Bạn đang xem bài viết Hành Trình Trưởng Thành Của “Cậu Bé Người Gỗ Pinocchio” được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Truyện cổ tích về cậu bé người gỗ Pinocchio quen thuộc với bao thế hệ thiếu nhi thế giới hơn thế kỷ qua, với bài học về sự trung thực. Hãng Walt Disney đã từng dựng truyện thành phim hoạt hình, nay điện ảnh Ý đã chuyển thể thành phim phiên bản người đóng với giá trị nội dung nguyên vẹn và những điểm sáng tạo thú vị. Tại Cần Thơ, phim đang chiếu tại các cụm rạp của CGV và Lotte Cinema.Pinocchio vốn là rối gỗ được tạo nên bởi đôi tay của người thợ mộc nghèo Geppetto. Khúc gỗ dùng để đẽo Pinocchio khá kỳ dị nên cậu bé có thể đi đứng, nói năng và suy nghĩ như một người bình thường. Ông Geppetto quá hạnh phúc và bất ngờ, nên hết mực yêu thương Pinocchio và coi cậu như con trai. Tuy nhiên, cậu bé nghịch ngợm, ngang bướng đã khiến ông nhiều phen khốn khổ. Nhất là khi Pinocchio trốn học đi xem kịch rối và bị bắt cóc, ông đã bôn ba khắp nơi đi tìm. Về phần cậu bé, trải qua nhiều biến cố và hành trình đi tìm cha khiến cậu ngày càng trưởng thành hơn.
Phiên bản người đóng “Cậu bé người gỗ Pinocchio” (ảnh) khá sát nguyên tác khi nhắc lại đầy đủ sự kiện xảy ra trong chuyến phiêu lưu trên trang sách: từ chuyện cậu bé bị bắt đi theo gánh xiếc, bị biến thành lừa, được nàng tiên xanh giúp đỡ, đến đoàn tụ với cha trong bụng quái ngư… Tuy phim có những điểm sáng tạo về các sự kiện trong cuộc phiêu lưu của Pinocchio nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần, ý nghĩa của truyện, truyền tải rõ ràng bài học làm người cho thiếu nhi. Từ việc cậu bé ham chơi, bướng bỉnh đến những hậu quả cậu phải gánh chịu đều có ý nghĩa giáo dục thiết thực. Trải qua nhiều sự cố, Pinocchio dần hiểu chuyện. Khi gặp lại cha, cậu bé đã tỏ lòng hiếu thảo, chăm sóc cha, đi làm kiếm tiền lo cho cha… Điều đó đã giúp cậu bé nhận được món quà xứng đáng từ nàng tiên xanh.
Đặc biệt, tình yêu thương của người thợ mộc dành cho Pinocchio được khắc họa chi tiết và khiến người xem cảm động. Ông đã dành cho Pinocchio tất cả điều tốt nhất, chắt chiu từ cuộc đời vốn đã chẳng còn gì nhiều: cắt tấm trải giường may cho con trai một bộ quần áo chỉnh tề, bán đi áo khoác giữa tiết trời lạnh giá để mua cho chú rối gỗ cuốn sách học vần, tha thứ các lỗi lầm của con và đi tìm Pinocchio khi cậu bị bắt cóc…
Phần kỹ xảo và tạo hình các nhân vật của phim được thực hiện chỉn chu, công phu, tạo nên thế giới cổ tích kỳ ảo. Nhưng điểm trừ lớn nhất của phim chính là không nhấn mạnh vào chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện kinh điển. Đó là mỗi lần nói dối, mũi của Pinocchio sẽ bị dài ra. Trong phim, chỉ duy nhất một lần mũi cậu bé bị dài do nói dối nàng tiên xanh, còn lại phim hoàn toàn không nhắc đến. Ngoài ra, một số tình tiết phim không được làm rõ hoặc chưa thuyết phục người xem.
Phim đã nhận được 15 đề cử David di Donatello Awards, giải thưởng được xem như Oscar của Ý trong năm 2023 và đã chiến thắng 5 trong tổng số 15 đề cử. Bên cạnh đó, phim cũng được đề cử 2 Quả cầu vàng của Ý ở hạng mục đạo diễn và quay phim xuất sắc; mang về 6 trong tổng số 10 đề cử giải thưởng của Hiệp hội Báo chí điện ảnh Ý.
