Bạn đang xem bài viết Hiến Văn Tái Xuất Bình Bài Thơ Tuyên Quang Của Phan Nguyễn được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tuyên Quang
Thị trấn ru về im lặng
lán lều xưa vẫn như xưa
con đường nhỏ mòn trong ký ức
lạc hồn sơn dương
thiu thiu buồn bông cỏ
sông Lô phảng phất một đời người
Tuyên Quang
căn nhà lá mười mấy năm thiêng
con đi rứt lòng sỏi đá
cơn mưa dột từ rừng cọ
mẹ thương con còm cõi nụ chè
Tuyên Quang
Sông Lô luôn là nguồn cảm hứng của các nhà thơ
ta tìm em
mùa trăng hoang dại
hoa đỏ cứa vào rừng
biền biệt yêu nhau ngày em khóc
bây giờ còn lại dòng sông
mênh mang bờ nắng chân đồi
Tuyên Quang, Tuyên Quang
xin người đừng mặc cảm
ta sinh từ cõi đá mộng du
hành hương ngược lòng gió núi
chiều nay về đốt củi làm thơ
Các nhà thơ, không mấy ai không viết về quê hương, chỉ là quê hương qua tâm thế họ hiện ra như thế nào thôi.
Thì đây, Tuyên Quang của Phan Nguyễn:
“Thị trấn ru về im lặng
lán lều xưa vẫn như xưa
con đường nhỏ mòn trong ký ức
lạc hồn sơn dương
thiu thiu buồn bông cỏ
sông Lô phảng phất một đời người”
Có đôi lần tôi nhận xét, không- thời gian trong thơ Phan Nguyễn có một nét riêng, nó tạo ra một nét thi pháp riêng cho thơ anh ấy.
Những “im lặng”, “như xưa”, “con đường nhỏ”, “ký ức”, “lạc hồn”, “thiu thiu buồn” đã tạo nên một con sông Lô riêng, rất riêng cho anh: “sông Lô phảng phất một đời người”. Đã tạo nên một không – thời gian “phảng phất” rất Phan Nguyễn. Nhưng chỉ “phảng phất” không thôi, là chưa đủ. Vì Không – thời gian ấy còn thiếu một vec-tơ.
“ta tìm em
mùa trăng hoang dại
hoa đỏ cứa vào rừng
biền biệt yêu nhau ngày em khóc”
Một lần nữa, tôi không thể không thán phục G. Bachelard. Ông ấy nói rằng, lửa là biểu tượng của tình yêu trong ngôn ngữ nghệ thuật. Chỉ có tình yêu mới “phá vỡ” cái không- thời gian “phảng phất” của Phan Nguyễn. Bông hoa đỏ ấy, rất đỏ ấy, mới đủ sức “cứa” vào (ẩn dụ) rừng! Và, cái động từ, cũng không kém phần đắt giá: “cứa”, cũng báo trước một “tai biến” của tình yêu.
bây giờ còn lại dòng sông”
Bây giờ, con sông Lô ấy lại càng trở nên rất riêng trong lòng ai. Nó không phải là dòng nước như qua bao con mắt vãng lai. Nó là dòng sông – nước – mắt đấy, cái thuở hoa đỏ hoa niên ơi!
Nhưng giờ chỉ còn là kỷ niệm. Nên, “ngọn lửa” như đã nhạt đi mấy phần, loang loang ký ức, chứ không “tụ” lại như một điểm trước vụ “bigbang” “hoa đỏ” thời xa: “mênh mang bờ nắng chân đồi”. Nhưng tôi muốn có thêm vài lời về một chữ đặc biệt “biền biệt”: “biền biệt yêu nhau ngày em khóc”. Để hiểu nghĩa của từ này, tốt nhất là ta không nên cố hiểu nghĩa của từ “nghiêng nghiêng” trong thơ Hoàng Cầm:
“Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”.
Lần cuối cùng, tôi nhắc lại, những chữ vô nghĩa trong thơ không hề “vô nghĩa” chút nào. Nó, theo cách diễn đạt của Hegel, nhiều khi được nhà thơ cấp cho một “phẩm giá” rất cao. Ở đây, chữ “biền biệt” là như vậy!
xin người đừng mặc cảm
ta sinh từ cõi đá mộng du
hành hương ngược lòng gió núi
chiều nay về đốt củi làm thơ”
Tuyên Quang đã được gọi lên rất nhiều lần trong bài thơ. Cảm giác của tôi là những tiếng gọi thầm, rất sâu trong nội cảm. Thế nó mới phù hợp trong thi pháp Phan Nguyễn. Đây này: “cõi đá mộng du”, “lòng gió núi”. Chỉ ở những “xung đột”, anh mới đưa những từ “lạ”, như trong bài này: “rứt”, “đỏ cứa”. Chúng không hề phá vỡ phong cách chung của ngôn ngữ thơ anh, mà chính là tôn cái phong cách Phan Nguyễn lên.
