Xu Hướng 6/2023 # Hệ Thống Câu Hỏi Ôn Tập Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật # Top 14 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Hệ Thống Câu Hỏi Ôn Tập Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Hệ Thống Câu Hỏi Ôn Tập Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình tượng người lính đi vào cuộc chiến đấu đã có bước phát triển vượt bậc về đời sống cơ sở vật chất và tinh thần so với đời sống của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ gặp muôn vàn những khó khăn khác nhau: bom giặc đã hủy diệt sự sống, phá hủy những chiếc xe – phương tiện vận tải của họ, biến những chiếc xe trở nên kì dị: không kính, không đèn, thùng xe xướt xát. Song bất chất hiểm nguy, xe và người vẫn ung dung, hiên ngang ngày đêm lao ra chiến trường đánh Mĩ. Ở họ luôn phơi phới một tinh thần lạc quan cách mạng, trẻ trung, yêu đời, dũng cảm, kiên định rất phù hợp với chất lính lái xe Trường Sơn.

Câu 1. Hãy giới thiệu những nét chính về tác giả Phạm Tiến Duật và Bài thơ tiểu đội xe không kính.

– Tác giả: Phạm Tiến Duật (1941 – 2007), quê Thanh Ba – Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khao Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1964). Phạm Tiến Duật gia nhập vào quân đội là phóng viên mặt trận, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

Thơ Phạm Tiến Duật tập trung vào đề tài hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

– Tác phẩm chính: Vầng trăng – quầng lửa (thơ, 1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (1981), Vầng trăng và những quầng lửa (1983), Nhóm lửa (1996),…

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ về tiểu đội xe không kính viết năm 1969, thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970, được in trong tập thơ Vầng trăng – quầng lửa. Bài thơ khắc họa nét độc đáo hình tượng những chiếc xe không kính và hìn tượng người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ; hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, chiến đấu giải phóng miền Nam ruột thịt.

Câu 2. Nhan đề Bài thơ về tiểu đội xe không kính gợi cho em suy nghĩ gì?

Nhan đề bài thơ gây ấn tượng độc đáo và gợi suy ngẫm cho người đọc:

– Nhan đề mang đề tài của bài thơ: Tiểu đội xe không kính. Tiểu đội là đơn vị cơ sở nhỏ nhất trpng biên chế của quân đội ta. Tiểu đội xe có ý nghĩa trong lịch sử chiến tranh chống Mĩ từ năm 1965 – 1968, đội hình xe chủ yếu là tiểu đội do tình hình đường xá, cầu cống, hệ thống pháo cao xạ bảo vệ… chưa cho phép chạy xe với đội hình đông hơn. Sau này, chiến dịch phát triển, từ tiểu đội lên đại đội, tiểu đoàn, sư đoàn xe với hàng trăm chiếc, nên tiểu đội xe không kính trong bài thơ mang ý nghĩa khốc liệt của chiến tranh. Một cái tên trần trụi, không mĩ miều, hàm súc như bao nhan đề bài thơ khác, đối lập với quan niệm cái đẹp văn chương thuần túy. Cái đẹp với Phạm Tiến Duật là từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống mà ùa vào thơ.

– Tác giả thêm vào hai chữ bài thơ, là muốn thể hiện quan niệm thơ nói, thơ kể nhưng vẫn rất thơ. Chất thơ vút lên từ hiện thực, từ tâm hồn hào hoa lãng mạn, lạc quan yêu đời của người lính – tuổi trẻ Việt Nam giữa khói bom lửa đạn với đầy niềm tự hào, chiến đấu và chiến thắng.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh độc đáo: những chiếc xe vận tải không kính vẫn ngày đêm băng ra chiến trường. Những chiếc xe thực đến trần trụi cứ hổng hông hốc như hai hốc mắt con quái vật trông ngộ nghĩnh và lạ lẫm. Bản thân những chiếc xe đã hiện diện nét ngang tàng, dũng mãnh, bất cần trước bom rơi đạn lạc, trước thừoi tiết khắc nghiệt ngày đêm vẫn lao ra trận tuyến. Như một phát hiện thú vị, nhà thơ đã khai thác cái chất liệu hết sức thô phác, đời thường đến bất thường ấy vào thơ:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

Những chiếc xe sinh ra vốn rất đầy đủ, hoàn hảo nhưng do tính chất khốc liệt của chiến tranh bom giật bom rung đã phá hủy, làm cho những chiếc xe bị biến dạng không còn nguyên vẹn nữa:

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước.

