Xu Hướng 3/2023 # Hình Ảnh Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Bài Tự Tình 2 Và Thương Vợ # Top 4 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Hình Ảnh Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Bài Tự Tình 2 Và Thương Vợ # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Hình Ảnh Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Bài Tự Tình 2 Và Thương Vợ được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2 và Thương vợ

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Bài thơ “Bánh trôi nước” có hai lớp nghĩa: tả thực chiếc bánh trôi, một món ăn dân tộc và tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. Chữ “trắng” và chữ “tròn”, hình ảnh nhân hoá “thân em” đã thể hiện vẻ đẹp khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng của “em”. Tuy tình yêu và số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến, và đạo tam tòng, vào “tay kẻ nặn”, dù “rắn nát”, dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua “bảy nổi ba chìm”, nhưng em vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ “tấm lòng son” và hai tiếng “vẫn giữ” đã ngợi ca đức hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt Nam. “Bánh trôi nước” là bức chân dung nghệ thuật với hai gam màu “trắng” và “son” tuyệt đẹp:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

Chùm thơ “Tự tình” ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi!

Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống dồn “văng vẳng” từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cô đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. “Chén rượu hương đưa” cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng “say lại tỉnh” để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm “vầng trăng bóng xế”, ngắm mãi ngắm hoài mà trăng kia vẫn “khuyết chưa tròn”, Hạnh phúc mà nàng mong đợi chỉ là “Một tháng đôi lần có cũng không!”. Số phận và bi kịch ấy thật đáng thương!

Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thoát sao được. Dù có “xiên ngang mặt đất”, dù có “đâm toạc chân mây”, nhưng đám rêu kia, mấy hòn đá nọ cũng không thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.

Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà còn tô đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà “lấy chồng chung”.

Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ được “san sẻ tí con con” mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

“Tự tình” – Bài II không chỉ nói lên nỗi đau khổ cô đơn mà còn thể hiện niềm khao khát tình yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ “lấy chồng chung”, Giá trị nhân bản của bài thơ thật sâu sắc.

Tú Xương có bài “Văn tế sống vợ”; ông còn có bài “Thương vợ” Cảm hứng chủ đạo là tình thương, lòng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình.

Bà Tú là hiện thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà buôn bán tần tảo ở mom sông suốt quanh năm, không có một ngày ngơi nghỉ. Một gánh nặng gia đình được bà “nuôi đủ”:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Nhờ sự đảm đang, tháo vát của vợ mà ông Tú tuy “ăn lương vợ” nhưng khá phong lưu:

“Cho hay công nợ âu là thế,

Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,

Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”

(Tự cười mình)

Hình ảnh “thân cò” là một sáng tạo của Tú Xương để nói vể sự làm ăn vất vả, khó nhọc của bà Tú. Cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” đã cực tả nỗi gieo neo, đức tính chịu thương chịu khó của người vợ, người mẹ trong gia đình đông con:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Bà Tú còn là hiện thân của đức hi sinh thầm lặng. Bà cam chịu, kiên nhẫn về duyên phận. Các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “”năm nắng mười mưa” kết hợp với các từ ngữ “âu đành phận”, “dám quản công” cho thấy đức hạnh, tâm hồn của bà Tú thật cao quý. Bà đã sống hết mình vì cuộc sống và hạnh phúc của chồng con:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”,

Hai câu kết là lời nhiếc của bà Tú cũng là lời tự trách mình của nhà thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không”.

“Không” là không giàu sang phú quý, không được “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau” như các bà nghè khác. “Không” là không được sống trong cảnh vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” như vợ của các thầy kí, thầy phán khác thời bấy giờ.

Tú Xương tuy tự trách mình, nhưng ông đã nói lên tất cả tấm lòng quý trọng và biết ơn đối với người vợ hiền thục thương yêu.

Hình ảnh bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” là hình ảnh của một người phụ nữ Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp như đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.

Qua các bài thơ “Bánh trôi nước”, “Tự tình” – Bài II, “Thương vợ” người đọc thấy được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, càng biết ơn và tự hào về người mẹ, người chị, người vợ trong mỗi gia đình chúng ta. Đúng như Huy Cận đã viết:

“Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.

Hình Tượng Người Phụ Nữ Trong Tự Tình Ii Và Thương Vợ

Đề bài: Phân tích hình tượng người phụ nữ trong Tự tình II và Thương vợ

Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhiều qua những câu ca dao với những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truyền thống đẹp đẽ mà dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó cũng được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II cua Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tễ Xương.

Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tương người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông- cái doi đất nhô ra đầy nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cà trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo:

đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:

Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ, sự cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy bất trắc, nguy hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và người phụ nữ Việt Nam xưa phải chịu đựng, trải qua.

Còn với bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình:

Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, nếu không có nó thì đem khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ đã không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi đau? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến một điều đáng sợ đôí với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: đó là tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ không tài nào dứt được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và tự hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà:

Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày một trơ ra với đời. “Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi nữa đêm phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay? “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cữu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ như lời đay nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Đó còn là nỗi đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông cảm.

Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi niềm tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên sầu là lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai để có thể chia sẽ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rươu có thể làm quen đi bảo nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống đi bao giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây cảnh tình Xuân Hương được thể hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không được trọn vẹn.Trăng vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn”- một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ khuyết tiếp hay tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cô đơn, trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang mất đi mà tình duyên chuă được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộ lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong bà.

Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con:

Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm chẳng nề hà như vậy là để nuôi cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Một phải gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang. Nhưng nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, đã gắng hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn. Câu thơ thể hiện sự vất vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung.

Còn với Tự Tình II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù yếu ớt đến đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình:

Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng bỉnh, không chịu khuất phục điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên những phản ứng tích cực, bà không buông xuôi, đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tưởng như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu dã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Chỉ những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Cự động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gò bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hoà hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lệ phong kiến, cũng như những số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến mức không chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn đập tung tất cả, muốn đập đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa………….. Mặc dù vậy, ta phải công nhận đay là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trứoc thời đại, một tính cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng:

Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây, nhưng với con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là tâm trạng của người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ được chia năm xẻ bảy, nhận dược duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội nghiệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đầy nổi loạn trên là thế, nhưng cuối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường, mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc cho tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng………… “Giọt nước mắt em……….âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi………..trong tim em ôm trọn một nỗi sàu bơ vơ…………….đành khóc vậy thôi…………… Liệu Hồ Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để trở lại là một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu hỏi còn dở dang của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như mảnh gương vỡ……… Câu thơ diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của người phụ nữ thời bấy giờ.

Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của ngưòi phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.

Nguồn Edufly

Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Bài Thơ “Cảm Xúc” Của Hồ Dzếnh

Thày nghĩ các anh chị còn nhớ bài thơ bất hủ của Hồ Dzếnh về “Cô Gái Việt”. Thày đã biết đến bài thơ này ​70 năm rồi.

Cô gái Việt Nam ơi! Từ thuở sơ sinh lận đận rồi, Tôi biết tình cô u uất lắm, Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi. Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa, Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha, Khi cô vui thú, là khi đã Bồng bế con thơ, đón tuổi già. Cô gái Việt Nam ơi! Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi, Thế hệ huy hoàng không đủ xóa Nghìn năm vằng vặc ánh trăng soi. Tôi đến đây tìm lại bóng cô, Trở về đường cũ, hái mơ xưa, Rau sam vẫn mọc chân rào trước, Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ. Dãi lúa cô trồng nay đã tươi, Gió xuân ý nhị vít bông cười… Ai hay lòng kẻ từng chăm lúa, Trong một làng con, đã héo rồi! Cô gái Việt Nam ơi! Nếu chữ hy sinh có ở đời, Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.

======================

Nhân dịp nhận được email này Nhóm GNST xin gửi đến Diễn Đàn bài viết NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA BÀI THƠ “CẢM XÚC” CỦA HỒ DZẾNH của tác giả Kiều Văn

Hồ Dzếnh là một nhà thơ rất mực khiêm nhường suốt đời ẩn thân trong một cuộc sống cần lao bình dị, nhưng không hề bị những người đã từng đọc thơ ông quên lãng. Hôm nay nhân “giở bồ sách cũ”, tôi tìm lại tập thơ của ông do tôi tuyển chọn và NXB Đồng Nai đã cho ra mắt vào năm 1997. Một lần nữa, tôi đã thực sự xúc động khi đọc bài thơ mà tôi đã trân trọng đặt ở vị trí đầu tiên trong tuyển tập. Đó là bài “Cảm xúc”.

Là nhà thơ mang hai dòng máu Hoa – Việt (mẹ ông nguyên là một “cô lái đò” ở Thanh Hoá), sinh ra và lớn lên khi đất nước còn đang chìm trong cảnh nô lệ lầm than, hồn thơ của Hồ Dzếnh như thể một hạt “lệ ngọc” được kết tinh từ cuộc đời lam lũ của cha, của mẹ, của bản thân và của đồng bào ông. Sâu xa hơn nữa, nó được kết tinh từ lịch sử của hai dân tộc Việt, Trung, tuy không thiếu những trang oanh liệt, nhưng mênh mang nơi cõi thế, dường như vẫn là cái “bể khổ” mà hằng hà sa số kiếp người đã trầm luân qua bao nhiêu thế kỷ…

Tình và ý trong bài thơ “Cảm xúc” là một tiếng nói, một cách cảm nhận mới mang chiều sâu suy tư và cảm xúc của một nhà thơ hiện đại đối với hình tượng người con gái, người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Tác giả đã nhanh chóng phát hiện được thực chất bi kịch của số phận họ, và đã đi thẳng vào trung tâm của bi kịch ấy:

Những câu thơ ấy chứa đựng niềm cảm thương sâu sắc của một trái tim mang nặng tình nhân ái nhưng rơi vào bế tắc bởi chưa có cách nào giải toả được. Vì vậy nỗi cảm thương ấy đã bị ứ nghẹn lại trong lòng nhà thơ. Nhưng vấn đề trọng yếu nhất đã được nêu lên: nhờ một linh cảm nhạy bén, nhà thơ biết rõ rằng có một sự ứ nghẹn gay cấn hơn nhiều ở phía “cô gái Việt Nam” được ông diễn đạt bằng mấy từ: “tình cô u uất lắm”. Nhà thơ đã phát hiện được cái nỗi đau ngầm, cái “vấn nạn” vẫn hiển nhiên tồn tại nhức nhối ở “cô”, cho dù suốt đời cô đã phải ráng hết sức nhấn chìm nhân bản của mình, phải khốn khổ học cho kì được tính “nhẫn” mà gia đình và xã hội gay gắt đòi hỏi cô phải có. Nỗi đau ấy, vấn nạn ấy là gì? Là nỗi khát thèm được người khác biết đến con người và số phận của mình, cảm thông, chia sẻ và an ủi! Trong xã hội Việt Nam, khi mà ánh sáng của một thời đại thật sự văn minh và tiến bộ chưa dọi tới, sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ ấy hình như rất ít ỏi, thậm chí có khi nó còn trở thành sự vô cảm. Đến như vợ của Tú Xương – nhà thơ đã để lại thi đàn bài thơ “Thương vợ” nổi tiếng “Quanh năm buôn bán ở mom sông…” còn phải thở than trách móc rằng “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không” nữa là! Chính vì hiểu thấu tâm tư ấy của cô gái Việt Nam mà Hồ Dzếnh đã mạnh dạn miêu tả thực chất tấn bi kịch của đời cô:

Vẻn vẹn có bốn câu thơ với vài nét chấm phá mà tất cả cuộc đời, tất cả số phận đáng thương của cô gái Việt Nam được lột tả chính xác, giống như những thước phim quay vội nhưng sắc nét!

Người ta nói không sai: một nỗi đau khổ được chia sẻ sẽ chỉ còn lại một nửa nỗi đau khổ. Tôi tin rằng bất kì người phụ nữ Việt Nam nào đọc những câu thơ này cũng cảm thấy xúc động, cũng thấy lòng phần nào vợi bớt khổ đau, và cũng thầm cảm ơn tấm lòng quý hoá của nhà thơ quá cố, cũng muốn thắp cho ông một nén hương tưởng nhớ.

Có phải nhà thơ Hồ Dzếnh đã phóng đại tấn bi kịch của cô gái Việt Nam chăng? Tôi xin bày tỏ: trên thực tế, ở nửa đầu thế kỷ XX, thời đại “văn minh Âu hoá” tuy đã mở màn trên đất nước ta, nhưng trừ một số ít phụ nữ ở các thành thị, cuộc sống được ít nhiều thay đổi, tự do hơn, còn ở hầu hết các vùng nông thôn rộng lớn thì – đúng như nhà văn Tô Hoài đã viết – “cuộc sống không một chút thay đổi, như trong tranh vẽ” ( Xóm Giếng ngày xưa). Chính Hồ Dzếnh đã lí giải về sự thật này như sau

Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi, Thế hệ huy hoàng không đủ xoá Nghìn năm vằng vặc ánh trăng soi.

Thế nhưng trong khi nhận thức thực chất tấn bi kịch của người con gái Việt Nam xưa, tâm hồn thi nhân của Hồ Dzếnh đã đồng thời lĩnh hội được đầy đủ về những phẩm chất vàng ngọc của họ. Phát hiện ấy đã tạo nên một sự đối lập triệt để giữa hai phạm trù ĐAU KHỔ – CAO QUÝ khả dĩ gây ra được những hiệu ứng sắc cạnh về trí tuệ và những cảm xúc mãnh liệt về tình cảm – những cái làm nên đặc trưng của văn chương kim cổ.

Chính người con gái, người phụ nữ Việt Nam nói chung, đã tạo nên những vẻ đẹp vô ngần gắn liền với quê hương xứ sở thân yêu:

Phải, những người con gái Việt Nam chân chính không khi nào đánh mất đức hạnh cao quý của phụ nữ phương Đông, cũng không bao giờ để lụi tắt niềm tin vào tương lai của cuộc sống. Họ tuyệt nhiên không bao giờ là những kẻ lánh đời và yếm thế. Câu thơ “Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ” gợi nhớ đến câu thơ của Hồ Xuân Hương “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son”. Thơ Hồ Dzếnh đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp và đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam là bất hủ với thời gian.

Nhà thơ cũng không quên ghi nhận biết bao “công lênh” của những cô gái Việt đã đóng góp cho quê hương đất nước bằng nết chịu thương chịu khó và đức quên mình, khiến chúng ta càng khâm phục bao nhiêu thì càng thương cảm bấy nhiêu:

Hiểu biết, sẻ chia bằng tấm tình yêu thương chân thật, đằm thắm, nhưng đối với nhà thơ, thế vẫn là chưa đủ. Toàn bộ tình cảm và suy nghĩ của ông, ở đoạn thơ kết, đã thăng hoa, dồn nén rồi bùng nổ với một mãnh lực mới. Có thể nói, bằng sức mạnh của một hồn thơ đích thực, bằng cách vươn theo sự phát triển nội tại tất yếu của một tình yêu sâu nặng, của dòng xúc cảm thơ trào cuộn, rốt cuộc lí trí của Hồ Dzếnh bỗng bừng sáng và ông đã tìm thấy chiếc chìa khoá vàng để giải toả nỗi ứ nghẹn tâm tư của cô gái Việt Nam đã dàn trải trong suốt mấy khổ thơ liền. Mẫn tuệ nắm bắt ngay lấy hình thức “tụng ca”, ông đã cất cao giọng để tưởng thưởng, để ca ngợi đức hạnh cao quý, chân giá trị con người, cuộc sống cùng với những công lao và những hi sinh to lớn nhưng thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam đối với gia đình, xã hội và quê hương xứ sở.