Có một độc giả hỏi: “xin người đừng mặc cảm” là sao? Là không sao cả. Một phức cảm của nhân vật trữ tình, qua phong trần cát bụi trở về, nói với quê hương hoặc với chính mình.
Bởi chuyến “hành hương ngược lòng gió núi” là rất sâu. Chúng ta hay “ngược gió” hoặc “cuốn theo chiều gió”, tôi chưa gặp hình ảnh ai đi ngược “lòng gió núi”!
Thế nên, hãy ngồi xuống, bên đống lửa anh vừa đốt, làm thơ, uống rượu. Và có thể không nói gì. Trong ánh lửa của tình yêu quê hương ấy, lấp lánh lên muôn vàn ký ức.
Bình Giảng Bài Thơ Tây Tiến Của Nhà Thơ Quang Dũng
Đề bài: Bình giảng bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Nhắc đến hình tượng người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp không ai không nhớ đến Tây Tiến của Quang Dũng. Với tạo hình vừa chân thực vừa lãng mạn, diễn tả đặc sắc điều kiện thiếu thốn của cuốc đấu tranh và cảnh vật thiên nhiên nơi miền Tây hoang sơ kì vĩ, “Tây Tiến” đã trở thành tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này và còn giá trị đến mãi ngày nay.
Bước vào bài thơ là sự nhớ thương, nỗi vất vả của người lính. Cái hay của tác giả đó chính là mượn hình ảnh “Sông Mã” để diễn tả nỗi nhớ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Từ láy “chơi vơi” vừa tạo âm hưởng cho câu thơ, vừa tạo sự ám ảnh vang vọng trong lòng người đọc. Nhà thơ đã tạo ngay được ấn tượng đối với người đọc. Chặng đường hành quân đầy gian khổ được tác giả gắn liền với các địa danh, những vùng đất xa xôi hẻo lánh, sự hoanh sơ bí hiểm của rừng thiêng nước độc. Nhưng vượt lên trên cuộc hành quân khó khăn gian khổ ấy vẫn là tư thế người chiến sĩ mang quyết tâm cao. Một hình ảnh đẹp về người lính được viết thêm: “súng ngửi trời”. Tiếp xúc với hình ảnh nhân hóa mới này ta liên tưởng đến Chính Hữu với “đầu súng trăng treo”.
Bình giảng bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Cái độc đáo của bài thơ này còn thể hiện ở cái nhìn của Quang Dũng. Ông dám nhìn thẳng vào sự thật mà không né tránh, đó là sự hi sinh trên chiến trường. Trong bài thơ cũng rất nhiều lần, tác giả nói về vấn đề này. Nhưng ông không lấy đó để làm nhụt chí chiến đấu của chiến sĩ đồng bào ta mà lấy đó để khẳng định lòng quyết tử chi Tổ quốc quyết sinh của họ. Từ “gục lên súng mũ bỏ quên đời” đến “rải rác biên cương mồ viễn xứ” hay “áo bào thay chiếu anh về đất”. Tất cả chỉ nhằm chỉ thẳng vào hiện thực đó là cái chết luôn cận kề. Nhưng cái chết ấy không làm cho chiến sĩ của ta run sợ, họ vẫn “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Không những thế họ còn lạc quan, yêu đời, hào hoa. Trong điệu múa tiếng khèn cùng với các cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, nguồ lính vẫn vui hết mình, vẫn rung động trước những vẻ đẹp mà thiên nhiên, tạo hóa đã ban tặng. Họ vẫn rung động trước vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng của núi rừng, sông nước miền Tây.
Lòng quyết tâm của người lính Tây Tiến cũng là điểm mấu chốt của tác phẩm. Trước muôn vàn khó khăn thiếu thốn, trong cả bệnh tật lẫn cái chết liền kề, người lính vẫn toát lên vẻ oai hùng, quyết tâm của họ. Họ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho quê hương đất nước. Họ dám chết và coi thường cái chết. Với lời hẹn ước: “Tây Tiến người đi không hẹn ước” sẽ không có ngày trở lại nếu sự nghiệp không thành một lần nữa khẳng định lại quyết tâm cao độ của người lính.
Tây Tiến giờ đã xa cả về không gian và thời gian, nhưng nhà thơ, hồn thơ ấy vẫn vương vẫn mảnh đất Tây Tiến vào xuân. “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy – Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Khép lại bài thơ, “Tây Tiến” vẫn đọng lại trong lòng nhiều ấn tượng, nhiều cảm xúc. Không chỉ đơn thuần là miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, thiên nhiên cảnh vật nơi đây mà tác phẩm còn đong đầy cảm xúc của tác giả. Một nỗi nhớ về đồng đội, về thiên nhiên con người, nỗi nhớ ấy cứ “chơi vơi” lửng lơ tring lòng cũng khiến người đọc dư âm vang vọng mãi.