Một loạt các điệp ngữ không có đã phủ định một hiện thực vô cùng khó khăn, nguy hiểm của người chiến sĩ lái xe, khi điều khiển một phương tiện nặng nề với tốc độ cao trên tuyến đường dốc đèo hiểm trở, bom rơi đạn lạc hàng ngày mà phương tiện lại không đảm bảo an toàn. Những thứ vô cùng quan trọng như kính bảo hiểm, đèn chiếu sáng, mui xe bảo vệ… thì đều không có. Đó là điều bất bình thường nhưng với chiến tranh thì lại là điều bình thường, nên nó vẫn hoạt động như những chiếc xe hoàn hảo, vẫn băng băng ra phía trước vì nhiệm vụ trọng đại của đất nước. Cái bất thường đã trở thành cái phi thường một biểu tượng độc đáo của thơ chống Mĩ, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa thể hiện được phẩm chất anh hùng, vĩ đại của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Hình tượng được đẩy lên mức cao hơn góp phần khắc họa chân dung, tư thế một dân tộc anh hùng.

Câu 4. Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ trong Bài thơ tiểu đội xe không kính.

– Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe Trường Sơn gắn liền với hình tượng những chiếc xe vận tải độc đáo. Những chiếc xe thực chất chỉ là vật vô tri vô giác nếu không có sự tác động của con người. Chính con người đã truyền cho nó một hồn sống khiến nó trở nên sinh động, hấp dẫn. Người lính lái xe trẻ trung, năng động, dũng cảm, lạc quan yêu đời đã truyền qua chiếc vô lăng khí thế hiên ngang, bất khuất, tính ngang tàng, dũng mãnh, quả cảm bất chấp mọi gian nguy, thiếu thốn để người và xe hoàn thành nhiệm vụ.

– Ấn tượng đầu tiên với người đọc là tư thế hiên ngang, tự tin, tự hào và đầy chất lãng mạn cuat người lính lái xe:

Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhì trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.

Hàng loạt các điệp từ nhìn thấy diễn tả cảm giác cụ thể khi ngồi trên xe không còn kính chắn gió chẳng khác nào người chiến sĩ lái xe phải tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Nhưng tư thế rất ung dung nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng, nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim, mặc cho mọi thứ có thể va đập, quăng quật vào buồng lái gây nguy hiểm như gió, mưa, bụi, lá cây, cánh chim,… tất cả đều được bình thường hóa và được cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn: thấy như cả đất trời, con đường, gió và ánh sao, cánh chim đột ngột như sa như ùa vào buồng lái. Nếu không phải là những chàng trai luôn lạc quan, yêu đời, coi thường hiểm nguy thì sao có được cái chất lãng mạn để biến cái hiện thực đầy khó khăn, gian khổ thành cái thi vị hóa đẹp đến như thế!

– Vẻ đẹp tinh thần của người lính lái xe Trường Sơn càng được bộc lộ qua điều kiện thiếu thốn, khó khăn, gian khổ, hiểm nguy trên tuyến đường vận tải của họ:

Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

Những câu thơ giản dị như lời nói hàng ngày của người lính: ” Không có kính, ừ thì có bụi… Chưa cần sửa, phì phèo châm điếu thuốc… Không có kính, ừ thì ướt áo… Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi “, điệp khúc ấy tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất chấp. Bụi phun tóc trắng, mặt lấm, mưa xối ướt áo như ngoài trời, kệ! Bình thản, chưa cần rửa, chưa cần thay, phì phèo châm điếu thuốc, gặp nhau nhìn mặt lấmha ha, tiếp tục lái… Sự bình thản của người lính lái xe đạt tới mức vô tư, phớt tỉnh, khó khăn ấy chẳng là gì so với những làn mưa bom bão đạn mà họ đã vượt qua. Hình ảnh người lính vừa mang nét đẹp giản dị, phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn.