Như trên đã nói, nỗi buồn sâu kín nhất của người phụ nữ Việt Nam là “mình đã cống hiến tất cả cho cuộc đời này, và nếu được hưởng thụ thì cũng chỉ là “một tí con con”, thế nhưng có ai biết đến điều ấy cho mình đâu?”. Hiểu thấu điều đó, Hồ Dzếnh với thiên chức của một nhà thơ, đã dùng những lời vàng ngọc của thi ca để mạnh mẽ xua tan cái tâm sự u uất ấy và làm bừng lên trong tâm hồn “cô” những tia nắng vui tươi. Chúng ta hãy lắng nghe khúc tụng ca của nhà thơ:

Cổ ngôn có câu “Thi khả dĩ hứng” (thơ có thể làm hứng khởi con người), thì quả vậy. Hồ Dzếnh đã mang hết tâm huyết để thực hiện cái công việc thật lớn lao, thật cao thượng: thay thế những hiện thực ảm đạm, đáng buồn của cô gái Việt Nam (được diễn đạt bằng những từ lận đận, u uất, già, héo, khổ cực) bằng một hiện thực hoàn toàn mới mẻ, chói ngời, thắm đẹp, được diễn đạt bằng những từ ngữ trang trọng, thân thương và đầy khích lệ: nạm vàng, lòng cô gái Việt Nam, tươi.

Hành động bằng văn chương nghệ thuật ấy của nhà thơ Hồ Dzếnh nào khác gì hành động “cứu khổ ban vui” của các đấng Phật, Tiên!

“Cảm xúc” chỉ là một bài thơ dung dị, mềm mại như nước, nhưng qua đó chúng ta đã có thể thấy được trái tim, trí tuệ, hồn thơ và nghệ thuật thơ đích thực của Hồ Dzếnh.

Vẻ Đẹp Hình Ảnh Và Ngôn Ngữ Trong Thương Vợ – Trần Tế Xương Và Tự Tình – Hồ Xuân Hương

Dàn ý bài làm

Vẻ đẹp của hình ảnh và ngôn ngữ trong các bài thơ Thương vợ – Trần Tế Xương và Tự tình – Hồ Xuân Hương

Sơ lược về điểm tương đồng, khác biệt giữa hai bài thơ

– Tương đồng: cùng viết về hình tượng người phụ nữ với ngôn ngữ và hình ảnh thật gần gũi mà lại có sức biểu cảm cao.

– Khác biệt:

 Thương vợ: Lời người chồng viết về vợ của mình. Cách nhìn nhận đánh giá vừa khách quan lại vừa có thể thể hiện lòng trân trọng, mến yêu tác giả dành cho vợ.

 Tự tình: Tiếng lòng của một con người về chính số phận éo le ngang trái và khát khao yêu đương cháy bỏng của giới mình. Cách nhìn nhận đánh giá có phần chủ quan nhưng lại vô cùng sâu  sắc, thấm thía.

Vẻ đẹp của hình ảnh và ngôn ngữ trong các bài thơ 

2.1. “Thương vợ” (Tú Xương)

– Ngôn ngữ:

 Các từ ngữ giàu giá trị tạo hình: quanh năm, mom sông, buôn bán nuôi đủ, các số từ năm, một; từ láy tượng thanh eo sèo.

 Nghệ thuật đối: lặn lội – eo sèo, khi quãng vắng – buổi đò đông, âu đành phận – dám quản công.

 Các thành ngữ chéo trong dân gian: một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa.

 Tiếng chửi: cha mẹ thói đời…

2.2. “Tự tình” (Hồ Xuân Hương)

– Ngôn ngữ:

 Các từ ngữ giàu sức gợi: văng vẳng, trơ, cái hồng nhan, say lại tỉnh, khuyết —- chưa tròn, xiên ngang, đâm toạc; từ ngữ tăng tiến: mảnh tình -san sẻ — tí — con con.

 Nghệ thuật đối: sơy lại tình – khuyết chưa tròn, xiên ngang mặt đất – đâm toạc chân mây. –

 Dùng từ chuyển loại linh hoạt: xuân, lại.

– Hình ảnh: rêu, đá, mảnh tình.

 Hai tác phẩm thành công viết về hình tượng người phụ nữ Việt Nam  trong xã hội phong kiến cũ. Cá Hồ Xuân Hương và Tú Xương đều để lại cho chúng ta những ấn tượng sâu đậm về ngôn từ và hình ảnh thơ.