Kim Oanh
Bình Giảng Bài Thơ Mưa Xuân Của Nguyễn Bính
1 Bình giảng bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính Author : Hà Anh Đề bài: Bình giảng bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính Bài làm Thơ Nguyễn Bính viết nhiều về mùa xuân. Cuộc sống ở làng quê không gì vui bằng ngày xuân. Xuân là mùa hồi sinh của đất trời. Cây cối nẩy lộc, đâm chồi sau những ngày đông giá lạnh, xơ xác, tiêu điều. Mùa xuân ấm áp cũng là mùa của lễ hội. Nhiều bài thơ hay trong Thơ mới được khơi nguồn từ cảm hứng xuân. Đoàn Văn Cừ với “Đám cưới mùa xuân” đã miêu tả không khí hội xuân và thiên nhiên cũng chia sẻ niềm vui với con người: “Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân Ca ánh ỏi trên cành xuân tắm nắng” Anh Thơ trong Chiều Xuân cũng gợi được không khí xuân qua những hình ảnh thanh bình của làng quê, dòng sông, con đò, mưa bụi trên bến vắng… “Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” đã thâu tóm được sự sống và vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân. “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”. Ở thơ Hàn Mặc Tử còn có một “Xuân như ý” và “Xuân đầu tiên” với cảm hứng mới lạ, tinh khôi về một đất trời xa lạ nhưng cũng không thể đẹp bằng mùa xuân giữa cuộc đời: “Mùa xuân chín”. Một số nhà thơ lại cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và cuộc đời không qua những hình ảnh cụ thể mà ở sức xuân, hơi xuân như trường hợp Huy Cận: Tài liệu chia sẻ tại
2 “Xuân gội tràn đầy Giữa lòng hoan lạc Trên mình hoa cây… Nắng vàng lạt lạt Ngày đi chầy chầy Mái rừng gió hầy Chiêu xuân đầy lời” ( Chiều xuân) Nguyễn Bính viết nhiều về mùa xuân, về những cảnh xuân chân thực của làng quê: “Mưa xuân”, “Xuân về”, ”Xuân tha hương”, “Rượu xuân”, “Nhạc xuân”, “Thơ xuân”, “Mùa xuân xanh”. Mùa xuân quả là có duyên thơ với Nguyễn Bính. Những bức tranh của đồng quê và làng quê thật trong sáng, tươi vui khi xuân về. Thiên nhiên như hồi sinh, cỏ cây xanh tươi, con người lấy lại sức lực…: “Đã thấy xuân về với gió đông Với trên màu má gái chưa chồng Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong”. (Xuân về) Ở khổ thơ trên, Nguyễn Bính chưa trực tiếp tả cảnh vật mùa xuân. Chỉ với một tín hiệu nhỏ, khi ngọn gió đông về đã thấy hơi xuân ấm áp. Cô gái làng quê là người nhạy cảm nhất với những dấu hiệu giao mùa. Cặp mắt trong ngước nhìn trời, và đôi má ửng hồng của cô gái là những dấu hiệu phản quang chính xác của mùa xuân. Nguyễn Bính trong hài “Xuân về” đã miêu tả thật đẹp làng quê trong khung cảnh mùa xuân với “trời quang nắng mới hoe” và đồng quê Lúa thì con gái mượt như nhung. Và đặc biệt là phong tục và văn hóa của làng quê trong ngày xuân, các cô gái “yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa” và những cụ già “Tay lần tràng hạt miệng nam mô” nói lên nếp sống gần gũi từ lâu đời. “Mưu xuân” lại giới thiệu một khung cảnh đặc biệt của mùa xuân. Mưa xuân, đêm hội chèo, sự hò hẹn của đôi lứa và những nỗi niệm vui buồn của cô gái quê. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính giới thiệu khung cảnh một gia đình sống nền nếp với nghề canh cửi, có mẹ già và cô giá tuổi hoa niên. Cô gái như đỡ lời tác giả và tự nói về mình: Tài liệu chia sẻ tại “Em là con gái trong khung cửi
