân trong một ý ttưởng thật thi vị! Trong Thơ duyên của Xuân Diệu ta cũng gặp một thiên nhiên như thế. Hình ảnh thơ tinh tế vô cùng, không có một tình yêu thiên nhiên tha thiết, nhà thơ khó có thể nắm bắt sự giao hoà của thiên nhiên, đất trời:
“Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên Cây me ríu rít cặp chim chuyền Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều”
Cảnh vật cũng có đôi có lứa xuân tình biết mấy “chiều mộng” và “nhánh duyên”, trời xanh” và “muôn lá”,… Đặc biệt, “con đường nhỏ nhỏ” và “gió xiêu xiêu”, “cành hoang” và “nắng trở chiều” thì như nghiêng vào nhau, ngả vào nhau giao hoà niềm hạnh phúc sang mùa “xiêu xiêu”, “lả lả”. Nhắc đến mùa thu ai cũng nghĩ thu buồn, ai cũng lặng lẽ nghĩ đến mùa trút lá nhưng thiên nhiên thu trong Thơ duyên tơi tắn, nhẹ nhàng, hữu tình lắm thay!
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, một bài thơ gắn với một mốì tình dang dở vậy mà thiên nhiên vẫn có lúc sáng bừng sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Những khổ thơ khác của Đây thôn Vĩ Dạ và bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, dẫu nỗi buồn có ngập tràn, thiên nhiên có trầm xuống u hoài thì vẫn xinh đẹp, mộng mơ làm say lòng độc giả. Hình ảnh “sông trăng”, “sương khói” đến “mờ nhân ảnh” trong thơ Hàn Mặc Tử mơ màng, đẹp đẽ. Hay hình ảnh liễu được nhân hoá trong thơ Xuân Diệu trở nên tình tứ quá: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Thiên nhiên trong Đây mùa thu tới được cảm nhân tinh tế trong mỗi giây mỗi khắc đổi thay
“Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Ai bảo thiên nhiên vô tri vô giác, khi đọc những câu thơ trên có lẽ cũng “run rẩy rung rinh” cùng lá thu lúc sang mùa.
Hình ảnh thiên nhiên giàu sức sống, hữu tình và mang đậm hương hồn dân tộc là một cuộc cách mạng mà các nhà thơ mới mang đến cho thi ca Việt Nam và cũng là một dạng vẻ mới cho tấm lòng yêu nước.
Khi đọc những bài thơ như Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Đây mùa thu tới của Xuân Diệu có lẽ ai cũng thắc mắc: sao tuổi trẻ viết thơ mà buồn thế? Tuổi trẻ đang tuổi sống, tuổi yêu thơ phải rạo rực say mê chứ? Xin thưa, rạo rực say mê đã có rất nhiều (ta thường gặp nhất trong thơ Xuân Diệu) nhưng tuổi trẻ mà gặp thời đất nước loạn li thì có vui mãi say mãi được không? Tình yêu, tuổi trẻ là điều thuộc về mỗi cá nhân, mỗi thế hệ nhưng đất nước là cái chung, cái thuộc về mọi người cái có ở trong mỗi người. Và những người như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu… họ đã buồn cùng nhịp buồn đất nước.
Cảnh thiên nhiên tan tác chia lìa đôi ngả trong Đây thôn Vĩ Dạ gieo vào lòng người mỗi buồn day dứt: “Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Gió đóng trong gió, mây khép trong mây tạo nên cuộc chia li đầy đau xót: “gió… gió, mây… mây”. Cái “buồn thiu” của dòng nước thật tội nghiệp, nó bẽ bàng sao ấy!
Còn Đây mùa thu tới của Xuân Diệu thì ngơ ngẩn, băn khoăn. Làm sao chàng trai tuổi hai mươi ây nhìn đâu cũng chỉ đau buồn, cô đơn đến thế “đứng chịu tang”, “tóc buồn… lệ ngàn hàng”, “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”,… Và nhất là cái xa xăm mơ màng khó hiểu của người thiếu nữ “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.
Ta tự hiểu một điều rằng, nỗi buồn của thi nhân là nỗi buồn đồng điệu cùng đất nước, là nỗi buồn thế hệ “Lúc ấy tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời Đường” (Huy Cận nói về Tràng giang – một bài thơ u sầu, ảo não). Nhưng cũng cần khẳng định: đó là nỗỉ buồn đẹp, nỗi buồn của lòng yêu nước sâu xa thầm kín. Trong hoàn cảnh ấy, bao nhiêu nhà yêu nước đã lên đường và lần lượt thất bại, Xô-viết Nghệ-Tĩnh vừa bị đàn áp đầm máu, yêu nước nhưng đâu biết phải làm gì? Thanh niên cả nước phần đông ngơ ngác không biết đi đâu về đầu. Nỗi buồn cứ vậy tràn ra.. Đâu cứ phải hét lên rằng tôi yêu nước mới là yêu nước, chính lòng yêu nước sâu sắc, kín đáo ấy là ngọn lửa trong tim để các nhà thơ mới chuyển trọn hồn mình theo cách mạng khi vừa chớm “Mặt trời chân lí chói qua tim”.