 Bài làm văn mẫu

Trong nền thơ ca muôn màu muôn vẻ của dân tộc Việt Nam, dưới ngòi bút tinh tế, độc đáo của nhiều thi nhân tài hoa, hình tượng người phụ nữ cứ  đi vào những trang viết một cách tự nhiên mà đong đầy cảm xúc: ở Trần Tế Xương, ta thấy Thương vợ và ở Hồ Xuân Hương ta bắt gặp Tự tình. Mặc dù mỗi người có một cách thể hiện khác nhau nhưng thì phẩm nào cũng chan chứa sự đồng cảm, tình yêu thương dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Với hình ảnh thơ gần gũi mà giàu tính biểu cảm, với ngôn ngữ thơ giản dị mà sức truyền cầm lại vô cùng mạnh mẽ, Thương vợ và Tự tình xứng đáng là hai bài thơ tiêu biểu cho để tài người phụ nữ.

Thương vợ và Tự tình thể hiện rất đặc sắc hình tượng người phụ nữ với ngôn ngữ và hình ảnh thật gần gũi mà lại có sức biểu cảm cao. Ở Thương vợ, ta dễ dàng nhận ra đây là lời của người chồng viết về vợ của mình. Cách nhìn nhận, đánh giá vừa khách quan lại vừa có thể thể hiện lòng trân trọng, mến yêu tác giả dành cho vợ. Còn ở Tự tình, đó chính là tiếng lòng của một con người về chính số phận éo le ngang trái và khát khao yêu đương cháy bỏng của giới mình. Cách nhìn nhận, đánh giá có phần chủ quan nhưng lại vô cùng sâu sắc, thấm thía.

Trước hết là lòng thương hết sức cảm động và dí đồm Tú Xương dành cho người vợ đảm đang, chịu khó, hết mực vì chồng vì con. Mở đầu bài thơ là lời thuật kể về công việc của bà Tú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Quanh năm là cách diễn tả thời gian tuần hoàn, hết từ ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, không có lấy một giây phút hiếm hoi được nghỉ ngơi. Công việc của bà Tú là buôn bán – có thể không quá nặng nhọc nhưng sẽ phải đầu tắt mặt tối, đi sớm về khuya và đặc biệt là bà Tú sẽ phải dấn thân vào chốn ô hợp, không tránh khỏi những lời lẽ eo sèo điểu qua tiếng lại. Không chỉ có vậy, nơi bà Tú buôn bán – mom sông – là nơi mảnh đất nhô ra phía bờ sông, ba bể bốn bên đều là nước, nơi đầu sóng ngọn gió hết sức chênh vênh, nguy hiểm. Một người phụ nữ vốn xuất thân dòng dõi, con gái nhà dòng như bà mà phải dấn thân vào nơi như thế, thật đáng xót xa. Nhưng sở dĩ bà Tú phải “xông pha”, lặn lội là vì bà có cả một gia đình để phải lo toan. Gia đình trở thành một gánh nặng, nặng hơn bất kì gánh hàng nào trong cuộc đời bươn trải của bà. Trách nhiệm nuôi đủ năm con với một chồng trở thành gánh nặng đè lên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ trẻ. Các số từ nỡm, một kết hợp với từ với như một cán cân mà phần nặng hơn lại nghiêng về phía mội. Ông Tú đã tự nhận mình là “thứ con đặc biệt”, vốn chẳng giúp được gì cho vợ mà lại còn khiến vợ phải đèo bòng. Và ngược lại, người phụ nữ yếu đuối như bà Tú lại trở thành trụ cột vững chắc trong gia đình. Bằng những câu thơ vừa hàm ý biết ơn vợ vừa mỉa mai chính bản thân mình, Tú Xương đã ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ đảm đang, tần tảo. Càng nghĩ về vợ, cảm xúc trong Tú Xương càng dâng trào:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Hình ảnh lớn lội thân cò trong thơ ông Tú khiến người đọc chợt nhớ đến câu ca xưa: Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Trong câu ca, con cò biểu trưng cho người phụ nữ có chồng bị bắt đăng lính trong cuộc chiến phi nghĩa. Có cái gì đó vất vả, lầm lụi, cô độc trong dáng hình lặn lội, lại có cái gì đó đau đớn, lắng lo, phấp phỏng, tủi thầm trong gánh nặng đưa chồng đi lính và tiếng khóc nỉ non. Mượn lại hình ảnh thơ trong ca dao nhưng Tú Xương đã biết chắt lọc và sáng tạo lại. Trong thơ ông, hai chữ lặn lội  đã được đưa lên đầu câu, nhấn vào sự bươn trải, nhọc nhằn, gắng gượng) cô độc. Hơn nữa, Tú Xương không viết lặn lội con cò mà là lặn lội thân cò, nỗi nhọc nhằn, vất vả đã trở thành thân kiếp, số mệnh mà bà Tú phải gánh chịu. Nghệ thuật đảo ngữ tiếp tục được nhà thơ sử dụng ở câu thơ sau, từ láy tượng thanh eo sèo được đưa lên đầu câu, nhấn vào tiếng tranh bán tranh mua cãi vã nơi chợ búa. Nghệ thuật đối rất chỉnh: lặn lội – eo sèo, khi quãng vắng – buổi đò đông làm nổi bật cảnh kiếm sống khó khăn, cực nhọc. Bà Tú phải trả giá bao mồ hôi nước mắt để có được bát cơm manh áo cho chồng con, để đổi lấy sự nhàn “hạ, thong dong cho đức ông chồng của mình? Hai câu luận là lời Tú Xương nói thay cho ý nghĩ của bà Tú:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Các thành ngữ chéo trong dân gian: một duyên. hơi nợ, năm nắng mười mưa vừa gần gũi, vừa hàm súc được đưa vào lời thơ đã nói lên nỗi vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải gánh chịu. Duyên là duyên phận nhưng nó cũng là cái nợ mà bà Tú phải đeo mang. Duyên thì chỉ có một mà nợ lại những hai. Nhưng dù nợ nhiều hơn duyên thì sợi dây chắc nhất buộc chúng lại với nhau vẫn là một chữ tình. Nắng, mưa là cái vất vả, cực nhọc bất kể sớm trưa của bà Tú. Một, hơi, năm, mười là “những số từ, cứ tăng dân như để liệt kê cho hết, cho tròn những hi sinh thầm lặng của bà Tú. Ấy vậy mà bà vẫn âu đành phận, vẫn nào dám quản công. Lời thơ là tiếng thở dài của bà Tú, nhưng không phải thở dài buông xuôi mà đơn giản chỉ để khẳng định rằng: bà Tú ý thức được sự cực nhọc và công lao đối với chồng con nhưng bà vẫn muốn hi sinh mà không một lời oán thán, vì đó là duyên, là nợ của thân kiếp, của số mệnh. Nghệ thuật đối như gấp đôi lên lòng bao dung, vị tha đầy cao cả của bà.