3 Dệt lụa quanh năm với mẹ già Lòng trẻ còn như cây lụa trắng Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Dịu dàng, ngây thơ và trong trắng. Khuôn khổ của đời sống gia đình và công việc lao động cần mẫn quanh năm tưởng như tách biệt cuộc sống của người con gái với thế giới bên ngoài. Hình ảnh thơ gợi nhớ đến câu ca “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ở đây hình ảnh cây lụa trắng gợi lên một cái trinh trắng của cô gái ít giao lưu tiếp xúc. Có lẽ còn lâu lắm cô gái mới nghĩ đến chuyện gia đình. Nguyễn Bính đã đưa khung cảnh thiên nhiên của một đêm xuân để gợi mở cho câu chuyện: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Chỉ có hai câu thơ mà xốn xang và gợi không khí quá. Những cụm từ “phơi phới bay “lớp lớp rụng vơi đầy” vừa diễn tả đúng trạng thái của hiện tượng lại mang màu sắc thẩm mĩ riêng biệt. Bình thường là những giọt mưa rơi, nhưng với “Mưa xuân” Nguyễn Bính viết mưa bay là đúng và phơi phới bay” lại rất gợi tả. Hoa xoan quen thuộc ở vùng quê không khoe hương, khoe sắc. Nhưng hình ảnh gợi cảm nhất của những chùm hoa xoan là khi tàn rụng, những cánh hoa nhỏ bay lớp lớp phủ trên đường. Anh Thơ đã rất có lí và nghệ thuật khi viết “Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời!”. Cùng với hiện tượng đó, Nguyễn Bính rất sáng tạo khi viết “Haa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Tô Hoài đã nhắc đến hai câu thơ trên của Nguyễn Bính với lời khen trân trọng: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. “Tầm vóc, thật tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính!” Thiên nhiên nhiều màu vẻ ấy đã làm mất đi không khí và cảm xúc bình lặng, nhất là gánh chèo làng Đặng đi qua ngõ càng gợi lên không khí vui chơi hội hè của làng quê. Cô gái nết na và kín đáo không còn giữ được sự bình thản. Có thể giấu được mẹ già và người xung quanh nhưng không thể tự giấu được mình. Dường như có một cô gái khác tình tứ hơn đã nhập vào mình: Lòng thấy giăng tơ một mối tình Em ngừng thoi lại giữa tay xinh Hình như hai má em bừng đỏ Có lẽ là em nghĩ đến mình”. Tài liệu Nguyễn chia Bính sẻ tại đã diễn tả tình yêu của cô gái quê thật nhẹ nhàng tinh tế; khởi đầu là những rung cảm thật nhẹ như tơ vương, gợi chút xao xuyến trong lòng. Những rung động lớn dần, con thoi cần
4 mẫn của khung cửi không đi về được theo nhịp bình thường khi trái tim cô gái đã có những nhịp đập khác thường Dấu hiệu ngừng công việc của cô gái đang độ tuổi yêu đương để theo đuổi hết ý nghĩ của lòng mình đã được nhắc đến trong thơ xưa. Sư Huyền Quang trong bài “Xuân nhật tức sự” đã miêu tả cảm xúc của cô gái đẹp tuổi đôi tám với cảnh sắc mùa xuân, cô gái đã dừng mũi kim thêu để cảm nhận cho hết xuân ý, xuân tình: “Người con gái đẹp tuổi đôi tám chầm chậm thêu Dưới bóng hoa tử kinh, chim hoàng li nhảy nhót Đáng kêu là cái ý thương xuân vô hạn Đọng lại tất cả ở lúc dừng kim không nói năng”. Sự việc vẫn được tiếp nối và phát triển. Hình bóng người con trai đến đây đã xuất hiện trong ý nghĩ của cô gái mà cô như cảm thấy có chút ngượng ngùng. Không soi gương mà biết má mình bừng đỏ. Đó là trạng thái tự nhận biết của các cô gái trẻ đang yêu đương. Khổ thơ với những từ ngữ gợi không khí như xưa: “giăng tơ”, “thoi xinh” nhưng lại rất mới mẻ với trạng thái diễn tả không xác định qua các từ “có lẽ”, hình như chấp nhận một tình cảm thực của lòng mình trong yêu đương cũng e ấp, ngượng ngùng. Phải chăng đó là đặc điểm của các cô gái còn ngây thơ, trong trắng? Nhưng rồi người đọc cũng khó đoán định được diễn biến của tâm tình và sự việc. “Mưa xuân” cũng như nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính thường có yếu tố của cốt truyện. Từ tâm tình đã chuyển dần sang hành động. Cô gái nghĩ đến chàng trai và những lời hò