Không phải chịu giam hãm trong cảm giác đau buồn, ngơ ngẩn của những thế hệ trước, thời đại ngày nay, lòng yêu nứớc được hiểu một cách rộng rãi và được thể hiện đa dạng, nhiều chiều hướng.
Yêu nước là gì? Nhà văn Ilia Erenbua có một ý văn thật sâu sắc: dòng suôi chảy vào sông, con sông đổ vào biển lớn, tình yêu quê hương trở thành tình yêu đất nước. Vậy tình yêu nước đâu phải điều gì xa xôi. Yêu nước là yêu chính người thân trong gia đình mình, yêu bố mẹ, anh chị,… yêu cái cây trước cửa, yêu con đường đến trường… Lớp lớp, triệu triệu, con người Việt Nam đã từng xả thân hi sinh để bảo vệ những người mình yêu quý, những vật mình thân quen; động lực chiến đấu của họ chính từ tình yêu đối với những gì bình dị nhất.
Bác Hồ vĩ đại của chúng ta từng ngợi ca: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi… nó nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước”, ở một đất nước thường xuyên phải đối mặt với họa xâm lăng như đất nước ta thì một điều dễ thấy thể hiện lòng yêu nước là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đất nước với mỗi người thiêng liêng quá, đó là nơi Tổ tiên ta sinh sống “Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở”, là nơi cha mẹ gặp nhau “Yêu nhau và sinh con đẻ cái”, là nơi nuôi ta lớn khôn, cho ta nguồn nước uống, cho ta hạt gạo ăn, cho ta những người bạn, cho ta tuổi thơ kí ức… Chao ôi, sao có thể gọi là người nếu không biết yêu thương và bảo vệ nơi thiêng liêng từ trong sâu thẳm tiềm thức ta như thế? Đánh giặc bảo vệ đất nước đã trở thành truyền thống dân tộc ta. Từ chú bé ba tuổi vùng dậy thành dũng sĩ đến những anh hùng Trường Sơn đi cứu nước,… Khi đất nước có giặc ngoại xâm, còn có thể làm gì ngoài việc phát huy truyền thống ấy?
Nhưng cũng không thể hẹp hòi nghĩ rằng phải ra tiền tuyến cầm súng giao tranh với địch mới là yêu nước. Đất nước còn cần hậu phương vững chắc để tiền tuyến ăn no đánh thắng. Bên cạnh việc vinh danh những người con anh dũng nơi sa trường, Tổ Quốc cũng ghi công những anh hùng trong lao động, sản xuất: anh Ngô Gia Khảm, chị Cù Thị Hậu…
Đặc biệt ngày nay, anh hùng trong lao động sản xuất càng được ngợi ca hơn bao giờ hết. Đất nưởc đang chuyển mình, đang vươn lên sánh vai cùng thế giới; đất nước rất cần những bàn tay khối óc lao động và sáng tạo để dựng xây non nước này.
Yêu nước trong thời đại mới cũng có nghĩa là bảo vệ đất nước tránh khỏi những kẻ thù. Kẻ thù nào vậy? Ngoại xâm? Chiến tranh? Một phần là vậy nhưng thời đại mới thì có những kẻ thù mới. Đó là tham ô, quan liêu cửa quyền. Bạn nghĩ gì khi một trong bốn nguy cơ của đất nước hiện nay là nạn tham nhũng? Đó còn là những tệ nạn xã hội đang từng bước đe dọa những mái ấm gia đình. Là những luồng tư tưởng, văn hoá không lành mạnh đang làm hỏng, làm hư một bộ phận những người thiếu bản lĩnh,…
Như vậy song song với việc phát triển kinh tế, chúng ta còn chú ý đến việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Đó là nguồn sức mạnh tiềm ẩn tạo nên nhiều chiến thắng trong quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước.
Cùng lứa tuổi với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Anh Thơ,… những năm 1932 – 1945, thế hệ thanh niên ngày nay cũng cần làm gì đó để thể hiện lòng yêu nước. Không ồn ào, phô trương nhưng cũng đừng để nó lặn sâu không được thể hiện – nói như Bác Hồ: lòng yêụ nước cần được trưng ra ánh sáng. Vậy ta cằn làm gì để thể hiện lòng yêu nước? Nhiệm vụ cơ bản của thế hệ thanh niên là tôi rèn tri thức, đạo đức phẩm chất cách mạng. Như vậy là bên cạnh việc chú tâm học tập, ta còn cần hãng hái tham gia các hoạt động xã hội, những phong trào vì cộng đồng: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Tự bản thân “miễn dịch” với các luồng văn hoá, tư tưởng không lành mạnh và cũng giúp xã hội thanh lọc văn hoá. Thanh niên với sức mạnh “xoay trời chuyển đất” mà không làm được việc đó sao?