Bài thơ kết thúc bằng một tiếng chửi. Đó le ra phải là tiếng chửi của bà Tú, nhưng bà Tú vốn thương chồng thương con thì sao nỡ chửi? Còn ông Tú thì không thể tha thứ cho chính mình – kế làm chồng, làm cha, mang cái danh trụ cột nhưng chỉ là cái danh hão, vô tích sự, sống ăn bám trên sự vất vả của vợ mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chẳng hờ hững cũng như không

Lời tự trách của Tú Xương sao mà chua xót! Rõ ràng, ông không thể làm ngơ trước thói “vô tích sự” của mình. Bà Tú thương ông không chửi nên ông đành mượn lời bà để chửi chính mình và chửi cái thói đời bạc bẽo. Mà ông Tú  chửi những ai?  Ông chửi mình, chửi đời. Ông phủ nhận vai trò làm chồng của mình (có … cũng như không), chửi một Tú Xương làm chồng mà chỉ gieo gánh nặng lên đôi vai vợ. Ông chửi cái thói quen ăn ở đối xử với nhau không có hậu, thiếu thuỷ chung, thiếu trách nhiệm của bao gã đàn ông thời phong kiến. Ông chửi cái xã hội thiếu công bằng, vô nhân đạo luôn bóp nghẹt quyển sống của người phụ nữ… Giọt nước mắt của tâm trạng phẫn uất, đau đớn khi trở thành gánh nặng cho gia đình, giọt nước mắt của người trí thức giàu nhân cách rơi xuống khi thấy cuộc đời đen bạc biến những nhà nho mạt vận, cuối mùa trở thành những kẻ vô công rồi nghề, giọt nước mắt rơi xuống để chứng minh rằng ông ăn ở bạc nhưng lòng ông không hề “bạc”. Thương vợ được Trần Tế Xương thổi hỗn bằng ngôn ngữ thơ bình dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày (lặn lội, eo sèo, thôn cò, tiếng chửi cha mẹ thói đời). Mỗi chữ cất lên lại là một cung bậc khác nhau của cảm xúc. Các chi tiết hàm súc, chắt lọc mà vẫn khái quát được toàn bộ, sâu sắc về. Cuộc đời, số phận của người phụ nữ Việt Nam xưa. Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương. Bài thơ có được sự tự nhiên trong giọng điệu, sự chân thành trong cảm xúc, không cầu kì gọt giũa, chỉ như một lời thủ thỉ tâm tình nên có sức truyền cảm vô cùng mạnh mẽ.

Nếu như với Thương vợ ta cảm phục đức hi sinh, sự tần tảo vì chồng vì con của bà Tú, đồng lòng với sự thấu hiểu, sẻ chia, tri ân Tú Xương dành cho vợ thì đọc Tự Tình (Hồ Xuân Hương), ta thật-sự cảm thông trước hoàn cảnh éo le, ngang trái, với lời than thân trách phận và khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Cũng là ngôn ngữ tự nhiên nhưng sắc sảo, giản dị mà đa nghĩa, cũng là những hình ảnh thơ tiêu biểu rất giàu sức gợi, nhưng vẻ đẹp của người phụ nữ ở đây không còn là sự hi sinh thầm lặng nữa mà là vẻ đẹp của sự nhận thức về thân phận và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.