hẹn. Trời đã tối, hàng xóm đã lên đèn, mưa xuân vẫn bay và bao phủ bầu trời đêm. Nguyễn Bính đã miêu tả những chi tiết nghệ thuật gợi cảm. Cô gái như có chút đắn đo, ngập ngừng trước trời mưa lạnh, nhưng ý nghĩ ấy nhanh chóng bị lướt qua khi nghĩ đến sự có mặt của chàng trai trong đêm hội: “Em ngửa bàn tay trước mái hiên Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh Thế nào anh ấy chẳng sang xem!” Tình yêu như có sức mạnh kì diệu đã tiếp sức cho cô gái đang tuổi yêu đương. Thật khó hình dung những đổi thay của cô gái quê, lúc đầu còn e ấp, ngượng ngùng và sau đó đã trở nên mạnh dạn, kiên quyết hơn. Dường như không có gì cản trở được tình yêu. “Mưa bụi nên em không ướt áo – Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Cô gái xin phép mẹ và vội vàng đi. Những chi tiết trên gợi nhớ đến một nàng Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” và khi gặp người yêu Thuý Kiều giãi bày những ý nghĩ chân thực, đáng trọng, đáng yêu và cũng gợi bao thương cảm: Tài liệu “Nàng chia rằng: sẻ tại “Quãng vắng đêm trường,
5 Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. Bây giờ rõ một đôi ta, Biết đâu rồi nữa chăng là chiêm bao?”. Nhưng dù sao nàng Kiều cồn được bù đắp, còn gặp gỡ được người yêu để tâm tình. Hình ảnh cô gái trẻ mải miết tìm người yêu trong đêm hội, không thiết đến chuyện xem hát cũng nói lên mãnh lực của tình yêu và gợi biết bao thương cảm ở người đọc. Không còn là chuyện lầm lẫn trong hẹn hò. Nguyễn Bính đã đẩy tứ thứ vận động và phát triển đến cao điểm của những tương phản mang tính bi kịch: niềm tin yêu mong đợi của tuổi trẻ mạnh dạn dân thân và sự bất ngờ đến đau đớn của cảnh ngộ, tình yêu tin cậy chung thuỷ và sự bội bạc phũ phàng, khung cảnh hội hè vui vẻ và cảnh cô đơn, tủi phận của riêng ai: “Chờ mãi anh sang anh chẳng sang Thế mà hôm nọ hát bên làng Năm tao bày tuyết anh hò hẹn Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Trong ý thơ có lời trách cứ, giận hờn. Chính ở phút giây đáng giận, đáng căm ghét này, cô gái vẫn tỏ ra hiền dịu và chỉ biết trách cứ chàng trai. “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn” nhưng đã sớm quên lời hẹn ước. Từ đây tứ thơ và cảm xúc thơ mang nặng tủi buồn. Nếu ở những khổ thơ đầu nhân vật trữ tình còn mong đợi, còn náo nức, còn hăng hái thì đến đây tất cả như đảo ngược. Thời gian trôi qua chưa lâu và cũng vẫn là đêm xuân ấy nhưng sự cảm nhận của người trong cuộc về thời gian đã hoàn toàn khác biệt: “Để ả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Sự lỡ hẹn trong tình yêu đôi lứa có thể dẫn tới sự nhỡ nhàng. Tác giả không nổi hẳn vào cảnh ngộ của nhân vật mà chọn một cách nói tinh tế và giàu tính nghệ thuật hơn. Từ đây, mùa xuân với đơn vị thời gian vốn có đã được tác giả sử dụng với nhiều dụng ý nghệ thuật. Con đường trở về với cô gái chắc chắn là con đường Xa. Nếu trước đây “Thôn Đoài cách có một thôi đê” thì bây giờ là “có ngắn gì đâu một dải đê. Nếu trước đây mưa xuân còn nhẹ hạt “Mưa bụi nên em không ướt áo” thì bây giờ “Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt”. Và nỗi tủi thân của cô gái canh khuya lặn lội đường trường. Nguyễn Bính đã thật sự cảm thương nhân vật qua những dòng thơ. Tác giả cũng không thể an ủi được gì hơn và cũng muốn để cho nhân vật được lặng lẽ với tâm trạng riêng của mình: “Mình em lầm lụi trên đường về Có ngắn gì đâu một dải đê! Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt Tài liệu chia sẻ tại Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”.