CÁT ĐẰNG
Hành Trình Thơ Thi Hoàng
“Nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây cao”
(T.H)
Thơ Thi Hoàng xuất hiện cuối giai đoạn chống Mỹ, cùng thời với một số nhà thơ Hải Phòng hồi đó, như Vân Long, Thanh Tùng, Hoàng Hưng, Đào Cảng, Phạm Ngà, Trịnh Hoài Giang… Họ bắt vào văn mạch Hải Phòng, khởi nguồn từ thời Thế Lữ, Khái Hưng, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Văn Cao, Lê Đại Thanh…, cho nơi cửa sóng này được mệnh danh là “miền đất văn chương”. Giai đoạn sau này, Thi Hoàng nổi lên như một trong những gương mặt đổi mới tiêu biểu giai đoạn hậu chiến, ông là gạch nối giữa thế hệ “thơ chống Mỹ” với thế hệ đổi mới sau 1975.
*
Thơ Thi Hoàng có hai giai đoạn, tôi tạm định danh: hướng ngoại và hướng nội. Giai đoạn hướng ngoại thể hiện trọn vẹn trong tập thơ “Nhịp sóng” (Hội Văn nghệ Hải Phòng, 1976). Trước đó, Thi Hoàng còn có tập thơ đầu tiên in chung, lấy tên “Cửa sông” (Nxb Tác phẩm mới, 1971). Người viết bài này chưa tìm được tài liệu và cũng không thấy tác giả đưa vào “Tuyển trường ca và thơ” (Nxb Hội Nhà văn, 2010).
Nhà thơ Thi Hoàng
“Ta đang cách nhau một khoảng chết của quân thù” (Em ở phương xa). Câu thơ vang âm trong “Nhịp sóng”, nhắc nhở mọi người tinh thần cảnh giác, ý chí sắt đá lúc đó. Bài thơ “Rãnh khương tuyến”, có những câu thơ khét nồng mùi thuốc súng: “Những rãnh xoắn dẫn đầu đạn lên theo một đường sáng chiếu/ Nhằm phía ngực quân thù phá ra”. Nhưng sau những phút giây “Viên đạn vọt ra trong chớp mắt”, ta gặp được “Một khoảng trời xanh sáng bừng”. Ngay từ những bài thơ trong giai đoạn “khói lửa” này, Thi Hoàng đã sớm có những câu thơ mang phong cách riêng: “Mũi con tàu tinh anh như con mắt/ từ cửa sông này nhìn suốt đại dương…/ Vạt buồm muốn kéo cả bờ đi…/ Trời xanh lặng như đang điềm tĩnh lại” (Thành phố những cánh buồm mùa hè – cửa bể).
Thi Hoàng có nhiều câu thơ hương sắc trong giai đoạn chống Mỹ. Nếu thơ Chính Hữu hồi ấy réo vui khúc nhạc hành quân: “Những buổi vui sao, cả nước lên đường/ Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục…/ Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát”, thì thơ Thi Hoàng trong “Ba người hát giọng trầm” có những câu thơ gần với cách chuyển dịch ngôn ngữ của thế hệ thơ trẻ bây giờ: “Mái tóc mưa xuân, bàn chân mùa hạ”; hay, “Cửa kín lòng mình nhẹ mở theo ta”. Những câu thơ đẹp mong manh, mơ hồ tiêu biểu cho mỹ cảm của Thi Hoàng thời đó: “Miền đất hứa nắng dồn về bề bộn/ Ong rung hoa bách hợp, phấn rơi vàng” (Lên với vùng cao); cả những câu ám ảnh thấm đượm nồng ấm: “Nghe đằng sau thấp thỏm/ Như ai đi với mình” (Chiếc ba lô); hay non bấy và bay bổng khi “Một cô bé trong vòng múa chìa tay/ Tôi cầm lấy bay lên cùng lũ trẻ” (Trong vườn trẻ). Câu thơ mang cảm xúc tươi ròng, mãnh liệt tựa dòng nước mát lành từ lòng đất sâu trào lên: “Trời thì xanh như rút ruột mà xanh/ Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc” (Ở giữa cây và nền trời).
*
Nhà thơ Thi Hoàng khá mạnh về trường ca, đó là sở trường của ông. Với trường ca, ông mở đầu giai đoạn hướng nội, thiết lập cho thơ mình không gian riêng biệt với những phức điệu, phối bè hấp dẫn. Với hai trường ca lớn, “Ba phần tư trái” đất (Nxb Hải Phòng, 1989) viết 1981 – 1984, “Gọi nhau qua vách núi” (Nxb Quân đội nhân dân, 1996) viết năm 1987 – 1994 và một số trường ca “mini”, “Oản tù tì, ra…” in trong tập “Bóng ai gió tạt” (Nxb Hội Nhà văn, 2001), “Bóng tối dưới chân đèn” in trong tập “Cộng sinh với những khoảng trống” (Nxb Hội Nhà văn, 2005)…, Thi Hoàng đã dành được “đất” cho mình ở thể loại này. Khác với những trường ca mang tính sử thi đơn tuyến, có cốt truyện, trường ca của Thi Hoàng có cấu trúc hiện đại với đa giọng điệu. Các chương/ phần trong đó có thể đứng độc lập như một bài thơ dài, nhưng khi đặt trong “tổng phổ”, chúng được phối ngẫu, đan xen, bổ sung cho nhau, giống như cách hòa âm, phối khí trong giao hưởng. Thậm chí, những ý tưởng được đan chéo qua các chương, đoạn của trường ca, làm người đọc hình dung như có một MC vô hình dẫn truyện từ đầu đến cuối.
Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, chúng ta nghe tên các chương có thể nhận biết được tính phân tán, nhưng thống nhất trong cảm xúc chủ đạo, nhìn thấy cái “thân cây” trong truờng ca của Thi Hoàng, để từ đó mọc ra những cành lá xum xuê, bời ngợp. Chương 1: “Có một người, có một hòn đảo”, Chương 2: “Nhà thơ và chiến tranh”, Chương 3: “Biển ở đất liền”, Chương 4: “Số một và tổng thể”, Chương 5: “Cuộc gặp gỡ của những người chết”, Chương 6: “Thư gửi hội nghị luật biển quốc tế”, Chương 7: “Kinh nhật tụng”, và Chương cuối: “Không phải là vĩ thanh”. Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, khá nhiều câu thơ hay với cách liên tưởng lạ, bất ngờ được thắp lên như ngọn đèn dẫn đường: “Đảo nhỏ đang đùa nô với nước mây giây lát rùng mình/ Rồi tĩnh tọa như nghìn năm vẫn thế” (Chương 1); “Hòn đá vỡ tung trong chiến tranh/ Bây giờ không nhận ra được nữa/ lẫn trong đá được ghè bằng búa/ Rải dưới đường bố con anh đi” (Chương cuối: Không phải là vĩ thanh).
Tiếp đến, trường ca “Gọi nhau qua vách núi” là cú nhảy đột biến, bất ngờ trong hành trình thơ Thi Hoàng. Trường ca này có thể gọi là bức tranh tổng quan, những mạch ngầm, cả những góc khuất của đời sống thời hậu chiến. Ông vẫn tiếp tục những thủ pháp trong trường ca “Ba phần tư trái đất” là thiết kế phân mảnh giữa các Chương (ở đây ông đặt là Phần), nhưng khác biệt rõ nét, là tạo sự đa dạng, đa giọng điệu ngay trong từng đoạn, tức là tạo ra cấp số nhân của những phân mảnh. Chúng được đan cài có dụng ý và biến hóa rất linh họat. Có phần ông sắp đặt ý tưởng, hình ảnh chồng lấn, xung đột bất ngờ như những chuyển động Brown, tạo nên những va chạm đến từ các hướng khác nhau, làm nên sự phồn tạp và biến ảo khôn lường như hình dung về đời sống đương đại. Các nhân vật A, B, C… trong trường ca thể hiện tối đa ý đồ này của tác giả, vừa là hữu danh, vừa vô danh, thắt ẩn, thoắt hiện, lúc là cái tôi, đơn vị bé nhỏ nhất, có lúc nhân danh cả “đại tự sự” trong suốt trường ca “Gọi nhau qua vách núi”. Ngay từ phần thứ nhất “Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người”, nhà thơ đã cho các nhân vật A, B, C lúc hiện thân thành đồng đội “A và B khóc C trong một tổ ba người”, lúc hóa thành đại ngàn vững chắc, chở che “A, B, C thành một cánh rừng rồi”. Đến các phần tiếp theo, ông lý giải các nhân vật trong các chiều kích tương quan, gắn bó và va đập của đời sống. Thi Hoàng đã thành công khi khắc họa vóc dáng thời đại của ông. Chúng hiện lên với đa dạng những khuôn mặt, lúc ngây ngơ như “con nghé tơ vơ vẩn đi tìm/ ai đánh mất quả chuông nào của nó” (Phần thứ nhất); lúc âm thầm làm “giọt mồ hôi ngoằn nghèo rủ rỉ trên lưng” trong Phần thứ mười: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”, lúc khắc khổ, ưu tư dè dặt: “Chính trị thời tôi chẳng phải như ong/ Chẳng phải như hoa để dễ dàng xúc động/ Ý thức hệ nào chìm trong mật nóng/ Mặc ong vô tình và hoa ngây thơ” (Phần bảy: Bồng bế một thời). Trong phần thứ chín “Thành phố nơi tôi sinh trưởng”, Thi Hoàng có câu thơ “Một đầu đường chẳng có ai trông ngóng/ Một buổi chiều không biết cất vào đâu”, ấy là chân dung tự họa ông trong cái nền chiều thành phố cảng rất độc đáo. Cả thành phố và nhà thơ hiện lên trong “bức tranh” với tâm trạng ngổn ngang, vừa muốn chuyển động vừa muốn dừng lại, thèm khát sẻ chia lại muốn cô đơn. Ở phần thứ mười, phần về đích của trường ca này: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”, tôi nghe thấy giọng gọi của nhà thơ đã khàn qua những “vách núi” ngăn cách giữa con người với con người, giữa những cá thể nhỏ nhoi với thiên nhiên, xã hội, và với cả những tập tục, ý thức hệ…