– Niềm vui gia đình của người lính chính là tình đồng đội, xung quanh họ đều là những con người lạc quan, yêu đời gắn bó:

Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những tiểu đội xe không kính, đã gắn bó những con người có tinh thần sắt lửa lại với nhau như anh em, bè bạn cùng chung nhiệm vụ. Những cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi thật hồn nhiênvui tươi như một sự hưởng thụ tự nhiên, không cần phải nhiêu khê mở của, cứ việc thò tay qua ô cửa bắt tay chào nhau trong tiếng cười ha ha rồi lại hối hả ra mặt trận. Chính nhà thơ cũng rất khoái khi viết câu: ” Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi“, ” không phải mở cửa mà có thể thò tay thì sướng quá ” thể hiện nét hồn nhiên, tinh nghịch, phớt đời của người lính.

Niềm vui bè bạn như niềm vui gia đình, cái định nghĩa về gia đình của người lính – thi sĩ cũng rất lính, tếu táo mà tình cảm chân tình, sâu sắc: ” Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy “. Họ gắn bó với nhau trong chiến đấu, trong đời thường, trong bữa ăn giấc ngủ tạm bợ vội vã trên đường, để rồi lại đi, lại đi trời xanh thêm. Câu thơ diễn tả cái điệp khúc lên đường của đoàn xe, phơi phới niềm tin lạc quan, yêu đời của lính trẻ Trường Sơn.

– Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn gian khổ chính là tình yêu đất nước, là lòng nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ, quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:

Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Kết thúc bài thơ, vẫn giọng thơ nói mộc mạc như văn xuôi, vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ. Cảm hứng và suy tưởng vừa thực vừa bay bổng đề hoàn thiện vẻ đẹp chân dung người lính lái xe Trường Sơn những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ, thú vị giữa người và xe; giữa vật chất và tình thần; giữa cái không và có… làm nổi bật cái gia góc, khốc liệt của cuộc chiến và chất anh hùng, bất khuất, đẹp đẽ của con người. Điệp ngữ ” không có” nhấn lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách; ngôn ngữ trong hai dòng thơ được ngắt làm bốn nhịp như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu. Nhưng hai câu sau, âm điệu lại nhẹ nhàng, phóng khoáng bởi hình hài những chiếc xe có thể bị bom giặc làm cho biến dạng, nhưng với xe còn cỗ máy thì còn chạy, với con người còn trái tim thì còn tình yêu Tổ quốc. Trái tim tuổi trẻ giàu nhiệt huyết, giàu tình yêu thương và lòng căm thù giặc sẽ bất chấp tất để chiến đấu và chiến thắng. Tác giả đã nói về tác phẩm của mình: ” Thực ra, tôic hỉ lấy cái ô tô làm cớ. Con người cũng như cái xe ấy, có thiếu mọi thứ […] nhưng cái không thể thiếu được là trái tim anh chiến sĩ lái xe dũng cảm. Bài thơ được tôi chăm sóc khá kĩ lưỡng về chũ nghĩa. Nhưng với tôi, cái mà tôi ưng ý chưa phải là chữ nghĩa mà là cái khoảng vang của tâm hồn, của thanh khí toàn bài phủ lên tác phẩm “.

Đúng vậy! Cái âm vang tâm hồn, cái thanh khí của toàn bài thơ mà tác giả muốn nói đến đó là những giá trị hiện thực lớn lao, vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời, vừa mang tầm vóc lịch sử. Đôi khi bài thơ vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy để nói tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của con người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời đánh Mĩ: khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng bất khuất, kiên cường, kiêu hùng và lãng mạn.

– Khai thác chất liệu hiện thực của đời sống chiến tranh: những chiếc xe không kính và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe Trường Sơn.

– Giọng điệu ngang tàng pha chất tinh nghịch, hóm hỉnh, phù hợp với đối tượng (lính lái xe) qua các dạng câu: giải thích, tự sự, câu ngắn, dài đa dạng, gần với lời nói bình thường nhưng rất giàu nhạc điệu, hình ảnh và cảm xúc.

– Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, ngồn ngộn chất đời sống chiến trường khiến lời thơ giàu chất văn xuôi nhưng thú vị.