Lòng yêu nước chảy trong huyết quản mỗi con người Việt Nam đã có tự bao đời. Nó đã đang và sẽ tiếp sức cho các thế hệ người Việt bảo vệ, dựng xây non nước đẹp tươi này.
chúng tôi
Phân Tích Bức Tranh Phong Cảnh Thiên Nhiên Trong Bài Tràng Giang Của Huy Cận
Phân tích bức tranh phong cảnh thiên nhiên trong bài Tràng giang của Huy Cận
Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng là bài thơ hay nhất của Huy Cận và cũng là trường hợp tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ ông trước Cách mạng. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang đã kết
tụ nỗi buồn “mang mang thiên cổ” ở Huy Cận, được diễn đạt bằng hình thức thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi mà vẫn giản dị, mới lạ, độc đáo, mang rõ dấu ấn thời đại của Thơ mới.
Ngay ở nhan đề, Tràng giang đã cho ta biết cảm hứng của bài thơ là cảm hứng từ một không gian. Thật thế, chính tác giả đã thố’ lộ: “Nhìn dòng sông lớn gợi những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra những lớp sóng”. Tràng giang là sông dài, “trường” cũng là dài nhưng “tràng” có âm “ang” là âm mở rộng, gợi được cả dài lẫn rộng. Hơn nữa Tràng giang láy âm cuối “ang” càng khơi gợi cảm giác mênh mang, bát ngát của dòng sông lớn.
Tiếp theo, câu đề càng thổ hiện đầy đủ tình, cảnh gợi tứ cho bài thơ. Tình là bâng khuâng, nhớ cảnh là trời rộng, sông dài. Bài thơ mở ra trước tầm mắt ta bức tranh bao la, rộng lớn của cảnh trời nước mênh mang. Không gian ở đây thật vô định. Nó được trải ra ở cả ba chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, với những hình ảnh phong phú: tràng giang, trăm ngả, mấy dòng, sâu chót vót, sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc… Tất cả bầu trời, mặt đất đều là vô tận, không cùng của vũ trụ. Huy Cận sử dụng nghệ thuật đối lập rất tự nhiên bởi ông đã đặt vào giữa cái không gian bất tận mênh mông ấy những hiện thực của cuộc sống không thế thiếu vắng. Đó là những sự vật cụ thể, nhỏ nhoi, đơn chiếc, con thuyền xuôi mái, củi một cành khô, cồn nhỏ lơ thơ, chim nghiêng cánh nhỏ… nhưng càng làm tăng thêm cái cao rộng của bầu trời, mặt đất. Cái hữu hạn thì vô nghĩa, vô hướng, nhỏ bé, nhạt nhòa, không đáng kể nhưng đã làm nổi bật cái vô hạn không cùng.
Tràng giang không chỉ là bức tranh phong cảnh đẹp với những đường nét, hình khôi, trái lại, đây còn là một bức tranh tuyệt đẹp mang nét buồn mênh mang, quạnh vắng, cô liêu. “Thơ mới” đã đem đến cho người đọc những bức tranh thiên nhiên rạng rỡ nhiều thanh sắc. Thiên nhiên trong Tràng giang cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Đó là vẻ đẹp nên thơ của những con sóng diệp điệp đuổi nhau trên mặt nước, của cồn nhỏ lơ thơ, của bờ xanh tiếp bãi vàng chạy dài tít tap. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh nắng xuống trời lên sâu chót vót, của cảnh sông dài trời rộng, của mây cao, núi bạc…
Cái đẹp thường gắn với nỗi buồn, đó là cảm quan nghệ thuật của các nhà thơ lãng mạn. Ớ Tràng giang cũng vậy, thiên nhiên trong Tràng giang thật đẹp mà cũng thật buồn. Nỗi buồn cũng bao la mà hiu quạnh. Nhà thơ đã đem nỗi lòng mình và tâm trạng của một thế hệ nhà thơ mới phủ lên cảnh vật. Thôi thì đủ các cung bậc: buồn diệp điệp, sầu trăm ngả, bên cô liêu, bờ sông lặng lẽ như thời tiền sử, lòng quê dạn dợn… đặc biệt bức tranh thiên nhiên ở đây không hề có lây một dâu hiệu của con người, giao cảm, gặp gỡ… bởi đã được phủ định: không dò, không cầu, không khói… quạnh vắng, thê lương.
Ngoài ra, bài thơ Tràng giang còn là một bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển mà hiện đại.
Cả bài Tràng giang mang tính chất trang nghiêm, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại. Chất cố điển hiện ở cảm xúc của bài thơ (con người một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn vô cùng của không gian, thời gian, để nghĩ về kiếp người), cổ điển trong việc học tập Chinh phụ ngâm, cố điển ơ nhạc diệu và tứ thơ Đỗ Phủ (trong bài Đãng cao), cổ điển ở việc lấy ý thơ của Thôi Hiệu (trong Hoàng Hạc lâu)… Nhưng đồng thời cảnh vật trong bài thơ cũng hết sức cụ thể, đời thường (cành củi khô, cồn cát, cánh bèo… ). Hơn nữa, đây còn là một bức tranh đậm đà phong vị Việt Nam. Tràng giang, cái tên gợi nhớ đến dòng Trường giang ngàn dặm ở Trung Quốc từng là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ thi nhân. Tứ thơ Thôi Hiệu ở cuối bài Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại càng tăng thêm không khí Đường thi của bài thơ. Tuy thế, bức tranh thiên nhiên ở đây lại rất Việt Nam. Một dòng sông, một cành củi trôi, một cồn cát nhỏ, một chợ chiều ở một làng xa, những cánh bèo trên mặt nước, cánh chim chao liệng trên nền mây bạc lúc hoàng hôn… đều là những cảnh quê hương đất nước, gần gũi, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam.