Một mình ôm lấy tâm trạng cô đơn, sầu tủi, bẽ bàng, thì bất kể một cái gì – dù rất nhỏ thôi – cũng đủ khiến tâm hồn người phụ nữ nhạy cảm “tức cảnh sinh tình”. Nỗi buồn tủi cứ tự nhiên mà trào dâng mạnh mẽ:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Không có được cái vất vả quanh năm buôn bán của bà Tú, tuy cực nhọc nhưng đổi lại là sự biết ơn, trân trọng từ người chồng, người phụ nữ ở đây dường như quanh năm gắn với sự cô độc, lẻ loi. Đêm đã khuya, cái thanh vắng tĩnh mịch như phủ lên vạn vật và cũng ôm trùm lên cả tâm hồn con người. Đêm tĩnh lặng đến mức đủ để nghe tiếng trống canh dồn văng vẳng lại trống canh như sự dồn dập, hối thúc của thời gian. Thời gian sao trôi nhanh quá, tuổi xuân sao mất đi nhanh quá. Tiếng trống lang thang vô định trong không gian, tiếng gõ trống sao nghe như tiếng gõ vào chính cõi lòng xa xôi thốn thức, khiến tâm trạng cứ rối bời khi nhận ra rằng tuổi trẻ tàn phai. Bởi thế nên đêm cô đơn lại như dài bất tận. Và con người cũng đành:

Trơ cái hồng nhan với nước non

Từ trơ gợi lên sự trơ trọi, lẻ loi của cái hồng nhan. Hồng nhan – nhan sắc người phụ nữ – đẹp là thế, lại được gọi bằng cá: nên trở nên hèn mọn rẻ rúng. Sự đối lập giữa cái hồng nhan với nước non – không gian rộng lớn càng xoáy sâu vào sự nhỏ bé của thân phận con người. Tâm trạng chua chát, cay đắng, bẽ bàng của phận cô đơn, lẻ mọn cứ tự nhiên mà tuôn rơi đau đớn.

Đêm dài mà không thể chợp mắt được, người phụ nữ đã tìm cách để giải khuây nhưng càng muốn giải khuây lại càng rơi vào bi kịch của sự xót xa, cay đắng:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Khi không muốn mình minh mẫn để suy nghĩ, trăn trở về thân phận, người phụ nữ đã mượn rượu, mượn hơi men để rượu mang mình vào cõi vô thức. Vậy mà say lợi tỉnh, càng uống càng cay đắng nhận ra phận mình, càng uống càng thêm tủi hổ. Cái vòng luẩn quẩn không lối thoát trói chặt người phụ nữ bằng sợi dây đau đớn, say lại tỉnh, tỉnh rồi lại say. Thế nên ngắm trăng có lẽ là cách tốt hơn để tâm hồn khuây khoả. Thế nhưng không gian mênh mông quạnh vắng, lại thêm cái ánh sáng bàng bạc, lạnh lùng của vắng trăng như soi rõ tâm can người phụ nữ. Ngước mắt lên nhìn vầng trăng khuyết để giật mình nhận ra sao cái mảnh khuyết vàng vàng kia lại giống với mảnh thân phận của mình đến vậy! Cả câu thơ bảy chữ thì năm chữ đặc tả vầng trăng bóng xế – khuyết – chưa tròn. Những từ ngữ cùng một trường nghĩa mang tính chất tăng tiến cứ làm vắng trăng nhỏ dần, hao khuyết dân, như duyên phận dở dang, lỡ làng cứ mỗi lúc thêm nhỏ bé, tội nghiệp hơn. Số phận thật bất hạnh, tuổi xuân đi qua mà không chờ tình duyên cùng sóng bước. Tuổi tác càng cao thì nhân duyên càng nhỏ. Thật xót xa, cay đắng!

Như một hệ quả của sự đau đớn tột độ, người phụ nữ đã phẫn uất và phản kháng dữ dội. Trong xã hội nam quyền, người phụ nữ được giáo dục thái độ sống cam chịu, nhẫn nhục. Nhưng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương đã mạnh mẽ, không chấp nhận số phận mà bộc lộ rõ sự phẫn uất của mình:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

Rêu vốn là vật nhỏ bé, mềm yếu nhưng cũng có sức sống, sức vươn  dậy mạnh mẽ. Đứ vốn là vật vô tri nhưng cũng trỗi dậy phản kháng quyết liệt. Các cụm động từ mạnh đâm toạc, xiên ngang cực tả trạng thái tự giải thoát của thiên nhiên. Nhưng phải chăng tự rêu, đá – những sinh thể của thiên nhiên – mang nhiều tâm sự, nỗi niềm đến vậy? Hay đó chỉ là cách cụ thể hoá sự phẫn uất, tủi hờn từ sâu thẳm cõi lòng con người? Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, lấy cái hành động, tính chất đã đặc tả nỗi đau,  nhấn mạnh gấp trăm ngàn lần cõi lòng đang tan nát của người phụ nữ. Phép đối giữa hai câu thơ như góp thêm, nhân lên bội phần thái độ muốn xé trời đạp đất cho bõ tủi bố hờn. Người phụ nữ nhỏ bé là thế mà sao phải chịu đau khổ tột cùng và phải phán kháng mãnh liệt ngay trong lúc đau thương? Có thể hiểu rêu và đá là hình ảnh biểu trưng cho ý thức trong sâu thắm người phụ nữ còn mới đất, chân mây chính là những rào cản lớn lao ngăn cách giữa nỗi khát khao và con đường hạnh phúc. Một khi chúng được phá bỏ thì người phụ nữ sẽ được đặt chân lên chính con đường dành cho mình. Câu thơ như hé mở ra một nỗi niềm vui với duyên phận dở dang, lỡ làng của con người.