– Chất thơ toát lên từ hình tượng độc đáo – những chiếc xe trần trụi và tâm hồn trẻ trung, năng động, lãng mạn, yêu đời của người lính lái xe.

Câu 6. Cảm nghĩ của em về hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ qua hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật).

Đây là bài tập khó, HS cần nắm chắc hai tác phẩm và có cái nhìn tổng quát về hai cuộc kháng chiến qua thơ ca để có những nhận xét, đánh giá chính xác, thấy được những nét chung và riêng ở người lính qua hai thời kì kháng chiến. Gợi ý:

Mở bài. Dẫn dắt và giới thiệu đối tượng nghị luận:

– Văn học 1945 – 1975 tập trung viết về ba đối tượng chính: công, nông, binh. Vì vậy, đề tài viết về người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là đề tài thu hút nhiều bút lực. Bởi đó là những con người anh hùng sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

– Biết bao nhà thơ đã viết về họ, trong đó có nhà thơ Chính Hữu với tác phẩm: Đồng Chí, Phạm Tiến Duật với Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Đây là những thi phẩm xuất sắc viết về người lính trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Thân bài. Cần đạt được các ý chính sau:

* Nét chung của người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ tiểu đội xe không kính, đó là lòng yêu nước, dũng cảm, kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc; sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn để chiến đấu, chiến thắng; sống lạc quan, yêu đời, đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ, sẻ chia buồn vui trong đời sống chiến đấu.

* Nét riêng

– Tuy nhiên, mỗi bài thơ hình tượng người lính lại được khai thác ở những nét riêng:

+ Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, hình tượng người lính xuất thân từ nông dân. Những con người nghèo khổ từ những vùng quê nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, đầu trần, chân đất bước vào đời lính. Cuộc sống kháng chiến đầy khó khăn gian khổ: đói rét, bệnh tật, đầu không mũ, chân không giày, áo vá, quần rách, đứng chờ giặc trong rừng hoang sương muối… nhưng tinh thần vẫn kiên định, vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng bởi có tình đồng chí đồng đội ” Thương nhau tay nắm lấy bàn tay “. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhất là những năm đầu kháng chiến, cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ nên đời sống vật chất, tinh thần của người lính cũng quy định bản chất anh bộ đội cụ Hồ: hiền lành, chất phác, giản dị, chân thật, dũng cảm, kiên cường, luôn mang trong trái tim mình tình yêu đất nước và tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

+ Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình tượng người lính đi vào cuộc chiến đấu đã có bước phát triển vượt bậc về đời sống cơ sở vật chất và tinh thần so với đời sống của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu ở bài thơ Đồng chí nói về người lính bộ binh ở Điện Biên Phủ thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nói về người lính thuộc binh chủng lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời đánh Mĩ. Họ không còn áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, nhưng họ lại gặp những khó khăn khác: bom giặc đã hủy diệt sự sống, phá hủy những chiếc xe – phương tiện vận tải của họ, biến những chiếc xe trở nên kì dị: không kính, không đèn, thùng xe xướt xát. song bất chất hiểm nguy, xe và người vẫn ung dung, hiên ngang ngày đêm lao ra chiến trường đánh Mĩ. Ở họ luôn phơi phới một tinh thần lạc quan cách mạng, trẻ trung, yêu đời, dũng cảm, kiên định rất phù hợp với chất lính lái xe Trường Sơn. Thế hệ của họ ” Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai“, ” Đi chiến trường như chyả hội mùa xuân“, ” Mưa bom bão đạn lòng thanh thản “. Họ rất tự hào là thế hệ trẻ Việt Nam trong thời điểm lịch sử quyết liệt nhất, đối mặt với kẻ thù mạnh nhất thế giới, vũ khí tối tân nhất thế giới, khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên cường, bất khuất của một dân tộc anh hùng.

Kết bài. Nâng cao, mở rộng vấn đề

Đã đi qua hơn nửa thế kỉ, nhưng những bài thơ viết về đề tài chiến tranh – người lính vẫn mãi mãi khắc sâu trong tâm hồn người Việt Nam về hình tượng người lính bất tử. Hình tượng ấy ở cuộc chiến tranh nào cũng đều bi tráng, hào hùng lãng mạn. Vẻ đẹp ấy không chỉ có riêng trong Đồng chí của Chính Hữu, ở người lính lái xe của Phạm Tiến Duật, mà còn là tinh thần, vẻ đẹp chung của hình tượng người lính trong suốt hai cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.