Nói tóm lại, bài thơ Tràng giang toát lên một nỗi buồn mênh mang, thấm vào linh hồn cảnh sắc quê hương, gợi tình mến yêu quê hương một cách sâu lắng. Xuân Diệu nhận xét: “Tràng giang, là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước, do đó, dọn đường cho tình yêu giang sơn Tố quốc”.
BÀI LÀM
Phong trào Thơ mới qua đi đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị. Tràng giang của Huy Cận mang vào trong thơ ca giai đoạn này một hơi thở riêng, độc đáo, một phong cách riêng, vẻ đẹp riêng, và vì thế, Tràng giang vẫn còn “chảy” mãi cho đến tận bây giờ và mai sau.
Cùng với rất nhiều nhà thơ khác đương thời, Huy Cận luôn mang trong tâm tư của mình nỗi sầu của cả một thế hệ:
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ?
Nhưng, đó là nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu như từ “vạn kỉ” chảy về. Tràng giang tiêu biểu cho phong cách thơ anh là vậy. Nỗi lòng của tác giả trong Tràng giang man mác, bâng khuâng toàn vũ trụ để đi đến cái cuối cùng, cái cốt lõi là nỗi buồn “Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà”.
Tràng giang là một bài thơ đẹp. Nó đẹp trước hết bới nỗi buồn. Thường thường, đẹp và buồn như hai người tâm giao, nhất là đôi với các thi sĩ thơ mới:
Sóng gạn tràng giang buồn diệp diệp.
Nỗi lòng ấy không thể đem ra mà đong, mà đếm. Nỗi lòng ấy cứ lớp lớp vỗ vào nhau, trào lên nhau ngày càng nặng trĩu. Cái nặng của lòng người lại được gợn lên bằng sóng nước dập dềnh bao la nên càng hụt hẫng, chới với hơn. Nỗi buồn làm cho thi nhân cảm thấy cô độc quá:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
Củi một cảnh khô lạc mấy dòng.
Dường như cái có thật ây bỗng trở nên mờ ảo, hư vô. Có cái gì đó hiện thân của sự cằn cỗi, héo hon và hiện thân của một Huy Cận đang cô độc đến rợn người. Đó là nỗi buồn trống trải, bơ vơ. Đã có lúc hồn của thi nhân lay lắt trong ngọn gió “đìu hiu”, trong cái không gian tĩnh lặng đến tuyệt đôi, một âm thanh buồn cũng không thế gợi lên. Đã có lúc hồn của thi nhân như tan ra, trải ra trôn sông nước dập dềnh và tràn vào vũ trụ bao la với “sông dài, trời rộng”, với “nắng xuống trời lên”… Mọi cảnh vật đối với nhà thơ đều mông mang quá, còn bản thân ông lại chí là một “bến cô liêu”. Cái hữu hạn bỗng nhỏ nhoi trước cái vô hạn và cùng như thô lại càng buồn hơn. Đã có lúc Huy Cận dường như bơ vơ đi tìm nơi nương náu để đỡ trông trải, nhưng mà chỉ thấy “bèo dạt về đâu hàng nối hàng – mênh mông không một chuyến đò ngang”, sắc màu “bờ xanh”, “bãi vàng” không sưởi ấm được con người cô độc, mà càng làm cho hồn của thi nhân thêm buồn. Nỗi buồn ây bao trùm toàn bài thơ, làm nên vẻ đẹp của tác phẩm. Nhưng đến khổ cuối, nỗi buồn đó như được vỡ ra, như được lý giải. Điều quan trọng là Huy Cận tìm được nguyên cớ khiến cho tạo vật thấm đượm nỗi buồn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dọn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Và như thê, bài thơ lại càng trở nôn đẹp hơn ơ cái tình của thi nhân. Trong khi một số nhà thơ khác có phần còn đang “say” đang “điên”, đang trong chốn “diêu tàn” hay mê mải với tình yêu, thì Huy Cận lại đau vì phải xa mái nhà xưa. Nỗi buồn riêng tư của thi nhân rộng lớn quá, nhân ái quá và cao cả quá! Thôi Hiệu xưa kia nhớ nhà trong buổi chiều tà, khói sương thì nay, Huy Cận thương nhà khi không có cả cái cớ đê buồn thương, để mà gợi nhớ!