*
Thi Hoàng bắt đầu những biến chuyển làm mới khi thơ ông đã định hình phong cách, tạo được chất giọng riêng trong thơ Việt đương thời. Qua các giai đoạn, cảm thức nhân sinh, thế sự luôn là khí thở, là ánh sáng để ông nhận biết, đánh giá mọi biến đổi của đời sống. Phần lớn những bài thơ của ông đều thấm đẫm tinh thần này, ngoại trừ một số bài viết về thiên nhiên, người thân, trẻ nhỏ, như “Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, “Chú chim sâu bé nhỏ”… ông mới chịu rời xa cái “rễ cái” thế sự. Thi Hoàng thường trăn trở, quan tâm những vấn đề lớn, như ý thức hệ, lý tưởng, dân sinh, những áp bức, bất công đè lên vai những người khốn khổ, những thân phận trôi nổi bèo bọt… Trong trường ca “Gọi nhau qua vách núi”, ông dành trọn vẹn phần thứ tư để viết về chính trị. Lúc đầu, Phần này có tên khá “khiêu khích”: “Chính trị”, sau ông đổi thành “Bồng bế một thời”. Bằng cách biểu hiện đa dạng, phong phú, thơ Thi Hoàng, truớc hết vẫn là cách nói của thi sĩ, đau đớn mà giàu liên tưởng, phản tỉnh, gai góc, thậm chí dữ tợn nhưng đậm chất nhân văn: “Buổi chiều đẹp và mệt mỏi/ Mặt trời như người đàn ông vừa ra khỏi nhà/ Đi đánh bạc cho đến sáng/ Để bóng tối lấp đầy mặt người đàn bà như bông hoa rau muống tím/ Nghĩ mà thương cái bông hoa âm thầm…/ Cờ của Tổ quốc tôi là bàn tay mẹ/ Nắng gió sống trên năm ngón tay nứt nẻ” (Bồng bế một thời). Dù viết về thế sự hay bất cứ điều gì, ông luôn hướng đến cái Đẹp. “Lẽ phải”, trong nội hàm cái Đẹp, không đến dễ dàng, có khi phải chờ đợi, thắc thỏm qua nhiều thế hệ: “Lẽ phải dềnh dàng còn tế nhị gửi thưa/ với muôn trùng biến dịch/ Lẽ phải không tự tử cũng không bị ai giết chết/ Lẽ phải đến kia rồi ta đã già rồi thôi để con ta ra đón” (Lại theo đuổi tự nhiên).
Giai đoạn đầu cách tân, thơ Thi Hoàng dùng các mảng lắp ghép giống như tranh đồ họa, ưa dùng màu lạnh, như cố tình tạo ra những “bức tường” ngăn cách trong không gian ngột ngạt, ngổn ngang, gây cảm giác khó chịu, buộc bạn đọc tìm cách thoát ra khỏi nó, giải phóng nó. Hình ảnh trong thơ thường được ông bóp méo, kéo căng, chồng lấn, như cố tình cho chúng mọc ra những “chiếc gai” sắc nhọn, và, có lúc quá cỡ so với cái thông thường: “Nắng rầng rậc một sắc vàng quát thét/ Con còng chạy như điên băng qua cát ngạt/ Rất muốn ngọt ngào mà biển phải đành lòng mặn chát/ ta một nỗi niềm, biển một nỗi niềm, cát cũng một” (Với cát bỏng). Mọi câu thơ trong bài đều được kết thúc bằng những thanh sắc (quát thét… cát ngạt… mặn chát… lạnh buốt… gai nhọn…) tạo dựng một khoảng không lộn xộn với những va đập chói tai, nghe như tất cả bộ gõ trong dàn giao hưởng được tấu lên mà không còn loại nhạc cụ nào khác. Bài thơ này biểu hiện đặc trưng cách viết của Thi Hoàng ở giai đoạn đầu đổi mới: “Nắng quất nắng quật ư? Cũng chưa ghê gớm/ Bằng ánh mắt ta sao lại mọc những tia nhìn như gai nhọn”.