6 Powered by TCPDF ( Không có một âm thanh nào của cuộc sống và thiên nhiên tạo vật. Không có một hình ảnh nào lấp lánh mở ra một tia hi vọng. Chỉ có nỗi buồn của nhân vật và sự cảm thương ở người đọc. Tứ thơ đã dần khép lại với những hình ảnh da diết gợi cảm. “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay”, câu thơ gợi không khí và xôn xao ấy không còn nữa, ý thơ khép lại mưa xuân với những hình ảnh nặng nề và tủi buồn: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay Hoa xoan đã nát dưới chân giày Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.” Nguyễn Bính đã tỏ ra hăng hái trong nghề khi vận dụng lại hàng loại những ý thơ và hình ảnh thơ ban đầu với những sắc thái mới tương phản, đối lập. Mưa xuân không “phơi phới” mà đã “ngại bay”, hoa xoan bị chà đạp trên lối đi về. Cảnh tượng ấy phải chăng cũng phù hợp với cảnh ngộ của con người? “Mùa xuân đã cạn ngày”, câu nói của người mẹ như khép lại. Nếu còn chăng chính là nỗi buồn của người con gái, một nỗi buồn phẳi âm thầm chịu đựng. Tuổi trẻ tin cậy vẫn chưa mất hẳn niềm hi vọng. Một câu hỏi không thể tìm được lời đáp “Bao giờ em mới gặp anh đây?”. Những cô gái làng quê trong trắng, chung tình trong thơ Nguyễn Bính vẫn chờ đợi. Mùa xuân qua, lại chờ đợi một mùa xuân tới. Cô lái đò chờ đợi đến ba xuân mà vẫn vô vọng. Người con gái trong “Mưa xuân” liệu có đi lại con đường ấy. Mùa xuân của đất trời hàng năm lại trở lại. Mưa xuân lại phơi phới bay, nhưng mùa xuân của cuộc đời thì chỉ đến có một lần. Bài thơ “Mưa xuân” đã ghi lại cả hai mùa xuân ấy và gợi lên bao ngậm ngùi xót xa về số phận và hạnh phúc của tuổi trẻ trong cuộc đời cũ những tháng năm qua. Tài liệu chia sẻ tại
Bình Giảng 14 Câu Thơ Mở Đầu Bài Thơ “Tây Tiến” Của Quang Dũng
Bình giảng 14 câu thơ mở đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
(“Bài thơ ấy” – Giang Nam)
Không gian xa, thời gian xa, một thời Tây Tiến đã xa, rất xa… lại như đang về thật gần trong một miền quá khứ hoài niệm không chịu ngủ yên, vụt dậy trong tâm tưởng người thi sĩ – chiến sĩ Quang Dũng. Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh – cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy hiền hòa, thơ mộng – bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong nỗi nhớ khôn nguôi về những tháng năm gắn bó đầy gian lao mà rất đỗi hào hùng với đoàn quân Tây Tiên. Nhìn bao quát, bài thơ là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây Bắc ở một thời gian khổ, oai hùng. Tất cả đều được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, giàu tình yêu quê hương đất nước và một bút pháp tài hoa, độc đáo. “Nhớ Tây Tiến”, nhớ những con đường hành quân gian khổ, nhớ những hình ảnh thân thương, sâu lắng của những người lính Tây Tiến đã từng bên nhau, có nhau một thời:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
(…)
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của đơn vị này. Khoảng cuối mùa xuân 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị quân đội thành lập vào đầu 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng lào từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về qua phía Tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nnhau, trong đó cói cả những học sinh – sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người chiến sĩ Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ, họ vẫn giữ được cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó từ đầu 1947 đến cuối 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Bồi hồi nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng viết bài thơ này. Bài thơ ban đầu có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi là “Tây Tiến” (được in trong tập “Mây đầu ô”, xuất bản năm 1986).
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơi là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ vốn là trạng thái đơn thuần của đời sống tình cảm con người, đã có biết bao nỗi nhớ được khắc họa trong thơ ca? Tây Tiến đã xa rồi, đã cuộn tròn lại thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy cũng dạt dào như thơ lãng mạn thời kỳ 1930 – 1945:
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Xuân Diệu)
Và trong ca dao cũng đã từng có một nỗi nhớ “chơi vơi” như thế:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
Có điều, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ người yêu, còn ở đây là nỗi nhớ những kỉ niệm kháng chiến. Với Quang Dũng, đó là một nỗi nhớ rất khó định hình, rất khó gọi tên. Nỗi nhớ ấy bắt đầu từ dòng sông Mã – con sông chảy qua Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa – và cái âm điệu trầm buồn, nhớ nhung tha thiết được tạo ra bởi các từ: “ơi”, “chơi vơi”. Từ “nhớ” được lặp lại hai lần như khắc sâu tâm trạng, nỗi nhớ đồng đội lan tỏa, thấm đượm, nồng nàn trên cả câu thơ, khổ thơ để rồi xuyên suốt bài thơ. Nỗi nhớ triền miên với bao kỉ niệm chồng chất, ào ạt xô tới ” nhớ về rừng núi”, nhớ một con đường ngược lên thăm thẳm, một không gian chơi vơi nơi miền đất địa đầu Tổ quốc. Nơi ấy không chỉ có trái tim Quang Dũng đã để lại một phần nhớ thương những tháng ngày đồng đội đã qua và nơi ấy, Chế Lan Viên cũng đã từng thiết tha, bâng khuâng với nỗi nhớ ngập tràn trong dòng hồi ức:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
(Tiếng hát con tàu)