Ta nhận thấy trong cái hùng vĩ của thiên nhiên “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, trong cái nhà nhỏ nhoi yếu ớt của một sinh vật sông “chim nghiêng bóng nhỏ cánh chiều sa” và trong cái “dợn dạn” của nước non… có mang một tâm sự u uẩn, nặng trĩu. Phải chăng đó là tâm sự “băng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là niềm khao khát được sống trong sự giao cảm con người với con người, con người với dân tộc, với đất nước của chính nhà thơ.
Có thế nói chính nỗi buồn cao cả ấy đã làm nên nội dung tình cảm của bài thơ, làm nên vẻ đẹp riêng tư của Tràng giang. Mặt khác, phải thấy rằng, Huy Cận là một nhà thơ trẻ (lúc bấy giờ) đầy tài năng. Tràng giang biểu hiện sinh động cho nghệ thuật thơ ca Huy Cận.
Đọc Tráng giang, ta thấy bài thơ có những hình ảnh rất độc đáo và sinh động. Đó là hình ảnh Củi một cành khô lạc mấy dòng. Nhưng ngôn từ vương vãi ớ đáu đó được nhà thơ nôi lại thành một câu thơ giản dị gần gũi có sức khêu gợi những gi nhà thơ muốn nói. Ngoài nỗi buồn ra, ta còn
cảm nhận được cả nỗi đau đời còn chắt lại. Và như thế, với riêng thơ ca, cũng đủ in đậm một nỗi lòng trong bao nhiêu nỗi lòng của bao nhiêu nhà thơ khác. Bài thơ còn có rất nhiều hình ảnh dẹp và buồn. Đó là hình ảnh của một Tràng giang mênh mang sóng nước, một cồn nhỏ hắt hiu, một màu xanh, màu vàng lặng lõ của cây lá. Và hình ảnh cuối cùng, như trĩu xuống vì lòng thi nhân cũng đã quá nặng với đất trời rồi:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa.
Đó là một hình ảnh kỳ vĩ quá cả sức tưởng tượng làm cho ta có cảm giác như một hình ảnh hoang đường. Mây không gợi sự nhọ nhàng mà gợi sự u uất. Bên cạnh cái hùng vĩ ấy, cánh chim bỗng trở nên bé nhỏ hơn, yêu đuôi non nớt hơn. Một cánh chim chiều cũng đủ đê làm nôn nỗi buồn. Nhưng cánh chim ấy lại như chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhằng trong buổi chiều tà bóng xế. Ta có cảm giác như cánh chim nhỏ nhoi lắm, lại vừa rộng lớn lắm, còn đủ sức để cõng cả bóng chiều, nâng đỡ cả đám mây cao núi bạc cho dù có một lúc nào đó chới với giữa không gian. Có lẽ đây là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường, nhưng sao ở đây nó lại mới đến thế, lạ và đẹp đến thô?
Có thể nói trong Tràng giang, Huy Cận đã làm công việc cao cả của một người nghệ sĩ, đó là sự dày vò ngôn từ. Ngôn ngữ trong Tràng giang không đơn điệu mà sinh động cô đọng với các điệp từ “điệp diệp”, “song song, đìu hiu, chót vót, lặng lẽ, lớp lớp, dạn dạn, đôi khi từ ngữ trong Tràng giang được sử dụng rất đắt không thể thay thế được.
Tràng giang có niêm luật chặt chõ như một bài thơ Đường luật. Vì thế đọc lên, ta có cảm giác như giọng thơ hoài cổ, chắc, khỏe và cũng chất đầy nỗi buâng khuâng nhớ mong, chất đầy tâm sự thầm kín.
Đọc Tràng giang, cái đọng lại cuối cùng là tư thế của con người – một thi nhân trước vũ trụ. Tư thế ấy thật đẹp thật lớn lao biết bao. Nỗi buồn đã không làm cho con người trở nên yếu đuô”i, nhỏ nhoi. Con người ở đây vừa kiêu hãnh, vừa buồn thương. Để cảm nhận, thu hút cả thiên nhiên dưới tầm mắt của mình, nhà thơ phải đứng từ rất cao, rất xa mới thấy Sóng gạn tràng giang, mới thấy một làng xa, mới thấy nắng xuống chiều Lén, bờ xanh tiếp bãi vàng, mây cao đùn núi bạc… Nhà thơ đã dựng lên một không gian ba chiều rộng lớn, mênh mông, sâu thẳm và cao vời vợi. Trùm lén không gian ấy là sự tĩnh lặng gần như là tuyệt đối, duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm gọi trong xa xăm một dáng hình Tố quốc.
Khó có thê nói hết được cái giới hạn cuối cùng của nỗi lòng trong Tràng giang, cũng như khó có thể nói hết vẻ đẹp tận cùng của nó. Nội dung tình cảm và nghệ thuật điêu luyện trong Tràng giang đã làm nôn phong cách riêng Huy Cận – một điều rát cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Vẻ đẹp của bài thơ Tràng giang đã làm nên sức sông mãnh liệt của nó. Tràng giang vẫn là một dòng chảy mãi mãi đến tận sau này. Tràng giang tồn tại trong văn chương bằng vẻ đẹp đầy kiêu hãnh của một sự sáng tạo nghệ thuật và một cái tâm bao la, cao cả của một người nghệ sĩ.