Thi Hoàng đã tạo được những xung động, sản sinh những nghĩa mới của chữ, tạo chữ mới lạ, sự biến ảo đa nghĩa trong từng câu thơ trên nền tảng của “đại tự sự”. Bài thơ “Tự thú”, rút trong tập “Đom đóm và sao” (Nxb Hải Phòng, 1997) là một minh chứng cách viết của Thi Hoàng giai đoạn khởi đầu cách tân của ông: “Ngày nép vào mắt mở/ Đêm nép vào mắt nhắm/ Tôi rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn xương thịt/ Hoá ra khoảng không yên lành là mẹ của ước mơ/ Còn nhịp bước tự nhiên của bàn chân, thế nghĩa là triết học”. Câu thơ “Tôi rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn xương thịt” là một cách nói hình tượng hóa rất mới mẻ. Câu thơ ngoài nghĩa trực diện, còn cho thấy chuyển động bên trong của quá trình phân hóa/ hóa giải, quá trình tự hủy diệt và hoàn thiện trong mỗi cá thể. Kết hợp cái cụ thể với những khái niệm trừu tượng là cách viết của Thi Hoàng. Ông tự nhận/ tự thú là “kẻ thất thường hoang tưởng/ Từng tạo ra những hốc tối om cho sự thông minh ngồi im/ Rồi đột nhiên nhảy xổ ra đâm chết tâm hồn”. Bài thơ là một cách nhà thơ cật vấn chính mình, là lời tâm sự với người thân yêu những điều gan ruột, cho vơi đi nỗi lo lắng, bức bối đang chứa chất. Tâm trạng chán nản, cô đơn, nghi ngờ chính là “xương sống” đỡ lấy toàn bộ những “câu chuyện” trong bài thơ. “Tự thú”, là cách ông “lộn ngược chiếc túi” của mình, từ chuyện “ngồi gãi lưng dưới bóng cây… và ngáp, chuyện giày dép trẻ con, xó bếp, người được phong thánh, kẻ bị tử hình”, đến chuyện “quốc gia, chính trị cao sang như nước sạch”, đều được ông “thưa gửi” thẳng thắn, chân thành, lúc nghiêm trang, lúc cười cợt bi hài. Cả bài thơ như thấy ông đi lại ngất ngưởng, và, biết dừng lại ở những hình ảnh đẹp dù chỉ thoáng qua: “Giày dép trẻ con không phải chuyện đùa/ Có thể có thiên thần trong xó bếp…/ Tôi xin, mỗi sớm mai như cằm cô gái đẹp”. Trong hai câu kết bài thơ, nhà thơ tự đẩy mình xa vị trí tự thú ban đầu, mở ra ba góc nhìn: tác giả, hiện thực đời sống và người đọc, tạo những liên tưởng hỗn mang, đa chiều: “Tôi xa lạ với chính tôi/ Như mảnh trăng giữa trời nhìn trăng dưới đáy hồ, ngơ ngác…”
Cường điệu hóa những chuyển động của hình ảnh cũng là cách viết dụng ý của Thi Hoàng. Có lúc ông như cố ý “bình phương”, “lập phương” những hình ảnh, liên tưởng vốn đã được phúng dụ, như cố tình “đùa bỡn” người đọc, làm cho họ hình dung một thế giới vừa bày đặt trong thơ ông, thật như giả, giả mà như thật. Những câu thơ có cách liên tưởng kỳ quặc/ kỳ quái này chắc chỉ Thi Hoàng mới có: “Những nét chữ hay là những con giun/ Nguấy lên làm râm rẩm những cơn đau bụng thẩm mỹ…/ Tiếng phi cơ xé rách trán trời xanh” (Hiện thực tập mờ); “Chiếc lọ cổ rất lâu mới cất tiếng thở dài/ Tưởng nhả ra chiếc đinh khoảng không lút trong cuống họng” (Dấu vết); “Khoảng tối trong mồm bị nắng mắng mỏ/ Dẫu chỉ há ra kinh ngạc vì thế kỷ qua mau” (Giật mình… hoa phượng).
Thi Hoàng thường tiết chế tối đa những tính từ, gia tăng nhiều động từ, đẩy tốc độ của hình ảnh chuyển động nhanh hơn: “Ai đang hát trong mưa/ Nước như băm như thái” (Ai đang hát trong mưa); “Vo ve tiếng muỗi thả dây câu/ Ta dẫu nghỉm chìm nghe vẫn thấy” (Chân dung âm bản).