-dehoctot.edu.vn-

Phân Tích Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật

– Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê Thanh Ba, Phú Thọ.

– Năm 1964, sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông gia nhập binh đoàn vận tải Trường Sơn và hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ.

– Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

– Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.

– Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

– Tác phẩm chính: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính…

– Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

– Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến.

– Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ.

2. Chủ đề: Vẻ đẹp hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong những năm chống Mĩ.

3. Ý nghĩa nhan đề bài thơ:

-Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi hai lẽ:

+ Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ” – cách ghi như thế có vẻ hơi thừa.

+ Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng, không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng.

4. Những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật: a. Hình ảnh những chiếc xe không kính:

– Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường Trường Sơn. – Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.

+ Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ.

b. Hình ảnh người lính lái xe:

* Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.

+ Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”,”nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng.

– Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái.

+ Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều đặn, trôi chảy như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính.

+ Các hình ảnh “con đường”,”sao trời”,”cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào

hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cảlà hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

*. Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm: Không có kính, ừ thì có bụi, Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệuthản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh, cấu trúc: “không có…”;”ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!

*. Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội.Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” : “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi lại đi trời xanh thêm.

+ Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường.Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến

đấu.

+ Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.

*. Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chủ cần trong xe có một trái tim.

– Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.

– Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.

+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.

+ Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.

III – Tổng kết:

– Giọng thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả ( những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính ). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ ( Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm… – Thể thơ: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.

– Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta,khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.

Nhận Xét Về Bài Thơ “Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính” Của Phạm Tiến Duật

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật – gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng âm từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say mê bằng chính sự tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung và đậm chất người lính. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó, đã đạt giải nhất báo văn nghệ năm 1969. Tác phẩm được viết năm 1969 để ghi lại ý nghĩa, tình cảm, cảm xúc của các chiến sĩ lái xe hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn ngày đêm đưa người, vũ khí và lương thực chi viện cho miền Nam. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn…

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi

Tác giả lí giải một cách thật đơn giản mà ngộ nghĩnh, tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với hình ảnh “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung được sự tàn phá dữ dội của bom đạn trên nẻo đường Trường Sơn lúc bấy giờ. Nhưng tuy thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu song đó lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn dày đặc của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản, tự tin, ung dung và lạc quan đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn và đón nhận thiên nhiên. Với nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng, bài thơ đã mở đầu cho ta hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận bằng thái độ tự tin, ung dung, lạc quan của những người lính lái xe. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả một cách chân thực và chính xác đến từng chi tiết:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính để bảo vệ, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm: “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim”, “sao trời” và “cách chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa vào buồng lái của các chiến sĩ trẻ. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm tay lái trên chiếc xe không kính nên câu từ mới thật sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh và gợi cảm giác chân thực đến thế.

Tuy trên đường đi phải vượt qua bao thử thách, bao nỗi căng thẳng nhưng người chiến sĩ không hề run sợ, hoảng hốt, trái lại, các anh vẫn đi rất hiên ngang, tinh thần vẫn vững vàng. Bầu không khí căng thảng với “bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của con người coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ chậm rãi như diễn tả thái độ thản nhiên, đàng hoàng của những người lính lái xe. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên chiến trường thành niềm vui thích mà chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế ấy.

Hai khổ thơ đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm với lòng quyết tâm gan góc trở hàng ra tiền tuyến. Tuy những chiếc xe chở hàng còn thiếu thốn và mất mát nhiều thứ nhưng đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường mặc cho gặp nhiều nguy hiểm, nhiều mưa nắng, gió bụi của thời tiết:

“Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già” “Không có kính ừ thì ướt áo Mưa phun, mưa xối như ngoài trời”

Trên con đường chi viện cho miền Nam, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ nhưng đứng trước những thử thách mới, các anh cũng không hề nao núng mà càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. Thời tiết “mưa tuôn”, “mưa xối” khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ, tất cả chỉ là chuyện nhỏ, chẳng đáng bận tâm, chúng như đem lại niềm vui đến cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một sự thách thức, một sự chấp nhận đầy chủ động với thái độ cứng cỏi, dường như gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ.

Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

Cấu trúc các câu thơ vẫn rất cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” gợi một cảm giác nhẹ nhàng, ung dung, lạc quan và thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi thanh niên hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” với ý thơ rộn rã, sôi động như sự hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Giọng điệu thơ tự nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch như họ đang cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn đã giúp những người lính đưa hiện thực đời sống vào thơ ca một hiện thực bộn bề, thô ráp, trần trụi mà không hề trau chuốt, gọt dũa. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy cũng làm nổi bật lên tính cách ngang tàn của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời. Đó cũng chính là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Nụ cười hiện trên môi của các anh là một nụ cười sảng khoái, vô tư, hồn nhiên và ngạo nghễ thể hiện các anh là những người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía, cái bắt tay thay cho lời nói, lời động viên, lời chia sẻ của những người lính với nhau. Chỉ có những người lính, những chiếc xe bị tàn phá khốc liệt thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy – một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn to lớn của một thời đại hào hùng.

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Tình cảm gia đình của những người lính thật bình dị mà ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” để đi tới thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn các anh, trời xanh như chứa chan hy vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quan của “tiểu đội xe không kính” mà không một sức mạnh bom đạn nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống của các anh không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.

Nếu như ở các câu thơ đầu tiên của bài, ta chỉ bắt gặp hình ảnh những chiếc xe không có kính thôi thì đến khổ thơ cuối này, ta thấy được hình ảnh những chiếc xe ngày càng bị hư hỏng, thiếu thốn và mất mát nhiều hơn.

“Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Tuy chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kỹ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: “không kính”, “không đèn”, “không mui”, chỉ có một thứ duy nhất là “có xước” nhưng cũng vẫn là một tổn thất, hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên thử thách khốc liệt của chiến tranh. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù, mang trên mình đầy thương tích nhưng chiếc xe vẫn như một chiến sĩ kiên cường mà bất khuất.

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phí trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến lên phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một mục đích thiêng liêng “vì miền Nam phía trước”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước vẫn đang vẫy gọi, bởi vì trong những chiếc xe đó chứa đựng “một trái tim” dũng cảm và kiên cường. Hình ảnh “trái tim” là hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp và phẩm chất của những người chiến sĩ lái xe. Trái tim nông cháy chứa đựng một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm và niềm tin tuyệt đối. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất đất nước. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm chất anh hùng, khí thế của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chứa chan tình yêu thương này. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật những cái “có” và làm nổi bật một chân lý của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, hủy hoại giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp. Chính vì vậy mà tuy Việt Nam là một nước nhỏ nhưng lại chiến thắng được cường quốc lớn như Đế quốc Mĩ.

Bằng việc sử dụng điệp ngữ “không có” và các từ ngữ tương ứng đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên, ngang tàn của những người lính trẻ nhưng ẩn sâu trong từng câu nói là một tinh thần trách nhiệm cao và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng, son sắt. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của kẻ thù có thể lay chuyển được.

Đến với bài thơ, ta thú vị nhận ra cái chất hiện thwucj và chất lãng mạn được hòa quyện với nhau một cách tinh tế mà sâu sắc. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo, bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong bài thơ đã góp phần tạp nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả. Cái “cửa kính vỡ rồi”, cái “xe không kính” đậm chất hiện thực nhưng vẫn lao lên phía trước, lao ra tiền tuyến để tiếp tế súng đạn, lương thực vì ngày toàn thắng của đất nước. Hình ảnh tiểu đội xe không kính trở thành biểu tượng lãng mạn tuyệt vời cho những người lính lái xe trên đường mòn Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn hướng tới miền Nam thân yêu.

Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Tác Giả Phạm Tiến Duật Rất Hay

Phân tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính của tác giả Phạm Tiến Duật

Bài làm

Phạm Tiến Duật được biết đến chính là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Ông có một phong cách sôi nổi, trẻ trung đậm chất lính. Đã có nhiều bài thơ viết về hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên chiến trường ác liệt nhưng ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật cũng được đánh giá là bài thơ mang màu sắc riêng, độc đáo.