Phân Tích Khổ Thơ 5, 6 Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh Và Liên Hệ Đến Khổ Cuối Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử
Phân tích khổ thơ 5, 6 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và liên hệ đến khổ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ 5 và 6 nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ 5-6 của bài thơ Sóng – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thuỷ chung.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ Sóng – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho nguời đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng). Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ. Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.
Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung). Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.
Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:
Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ.
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở.
(Bàn tay em)
Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ. Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.
Đêm nằm lưng chẳng tới dường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
(Ca dao)
Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.
Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ qui chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khoả lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vỹ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình: Về mặt nội dung: Nếu Sóng là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh, trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành sắc màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Về mặt nghệ thuật: Sóng hoà mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc…hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vỹ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.
Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử là những ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Và hai thi phẩm “Sóng”, “Đây thôn Vỹ Dạ” chính là hai thi phẩm đã dệt nên hồn thơ lãng mạn ấy. Về cuộc đời, cả Xuân Quỳnh và Hàn Mặc Tử đều có số phận không được ấm yên trong tình yêu và hạnh phúc, kể cả trong cuộc đời cũng nhiều sóng gió. Nhưng sau tất cả, họ vẫn vượt lên bằng nghị lực, họ đã vịn tay vào thơ ca để cất lên tiếng hát yêu đời.
Tóm lại, Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của sóng và của em:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”
Hướng Dẫn Soạn Bài Đây Thôn Vĩ Dạ
Tài liệu hướng dẫn soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ với việc phân tích chi tiết từng khổ thơ của Kiến Guru sẽ giúp các em học sinh hiểu rõ được vẻ đẹp của thôn Vĩ và nỗi lòng của thi nhân gửi gắm vào trong bài thơ này.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ miêu tả cảnh đẹp nên thơ và bình yên của thôn Vĩ Dạ – một thôn nhỏ bên bờ sông Hương thơ mộng. Nhưng ẩn ý thật sự của nhà thơ Hàn Mặc Tử là mượn cảnh để tỏ lòng.
I. Nội dung chính cần nắm khi soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ
1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử a. Cuộc đờiHàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Ông sinh ra trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa ở tỉnh Quảng Bình. Cha thì mất sớm nên ông sống với mẹ tại Quy Nhơn và hai năm trung học thì ông lại học ở Huế. Sau đó, ông làm việc ở Bình Định một thời gian rồi vào làm việc tại Sài Gòn.
Do mắc căn bệnh phong cùi quái ác, lúc đó chưa có thuốc chữa trị nên những năm cuối đời, ông trở về Quy Nhơn để chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa.
Soạn bài đây thôn vĩ dạ – tác giả Hàn Mặc Tử
b. Sự nghiệpTuy cuộc đời của Hàn Mặc Tử chịu nhiều bi thương và chỉ có khoảng 12 – 13 năm sáng tác, sự nghiệp thơ ca của ông không đồ sộ nhưng được đánh giá là một nhà thơ có sức sáng tác mãnh liệt và mang đậm dấu ấn của phong trào thơ mới. Do vậy mà Hàn Mặc Tử cũng đã để lại cho nền văn chương Việt Nam một lượng tác phẩm có giá trị
Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Gái Quê, Thơ Điên, Duyên Kì Ngộ, Chơi Giữa Mùa Trăng…
c. Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử– Hàn Mặc Tử là một cây bút tạo nên nhiều ấn tượng và gây nhiều chú ý với các nhà phê bình văn học cả ở giai đoạn bấy giờ và sau này.
– Các tác phẩm của ông mang đậm chất trữ tính, lãng mạn đến siêu thực, huyền bí, nhưng lúc nó cũng toát lên tình yêu đời và yêu người tha thiết. Cũng có lẽ vì ông mắc bệnh khá sớm nên những sáng tác của ông đều nói lên nỗi khao khát thầm kín của chính ông- được sống, được yêu thương.
– Nếu là một người yêu thích thơ văn của Hàn Mặc Tử đều có thể thấy được hình ảnh “trăng” xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm của ông. Theo nhiều tài liệu cho biết thì cả cuộc đời của ông bị ánh trăng ám vào, gắn bó vô cùng mật thiết:
+ Hàn Mặc Tử sinh vào tháng 8 âm lịch cũng chính là thời điểm mà trăng đẹp nhất trong năm. Ông cũng lớn lên tại vùng biển Quy Nhơn – đây là vùng núi và biển ôm lấy nhau nên khi trăng lên mang một vẻ đẹp rất thơ mộng và đầy hoang sơ, không chỉ với riêng Hàn Mặc Tử mà với với thi nhân khác thì phong cảnh này là nguồn cảm hứng để viết lên những vần thơ lãng mạn.