Trớ trêu thay, niềm vui vừa hé lộ thì cánh cửa thời gian, thân phận đã – ngay lập tức đóng sầm lại. Như một hạt mắm khoẻ mạnh chảy trong mình dòng máu khát khao yêu thương vừa nhú lên khỏi mặt đất khô cần đã gặp phải gió mưa, bão táp, nhân vật trữ tình đành trở lại đối diện với nỗi chán ngán, sự bế tắc, buông xuôi:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con.

Hỏi ai không chán ngán khi đấu tranh chỉ là vô vọng, càng mạnh mẽ lại càng dấn thân vào bùn lầy không lối thoát? Một tiếng thở dài đến não nuột cũng là chưa đủ để bộc lộ sự chán chường trước duyên phận mỏng manh như cánh hoa trôi theo dòng nước lũ. Hai từ xuân được đặt ca nhau vừa chỉ tuổi xuân, vừa chỉ quy luật vận động tuần hoàn của thời gian. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa xuân là mùa khởi đâu. Xuân đến tức là một năm mới đến. Năm mới đến tức là một năm cũ đã qua đi, con người lại qua đi một tuổi, lại về gần hơn với tuổi già và với người phụ nữ thì về gần hơn với sự tàn phai của nhan sắc. Thời gian là cùng nhưng đời người thì có hạn. Chỉ hai từ xuân thôi cũng đủ thấy sự tương phản giữa cuộc đời con người và thời gian. Sao cái quy luật của thời gian lại nghiệt ngã với hạnh phúc đời người đến vậy? Tuổi trẻ cứ qua nhanh như con thoi qua cửa còn hạnh phúc tìm mãi vẫn chẳng thấy đâu.Hai từ lại được đặt cạnh nhau vừa là sự trở lại vừa là sự mất đi. Sự trở lại của mùa xuân cũng chính là sự ra đi của tuổi xuân. Xuân của đất trời qua đi, sao lại kéo cá mùa xuân của lòng người theo mất, khi mà hạnh phúc chưa gõ cửa trái tim? Muốn tìm cách níu kéo nhưng không được, muốn thoát khỏi bi kịch cũng chẳng xong. Cái sự thật phũ phàng ấy từng từng phút như xát muối vào con tim rỉ máu, xót xa và đau đớn, tiếc nuối và tủi hờn. Một mối tình duyên ngang trái, một chuỗi thời gian vô tình một linh hồn kêu khóc xin được yêu thương, một xã hội thờ ơ đến tột độ..Còn gì xót xa hơn bỉ kịch này?

Và những lời cuối cùng vẫn là những lời xót đau:

Mảnh tình san sẻ tí con con

Đọc câu thơ lên mà sao nghe cái tình ấy cứ như nhỏ đi, nhẹ dần đi. Cái mảnh tình của người phụ nữ đã nhỏ bé, lại còn đem ra mà san sẻ thành tí, con con. Những từ ngữ cùng một trường nghĩa, lại được xếp đặt theo cấp độ tăng tiến đã cụ thể hoá cái tội nghiệp, nhỏ nhoi tột cùng. Một người có cá tính mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương mà cũng rơi vào sự bế tắc, buông xuôi thì liệu xã hội phong kiến sẽ còn tên tại biết bao nhiêu sự bế tắc, buông xuôi xót xa và đau đớn như thế?

Cùng khắc hoạ hình tượng người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, Trần Tế Xương và Hề Xuân Hương đã lựa chọn những hình ảnh hết sức đặc sắc, tiêu biểu, điển hình. Ở bà Tú là sự chịu thương chịu khó, đức hi sinh thầm lặng đáng ngợi ca còn ở người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương nỗi đau đớn cho tình duyên lỡ dở, khát vọng hạnh phúc không thành. Bà Tú còn có sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia từ ông Tú nhưng người phụ nữ trong Tự tình chỉ có một mình đối diện với chính mình, tự thương lấy chính mình. Cả hai bài thơ đều được viết theo thể Đường luật thất ngôn, lời thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ngôn ngữ lại hết sức bình dân, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ngôn từ chẳng cần trau chuốt cầu kì nhưng cũng đủ để xây dựng lên bức chân dung chân thực, sâu sắc về người phụ nữ trong xã hội cũ. Chính vì thế Tự tình ta tìm thấy dáng dấp của sự buồn tủi, đau thương, phẫn uất ẩn trong các từ ngữ sắc sảo, còn ở Thương vợ lại là những từ ngữ mang tính hàm ơn, trân trọng sâu sắc.

Cả Tự tình của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương đều là hai tác phẩm rất thành công khi viết về hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến cũ. Ai soi mình vào cũng thấy một phần nào đó của mình nơi những người phụ nữ ấy. Mỗi nhà thơ một đôi mắt, một cây bút nhưng đều để lại cho chúng ta những ấn tượng sâu đậm về ngôn từ và hình ảnh thơ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Ảnh Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Bài Tự Tình 2 Và Thương Vợ trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!