Có lẽ, khi tâm hồn nhà thơ đã lắng lọc cảm xúc từ cuộc đời, biết bao kỉ niệm xôn xao lại hiển hiện trong lòng, từ nỗi nhớ mang đầy chất triết lý suy tưởng của thi nhân Chế Lan Viên để người đọc hiểu thêm về nỗi nhớ “chơi vơi” của nhà thơ Quang Dũng. Đó là một nỗi nhớ vô hình, vô lượng nhưng hình như rất nặng, rất mênh mang và đầy ắp. Nỗi nhớ ấy vang lên thành âm thanh “xa rồi Tây Tiến ơi!” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc, tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết quá. Ta nghe như cói tiếng vọng đáp lại vào vách núi. Âm thanh của dòng sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ Thượng Lào về đất Việt, nơi ấy là rừng, là núi điệp trùng, là những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã “xa rồi” thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy trong một trạng thái thật diệu vơi, như một thoáng buồn xa xôi. Có lẽ, hồn thơ của Quang Dũng đã thăng hoa cùng với dòng cảm xúc và nhà thơ đã đạt được cái tài, cái tình trong câu thơ tuyệt bút “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra, lan tỏa như một chuỗi kỉ niệm, giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao lòng người:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳ
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội, hoang vu và heo hút hiện lên như một bức tranh hoành tráng, khổ thơ này là một bằng chứng của “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Chỉ bằng sáu câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh với hình ảnh những miền đất lạ cùng những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… vừa làm tăng cái án tượng xa lạ, hoang sơ, vừa diễn tả một địa bàn hoạt động rộng lớn của đoàn quân Tây Tiến. Hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa “Sài Khao sương lấp” đập mạnh vào ấn tượng. Sự chân thực, sinh động của hình ảnh thơi khiến người đọc như hình dung thấy được tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong những tháng ngày phải đương đầu với khó khăn, thiếu thốn. Chân thực nhưng cũng rất lãng mạn khi hành ảnh “đoàn quân mỏi” lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp, huyền ảo của thiên nhiên. Những từ ngữ “sương lấp”, “hoa về”, đêm hơi”… khiến cho toàn bộ cảnh thơ chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Các từ lấp láy “khúc khủyu”, thăm thẳm” đã góp phần làm tượng hình lên hình ảnh núi rừng Tây Bắc gập ghềnh, hiêm trở. Người đọc như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người chiến sĩ qua những câu thơ với rất nhiều vần trắc. Cách sử dụng từ ngữ rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người chiến sĩ như đi trên mây, mũi súng chạm đến đỉnh trời… Quang Dũng đã khắc họa được tư thế hiên ngang giữa bầu trời quê hương. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một thi cảnh thật đẹp, táo bạo, vừa hóm hỉnh, tinh nghịch, mang đậm chất lính, khiến người chiến sĩ Tây Tiến trước thiên nhiên khắc nghiệt không bị chìm đi mà lại nổi lên đây thách thức, gợi nhớ hình ảnh rất đẹp của người Vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi, vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
(Lên Tây Bắc)
Người đọc như thấy hiện lên một lộ trình đầy gian lao, vất vả của đoàn binh Tây Tiến: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, câu thơ như bẻ đôi, diễn tả cái dốc vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Sau một câu thơ gân guốc là một câu thơ toàn thanh bằng diễn tả cái nhìn ngang: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Có thể hình dung cảnh những người chiến sĩ tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi, thấy thấp thoáng ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Những câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng hết sức đặc biệt. Sau những câu thơ được vẽ bằng những nét vẽ gân guốc thì câu thơ cuối đoạn được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại. Quy luật này cũng giống với cách sử dụng những gam màu trong hội họa, giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Sự trùng điệp của núi đèo Tây Bắc trong bài thơ “Tây Tiến” làm cho người đọc nhớ gợi nhớ đến mấy câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”:
“Hình khe thế núi xa gần,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”.
Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài bài “Thục đạo nan” của Lý Bạch:
“Thục đạo chi nan
Nan ư thướng thanh thiên”
(Đường xứ Thục khó đi,
Khó hơn cả lên trời xanh).
Và như thế, sự hiểm nguy của thế núi đèo Tây Bắc được nhân mãi lên qua trùng trùng liên tưởng.
Chiến trường trong bài thơ gian khổ, khắc nghiệt nhưng đồng thời cũng là thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, ấm áp, mềm mại, có lúc thật hiền hòa thơ mộng. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc có núi cao, vực sâu, dốc đứng, thác gầm, cồn mây heo hút. Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều thời gian, mà còn được khám phá ở chiều không gian luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Hình ảnh môt miền rừng núi âm u với “thác gầm”, với khung cảnh “oai linh” của “rừng thiêng nước độc” làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Phải chăng miền Tây Bắc ngày ấy là nơi ngự trị của những vẻ âm u, hoang dã, là những thử thách ghê gớm đặt ra chio con người?