Ông vận dụng cách nói của ngôn ngữ thông tấn, giao tiếp, thể hiện ý tưởng của mình bằng những câu thơ lạ, chính xác: “Người bồm xộp như cắt ra từ nệm mút” (Để nhớ một cái tên); bằng những hình ảnh ám thị, ám ảnh: “Máy tính ti-vi màn hình có hôm nhùng nhầy như cục đờm thằng nghiện/ Trong ấy có không biết bao nhiêu vi trùng” (Lại theo đuổi tự nhiên); lúc sắc lạnh: “Lông con chó vàng bắt nắng đẹp thế kia/ Đừng có mà hoạnh họe” (Trình bày); những xúc cảm bộc phát, ngộ nghĩnh: “Bố con tôi xin chào nắng mới/ nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con); “Lá ngang nhiên xanh dưới trời da cá lạnh” (Dưới bóng cây).
Ông dùng chữ tinh tường, khôn hoạt, có lúc như người uống trà cố tình để lại một vài cọng trà trong miệng: “À ơi! Lóe sáng ru mù tịt” (Chân dung âm bản); “Nước rê vê hạt rơi soi rọi/ Rau ngây ngô từ lúc biết ngây ngô” (Tưới rau); “Sự chai lì cứ bóng bẩy dần lên cho mình trượt ngã” (Thế kỷ mới); “Những đêm tăm vũng nước tối mơ hồ” (Mùa hè của tôi); “Ý nghĩ lỏng ra đuôi cá quẫy đều” (Bóng tối dưới chân đèn). Chữ của Thi Hoàng thường tỉnh táo, biến hóa tài tình, nhiều lúc như một trò chơi, cho bạn đọc hình dung những quân bài “đô-mi-nô” đang theo nhau đổ xuống: “In trên bao nẻo mưa rơi/ Dấu chân một thời hăm hở/ Bước qua thời hăm hở nữa/ Cơn mưa đang tạnh kia rồi” (Mưa); lúc dùng từ gợi thanh, gợi hình lạ mà chuẩn xác: “Chiều áp tết tiếng giã giò thộp thệp” (Lại theo đuổi tự nhiên).
“Chú chim sâu bé nhỏ”, viết năm 1992, là bài thơ tiêu biểu cho cách dùng chữ của Thi Hoàng giai đoạn đầu đổi mới. Chữ, ở đây được ông tinh lọc kỹ lưỡng, có thể nói là điêu xảo, được đặt trong từ trường cảm xúc nhất quán xuyên suốt bài thơ. Chỉ có hai nhân vật, nhà thơ và con chim sâu, nhưng bạn đọc được chìm ngập trong không gian rộng lớn và thanh sạch, hình dung ông đang hóa thân, tan chảy vào thiên nhiên: “Chú chim sâu nhỏ giọt xuống lòng ta/ Những giọt đoan trang cho hồn ta nhuần nhị”. Đây là cách chơi chữ: “Chú chim sâu bé nhỏ/ Chim chim cơm nóng nuông chiều/ Chim chim nếp xôi đỗ ngậy”. Ánh sáng trong mỗi câu thơ vừa đủ cho bạn đọc thấy tài nghệ của ông, nhưng không lấn át cái “khí” của cả bài thơ như ta thấy ở một số bài khác ở giai đoạn sau này của ông. Bài thơ được viết với lòng biết ơn trời đất, thiên nhiên đã cho con người được ân hưởng từng giây phút kỳ diệu: “Tiếng tinh tích dường như ăn được vậy/ Ráng chiều như váng canh riêu”. Bài thơ mang vẻ đẹp nhân bản và hiện sinh.
Tuy nhiên cách dụng chữ của Thi Hoàng đôi lúc lại như chống lại ông. Bài “Lang thang ở Cúc Phương”, sau câu thơ “Chỉ biết đây là rừng xanh thành thực”, ông viết: “Vỗ về xanh rồi lại nỉ non xanh”. Cách dùng chữ tinh điệu, như chính xác này không phù hợp với “rừng xanh thành thực” ở câu trên. Ánh sáng, tiếng động từ “vỗ về xanh” vừa phát ra, chưa kịp lan tỏa đã bị “nỉ non xanh” chặn lại. “Vỗ về” và “nỉ non” lại biến thành hai gọng kìm xiết lấy câu thơ, chúng giống như đôi chim quý bị nhốt trong chiếc lồng hẹp. Chữ của ông đôi khi còn mang cảm giác gượng ép, cố tình: “Tiếng còi xe được nhìn thấy như mỡ rịn ra hai bên mép” (Lại theo đuổi tự nhiên). Và, ông đã lạm dụng sự thông minh của mình/ thái quá khi dụng chữ; đọc những câu thơ sau đây, ta ngỡ như nhiều “miếng ngon” bị ông liên tiếp đưa vào một “cái miệng” quá nhỏ: “Hắc ín kín bưng dính khét giọng rồ…/ Nắng sặc gạch đôi co đá bỏng…/ Vỡ ngữ pháp động từ đi tị nạn… Sáng quá ghê răng, sáng quá vỡ bát” (Quen thuộc với nỗi buồn).