Đọc bài thơ người đọc sẽ ấn tượng ngay với hình ảnh những chiếc xe không có kính vô cùng độc đáo. Việc phát hiện ra một hình ảnh thơ độc đáo đã khiến cho bài thơ có nhiều sự hấp dẫn. Xe không kính cũng đã làm nổi bật lên hình tượng những người lính trẻ đó chính là các người lái xe ở thời kì đó: trẻ trung, sôi nổi và có gì đó ngang tàng, hóm hỉnh. Không biết nhà thơ Phạm Tiến Duật đã bao giờ ngồi trong buồng lái hay trực tiếp cầm vô lăng chưa mà lại có thể xây dựng lên một giọng thơ lại sôi động, tự nhiên và đầy hứng khởi đến thế?

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Hình ảnh những chiếc xe ấy được Phạm Tiến Duật làm cho biến dạng, bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Rồi bao nhiêu mưa bom bão đạn, chiến tranh mới khốc liệt làm sao: sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng xương bằng thịt. Ấy vật mà những chiếc xe ấy như đã thể hiện được một phong cách vô cùng độc đáo, ngang tàng và lại trở thành một biểu tượng đặc trưng vô cùng độc đáo trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thông qua đây thì nhà thơ còn làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe – thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Sử dụng nhịp thơ ngắn, nhanh, điệp từ ‘nhìn” được tác giả Phạm Tiến Duật như muốn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Thế rồi sau đó, lại là lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường rất hay và độc đáo:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Hình ảnh những người lính lái xe vẫn ung dung lái xe, họ vẫn phóng tầm mắt ra xa và vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Có thể nhận thấy được lời thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát, khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.

Thế rồi chính khi chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biêt bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính cho nên khó khăn hiệu hữu:

Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Không có kính thì người lính cũng gặp rất nhiều khó khăn đó là có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối. Thêm với đó chính là cấu trúc thơ lặp đi lặp lại – ừ thì – đã làm toát lên thái độ bất chấp, làm cho người lính như không hề run sợ, coi thường mọi khó khăn. Thế rồi chính với những câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, cười để lạc quan yêu đời, đồng thời như để phớt lờ mọi khó khăn, để động viên mình và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động như sau:

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Và:

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Phạm Tiến Duật cũng đã sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Thực sự chính những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung có cả sự hóm hỉnh trong đó nữa. Không chỉ dừng lại ở đó thì chính những người lính họ là người đồng chí chung câu quân hành với nhau. Tất cả như đã tụ họp lại với nhau, bắt tay nhau qua cửa kính để làm quen với nhau.

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Thật ngạc nhiên biết bao nhiêu khi những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết vậy mà giờ đây khi ở trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó thì tất cả họ dường như cũng lại chào nhau như những người bạn đã quen. Thêm với đó chính là những kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có thể thấy được có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí thật chân thành:

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Gia đình – hai tiếng được cất lên quá đỗi thiêng liêng, chỉ với hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ – chính là những người lính Trường Sơn ấy, họ mang trong mình một dòng máu sôi sục biết bao nhiêu khát vọng và khát vọng lớn nhất là giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Tuy chiếc xe này có bị phá huỷ đến đâu, cho dù xe có nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn thì có hề hà gì nếu như trong xa có một trái tim. Tình yêu tổ quốc cũng chính là người cầm lái, là một tác động lớn để khiến cho người lính quyết tâm hơn, ý chí kiên cường hơn. Không dừng lại ở đó thì câu thơ như cũng đã gợi ra cánh cửa ánh sáng: miền Nam – nơi được xem chính là nơi người dân đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.

Tác giả Phạm Tiến Duật với lời thơ với chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm đã khiến cho “bài thơ về tiểu đội xe không kính” như trở nên thật đặc biệt và để lại trong tâm trí người đọc biết bao nhiêu xúc cảm. Đó chính là sự khâm phục, lòng biết ơn về những người lính trong bom rơi bão đạn đã không quản ngại khó khăn mang lại tự do về cho đất nước.

Minh Vũ

Cập nhật thông tin chi tiết về Hệ Thống Câu Hỏi Ôn Tập Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!