Nhưng nói đến cái hùng vĩ khắc nghiệt của núi rừng cũng là để làm nổi bật sự hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. Nhà thơ không che giấu những gian hi hi sinh, chỉ có điều, những khó khăn, những mất mát hi sinh ấy được thể hiện bằng một bút pháp lãng mạn:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Qua cách nhìn của nhà thơ, cái bi đã trở thành bi tráng đem đến cho hình ảnh người chiến sĩ một vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ. Bao gian khổ, khó khăn, khắc nghiệt, dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người chiến sĩ đã vượt qua được và cũng không ít người đã nằm lại phía sau. Đó là hiện thực. Tuy nhiên, người chiến sĩ dãi đầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này này đến gian khổ khác mà dường như vẫn chẳng nề hà. Chỉ một khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng gục xuống trong tư thế người chiến sĩ. Quang Dũng đã nói thật về sự gian khổ, hi sinh của người lính một thời đã qua. Nhưng hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến không vì thế mà trở nên ủy mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Nói đến gian khổ là đề cao chiến thắng, nói sự hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại. Bởi chiến thắng sẽ có giá trị gì khi chiến thắng quá ư dễ dàng mà không có hi sinh, mất mát? Và hình ảnh người chiến sĩ sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu vô cùng khắc nghiệt. Ở đây, gian khổ đã tưởng như đã vượt lên giới hạn chịu đựng của con người. Người chiến sĩ ấy đã gục xuống khi chân không còn bước được nữa, gục xuống ngay trên đường đi, trong tư thế của người đang hành quân ngay trên quân trang của mình. Cái chết của những chàng trai trẻ được miêu tả không phải là ngã xuống mà là “bỏ quên đời” – một cái chết nhẹ tựa lông hồng, đúng với không khí của thời đại “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mỗi cuộc ra đi ngày ấy đều không hẹn ngày về: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi, nào có sá chi đâu ngày trở về…”. Mỗi người lên đường lúc ấy đều mang trong mình hình ảnh và tâm trạng Kinh Kha: “Tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn”. Người chiến sĩ ra đi, sẵn sàng “vì nước quên thân”. Lý tưởng sống ấy của người chiến sĩ Việt Nam nói chung và Tây Tiến nói riêng cứ sáng lên rạng rỡ trong không gian, trong thời gian và trong tâm hồn người, rạng rỡ mà bất diệt.
Bên cạnh hiểm trở dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt, đa thanh rất đỗi tài hoa trong bút pháp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ ấm áp, dịu ngọt, mở ra một cảnh tượng thơ mộng thấm đẫm tình người, gắn liền với những kỉ niệm của người chiến sĩ Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ. Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu vất vả băng rừng vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người chiến sĩ tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những mâm cơm đang bốc khói. Khói cơm và hương lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mỏi mệt trên gương mặt những người chiến sĩ khiến họ tươi tỉnh. Một thoáng thanh bình dọc đường hành quân đã trở thành những kỷ niệm ngọt ngào, nó như một ốc đảo xanh tươi làm dịu lòng kẻ lữ hành qua sa mạc. Đó là nguồn động viên, tiếp sức cho người chiến sĩ vượt qua những năm tháng chiến đấu gian khổ trong đời mình. Hai chữ “mùa em” là một sáng tạo ngôn từ đột xuất, thật bao la, thật đa tình và thật… Quang Dũng. “Mùa em” là gì? Không rõ lắm, chỉ biết nó là sự hòa hợp giữa cảnh và người Tây Bắc, tạo nên một sự say đắm lòng người đến bâng khuâng. Cái hay của câu thơ là ở đấy, nó chông chênh giữa ranh giới của cái nắm bắt được và cái không thể nào tìm hiểu đến ngọn ngành. Những người chiến sỹ từ giã mái trường, góc phố thân thương lên đường chiến đấu, nung nấu trong lòng ý chí quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu. Tổ quốc cần có anh cho mỗi ngôi nhà đều ấm lửa yên vui, cho mỗi lũy tre đều xanh mãi màu xanh thanh bình và hy vọng… Trên vạn nẻo đường hành trình gian khổ vẫn ấm mãi trong trái tim người chiến sĩ là hương vị “thơm nếp xôi”, một hương vị đậm đà bản sắc quê hương:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Minh Nguyệt
Cập nhật thông tin chi tiết về Hiến Văn Tái Xuất Bình Bài Thơ Tuyên Quang Của Phan Nguyễn trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!