Thơ có tính truyện được Thi Hoàng vận dụng rất linh họat, sáng tạo. Trong bài “Ngẫu cảm”, ông kể cứ tưng tửng từng mẩu chuyện như chúng chẳng ăn nhập gì với nhau. Chuyện thứ nhất: “Hòn đá rơi trúng đầu/ Chàng trai vào bệnh viện… rồi thành vợ thành chồng quấn quyện”. Tiếp đến mẩu chuyện thứ hai, “bông hoa đẹp nở kề bên ngọn thác” làm “người phải lòng hoa” với ra hái, “tuột chân” mà chết. Hai cửa sổ ấy mở ra trong một bài thơ để ông quan sát, làm xuất hiện câu thơ kết rất độc đáo và gây thảng thốt đến hoang mang: “Sáng dậy thấy còn mình cũng đã là vui!”. Những “câu chuyện” ấy đã đem đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng xa hơn, đa chiều về “thiên nan vạn nan” của đời sống, nhân sinh, thế sự, về sự mong manh đầy hiểm họa của kiếp người.
Thơ văn xuôi được ông sử dụng trong trường ca “Oản tù tì, ra…” với nhiều phạm vi ngữ nghĩa cùng lúc được triển khai, tạo được những va đập, cộng hưởng: “Sông ngòi dãi bày chảy cộn ruột gan, phù sa để tóc dài với tay tắt vợi đi những chói gắt phân chia cho đài các dần lên, nền nã dần lên lùm bóng râm lương thiện”. Các câu thơ văn xuôi của Thi Hoàng thường có nghĩa khá xa nhau, nhưng được liên kết bằng cảm xúc mạnh, nên đã tạo được những khoảng trống cần thiết. Trong một vài trường hợp, ông để những hình ảnh chồng lấn thái quá trong một câu thơ, nên khi đọc toàn bài, người đọc có cảm giác chúng bị “nhiễu sóng”: “Những dấu chấm kia sau cơn mưa đã thành ra muôn vàn xoáy nước dìm chết không tiếc thương những tư tưởng váng dầu, nhưng mô thức lá khô củi mục…”
Thơ viết cho trẻ nhỏ là một mạch chảy ngầm, riêng biệt trong thơ Thi Hoàng. Nó xuyên suốt lộ trình thơ ông, luôn cuộn chảy dưới bề mặt ngổn ngang, gai góc và dữ dằn của đời sống hiện đại, và trong từng thời khắc, bất chợt phun lên những mạch nước trong suốt, mát lành. Mạch thơ cho trẻ nhỏ có lẽ được khởi nguồn từ phần thứ sáu của trường ca “Gọi nhau qua vách núi”, là nơi để nhà thơ nương náu, tránh những cạm bẫy dù là của ngôn từ hay do một trí thông minh sắc sảo lấn át. Bài thơ “Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, viết năm 1999, nằm trong mạch thơ hay viết về trẻ con. Đây là một “trò chơi” của trẻ thơ được nhà thơ bầy đặt trong không gian linh thiêng mà không huyền bí. Mọi nghi thức, tập tục đang diễn ra được “đại xá”, bởi nhà thơ đã xin ông từ giữ đền không “Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì…/ Cho chúng nó chơi đừng đuổi chúng đi”. Nhà thơ gọi tên từng đứa trẻ, gợi cách đặt tên cho trẻ con vần với tên cha mẹ ở các làng quê Việt từ xa xưa, như “thằng Tâm con nhà bố Tầm, cái Nhân con bà Nhẫn”. Ngôn ngữ sinh họat, giản dị đậm chất folklore (dân gian, dân dã…) được nhà thơ vận dụng hợp lý, tài tình; như cách ông răn dạy, “mắng yêu” lũ trẻ: “Trước cửa đền không được giồng cây chuối…/ Lại còn hét lên như giặc cái”. Những hành động vui đùa, nghịch ngợm hồn nhiên của trẻ con trong một buổi chiều làm chúng ta thêm hy vọng khi thấy “Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn”. Bài thơ có cách viết tự nhiên, tinh nghịch như những cử chỉ hồn nhiên, bản năng của trẻ, hợp với cách chơi chữ tung tẩy của nhà thơ, được Thi Hoàng viết trong tâm thức tỉnh táo, không sa đà vào u minh, mù mịt… Khổ cuối bài thơ, ông có cách liên tưởng bất ngờ: “Chợt ngẫm thấy trẻ con là giỏi nhất/ Làm được buổi chiều rất giống ban mai”. Thi Hoàng đã để những trò chơi của lũ trẻ mở cửa một không gian khác, trong lành, thánh thiện ở câu thơ cuối: “Thánh cũng hân hoan. Đố ai biết được/ Ngài ở trong kia hay ở ngoài này”.