+ Những ngày trăng tròn, ánh trăng tác động lên cơ thể và đầu óc của những bệnh nhân phong cùi, gây ra những đau đớn thể xác và tinh thần vô cùng kinh khủng. Để tạm quên và vượt qua nỗi đau đớn đó mà Hàn Mặc Tử đã lựa chọn cách làm thơ để bày tỏ những nỗi niềm trong lòng”Ai mua trăng tôi bán trăng cho”
2. Tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ DạBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lấy nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với bà Hoàng Thị Kim Cúc. Bà Kim Cúc và Hàn Mặc Tử quen nhau tại Quy Nhơn, sau đó ông chuyển vào Sài Gòn làm việc còn bà thì theo gia đình về lại quê gốc là thôn Vĩ Dạ – Huế. Hai người sau đó có thư từ qua lại, một lần bà Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu thiếp vẽ phong cảnh Huế. Chính tấm bưu thiếp và tấm chân tình trong lòng đã tạo cảm hứng cho Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
b. Ý nghĩa nội dung tác phẩm Đây thôn Vĩ DạHình ảnh trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thật ra không phải là cảnh mà tác giả chứng kiến nhưng chỉ là những cảnh vật xuất phát từ trí tưởng tượng của ông về thôn Vĩ từ những yêu thương và khát vọng trong lòng của ông, nên bài thơ thường xuất hiện những hình ảnh siêu thực mờ ảo như một giấc mơ.
Hướng Dẫn Soạn Chiếc Thuyền Ngoài Xa – Câu Chuyện Về Người Đàn Bà Làng Chài
Hướng Dẫn Soạn Bài Từ Ấy – Tố Hữu ngắn gọn nhất
Soạn Bài Tràng Giang – Huy Cận: Nỗi Buồn Trước Thiên Nhiên Rộng Lớn
II. Hướng dẫn soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ
Câu 1: Phân tích khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ: nét đẹp phong cảnh và tâm trạng của tác giả– Tác giả mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ này mang ý nghĩa như một lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời về thăm quê của người con gái tại thôn Vĩ Dạ. Cũng có thể ý thật của câu nói này là lời tự trách bản thân của tác giả vì chưa có dịp về thăm xứ Huế – nơi có người con gái mà ông vẫn luôn nhớ về.
Ở đây nhà thơ sử dụng từ “về chơi” chứ không phải là đến chơi, đến thăm, về thăm bởi vì từ lâu vùng đất này trong lòng ông đã trở nên thân thuộc, việc dùng từ ngữ như vậy thể hiện sự tự nhiên, gần gũi và chân tình.
– Câu tiếp theo: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Khi đọc câu thơ này lên ta có thể hình dung đây là một khung cảnh vào một buổi sáng sớm tinh khôi. Trong câu thơ này, từ “nắng” được lặp lại hai lần muốn nhấn mạnh đặc điểm của cái nắng miền Trung: là một vùng đất đón nắng từ rất sớm, cái nắng của đất miền Trung là một cái nắng chói chang, rực rỡ ngay từ lúc bình mình. Cái nắng sớm này lại hòa quyện với màu xanh mát của hàng cau tạo nên một khung cảnh tươi mát và trong trẻo, không chỉ làm bừng sáng cảnh vật mà còn làm bừng sáng cả tâm hồn người thi sĩ.
Nếu câu thơ này gợi hình ảnh tác giả đang nhìn cảnh vật thôn Vĩ từ xa thì câu tiếp theo “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” lại như đang dẫn dắt ông đi vào những khu vườn xanh mát của thôn Vĩ.
Hướng dẫn soạn văn Đây thôn vĩ dạ
Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã làm xuất hiện hình bóng con người khiến cảnh vật các trở nên sinh động, đây có thể chính là chủ nhân của khu vườn mà tác giả đã miêu tả trong những câu thơ trên, là “ai” đó mà Hàn Mặc Tử đã nhắc đến trong câu Vườn ai
Mặt chữ điền là một khuôn mặt phúc hậu, ngay thẳng theo quan niệm của người xưa, cũng có thể là khuôn mặt người thương của tác giả. Hình ảnh “lá trúc che ngang” là một hình ảnh thể hiện sự e ấp, ngại ngùng, nhẹ nhàng mà kín đáo, đây cũng là một nét riêng của người con gái xứ Huế.
Câu 2: Phân tích khổ hai bài Đây thôn Vĩ Dạ: ý nghĩa của hình ảnh gió, mây, sông, trăngNếu khổ thơ đầu là cảnh thôn Vĩ Dạ vào lúc bình mình, tươi vui, rực rỡ thì khổ thơ thứ hai làcảnh thôn Vĩ Dạ vào chiều tối khi mặt trời buông xuống trên dòng sông Hương thơ mộng. Toàn bộ khổ thơ này toát lên một cảm giác rất buồn và chia li.
” Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước đìu hiu, hoa bắp lay”
Từ xưa đến nay trong các tác phẩm văn chương, hình ảnh gió và mây luôn gắn liền với nhau, có gió thì mây mới bay. Nhưng trong ý thơ của Hàn Mặc Tử lại là sự chia lìa, mây và gió không còn gắn bó với nhau nữa. Gió với mây được nhân hóa lên như một con người, cũng là ám chỉ sự chia li của hai người có tình cảm với nhau.
Hướng dẫn soạn bài Đây thôn vĩ dạ
Dòng nước đìu hiu là một hình ảnh nhân hóa đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, dòng nước đìu hiu đó cũng chính là tâm trạng của tác giá: cô đơn trống vắng khi “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hình ảnh hoa bắp lay như là những xáo động trong lòng của tác giả, tô đậm thêm cái sự đìu hiu của cảnh vật.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ này gợi lên hình ảnh vừa hư vừa thực. Dòng sông không chỉ đơn thuần là dòng nước mà nó được phủ đầy ánh sáng của trăng, trở thành “sông trăng” làm cho không gian thềm huyền diệu và hư ảo. Có lẽ trước sự cô đơn trống vắng đó mà Hàn Mặc Tử mong muốn có một người để tâm sự bầu bạn nhưng không có ai hiểu, chỉ có ánh trắng mới thấu được nỗi lòng của ông. Nhưng ánh trăng vừa như đang ở trước mắt ông lại vừa như rất xa xôi khiến ông không chạm đến được nên mới có câu ” có chở trăng về kịp tối nay?” khiến cho ông đã cô đơn càng trở nên cô đơn hơn
Câu 3: Phân tích khổ thơ 3 bài thơ đây thôn Vĩ Dạ: tâm sự của nhà thơHai khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử mượn cảnh xứ Huế để nói lên tâm trạng thì ở khổ thơ cuối này, ông đã trực tiếp dùng lời thơ để bộc lộ tâm trạng của mình.
“Mơ khách đường xa khách đường xa”: tác giả một lần nữa dùng phép lặp, cụm từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần để diễn tả sự xa cách, sự xót xa trong lòng ông. Có lẽ ông chỉ mãi là một vị khách xa xôi, chỉ có thể đứng từ xa nhìn “em” chứ không thể đến gần. Động từ “mơ” càng khiến cho cảnh vật thêm huyền ảo, không thực, điều này càng tô đậm thêm hình ảnh như trong mơ của câu
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Hình ảnh người con gái mặc áo trắng có thể là hình ảnh thật cũng có thể là hình ảnh xuất hiện trong mơ của tác giả. Bởi vì không thể tiếp cận, bởi vì mơ, bởi vì sự mờ ảo nên Hàn Mặc Tử chỉ thấy được hình bóng của người con gái ấy chứ không thể đến gần để nhìn rõ.
Hướng dẫn soạn văn Đây thôn vĩ dạ
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Ta có thể hiểu câu này theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất là nghĩa tả thực: Huế là một vùng đất nhiều sương khói nên hình ảnh sương khói đó khiến cảnh vật trở nên mờ màng khiến cho ông “nhìn không ra” người con gái ấy, chỉ thấy một hình ảnh mơ hồ
Nghĩa thứ hai là nghĩa ẩn dụ: Hình ảnh sương khói ấy như là hình ảnh tự ông mơ, tự ông huyễn hoặc, cũng có thể ám chỉ khoảng cách cả về địa lý và khoảng cách trong tâm hồn – mặc cảm về cuộc đời, mặc cảm về tình người khiến ông không thể nhìn ra được tình cảm của người con gái xứ Huế.
” Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đây là một câu hỏi tu từ không mong có lời giải, “ai” là một đại từ phiếm chỉ mở ra hai tầng ý nghĩa cho câu thơ này:
– Ý nghĩa thứ nhất: như là một chút hờn trách của tác giả, không biết tình cảm của ai đó có đậm đà hay lại như khói như sương vừa mờ ảo vừa chóng tan.
– Ý nghĩa thứ hai: liệu ai đó đang ở xứ Huế có thấy hiểu tình cả sâu nặng của người “khách đường xa” hay không? Nhưng người khách ấy vẫn rất yêu mến và quen thuộc với cảnh vật và con người xứ Huế
Câu 4: Soạn bài đây thôn vĩ dạ – Nghệ thuật– Tứ thơ là ý chính bao quát toàn bộ bài thờ, tứ thơ đi từ hình ảnh chân thực đến những hình ảnh ngày càng mờ ảo, đây cũng là bút pháp tượng trưng trong thơ của Hàn Mặc Tử. Từ đó mở ra một khung cảnh hư hư thực thực để diễn tả nỗi niềm cảm xúc trong lòng ông.
– Bút pháp là sự kết hợp hài hòa giữ yếu tố tả thực, vừa mang tính tượng trưng, trữ tình để tăng thêm sự lãng mạn của cảnh vật và tô đậm sự trống vắng cô đơn trong lòng ông.
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm rất nổi tiếng của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ mà còn là tình cảm, là lời tâm sự của một con người tài hoa nhưng phải chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống.
Phần hướng dẫn soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ của ứng dụng học tập Kiến Guru không chỉ giúp các em có tư liệu để trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa mà còn phân tích chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng khổ thơ. Tài liệu này, cám em có thể dùng để tham khảo cho kiểm tra và thi cử.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Các Bài Thơ Tràng Giang (Huy Cận) Và Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!