Tính phân rã và tự hủy trong tập thơ “Cộng sinh với những khoảng trống” đôi khi thể hiện ở thái độ thái quá trong cách vận dụng ngôn ngữ giao tiếp, sinh hoạt, hoặc cách thức chồng lấn những sự kiện, khái niệm trong một mạch thơ. Nếu lối tạo mạch thơ ấy được sử dụng liên tiếp trong những khổ thơ dài, dễ gây cảm giác như tác giả cố ý đánh mất cái không gian riêng biệt được mở ra từ đầu bài thơ: “Dúm gói cá nhân thăng hoa thăng hoét, thèm khát danh xước rách, suy nghĩ tận lực lôi ra từ ruột gan một trạng thái cũ mèm sao vẫn phải thăng hoa vẫn phải nghiến răng tận lực” (Bóng tối dưới chân đèn). Đoạn thơ sau đây như khúc hát của một gã du ca thời hiện đại, với giọng điệu đầy nghi hoặc và chán nản: “Phải tìm đường đi cho phế thải đi/ Chính gan ruột ta cũng đang làm việc ấy/ Khoác áo choàng tang của thuốc trừ sâu/ Thì đến ma-nơ-canh cũng chết huống chi người/ Trẻ con thích làm đám tang của búp bê thôi/ Còn người lớn rất thích làm đám tang cho các nguyên thủ” (Mở đường). Không gian thơ của Thi Hoàng thường hiện ra trước mắt bạn đọc, nửa như nhà thơ chủ ý sắp đặt, nửa như vô tình mà thấy: “Vỏ chuối trượt chân trời mạt rệp/ Hôi xì ghì ý nghĩ xuống đằng mông/ Buồn đại tiện chứ không buồn sáng kiến/ Đã khá lâu vợ chẳng muốn gần chồng” (Mở đường). Trong bài thơ dài “Mở đường”, Thi Hoàng còn vận dụng cách ví von, biểu hiện của bài đồng dao “rồng rắn lên mây…”, thật ngây thơ, mê đắm: “Phủ nắng Vàng có nàng Mưa nhỏ/ Trong quán trọ có khách gió to”. Nhưng bất chợt ông nổi xung bằng thái độ “thất thường”, gây chú ý đặc biệt: “Đắc thời thì nhắm rượu với đít của mình, mặt ghế với mặt người là một”.
Ở giai đoạn sau này, những hình ảnh trong một câu thơ thường được Thi Hoàng nén chặt, cô đọng hơn trước đây. Nó gây cho bạn đọc cảm giác như đã lấn chiếm cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ: “Đèn quán đêm bạc ra như mủ chảy”; hay, “Ý hóa bãi lầy làm lời trượt ngã/ Lời ơi lời bùn đất có thương không” (Bệnh). Có một số trường hợp, ngay khi câu thơ vừa được ngân lên, thì nhà thơ đã tỏ thái độ nghi ngờ tính xác thực của nó: “Hay cú ngã ấy ở trên bùn đất giả”. Cách viết này đã làm nên đặc điểm, nhưng cũng bộc lộ những hạn chế của thơ Thi Hoàng. Rất nhiều những ý nghĩ vụn rời, biệt lập nhau trong liên tuởng, ngữ nghĩa lại đứng cạnh trong trong một khổ thơ: “Khi thật vui hay thật buồn/ thì thích ở ngoài sân hay trong nhà/ Đây không phải là một câu thơ/ Tóc còn đen mà làm quan rất to/ Đây cũng không phải là một câu thơ/ Mẹ ta mất đã hơn mười năm rồi” (Người đem thơ đi đâu).
Cùng với những câu thơ hay, độc sáng, thơ Thi Hoàng luôn giữ khoảng cách cần thiết giữa nhà thơ và bạn đọc, mà ít có những phiêu lưu, mạo hiểm. Có lúc ông cố tình giải thích một ý tưởng vừa viết, vốn đã khá rõ ràng, nhưng vẫn băn khoăn sợ người đọc có thể chưa hiểu hết. Ông là nhà thơ giỏi tự diễu, tự biết mình và thích cách nói thái quá: “Thì bằng những câu thơ vơ bèo vạt tép/ Ta cũng thành nhà thơ đấy thôi” (Người ta ai lại thế). Nếu đánh giá suốt hành trình sáng tạo của Thi Hoàng, thì tính cường điệu trong tự chiếu, tự giễu lại chính là thế mạnh, giúp cho nhà thơ biết bình tĩnh, lạnh lùng nhìn lại mình và liên tiếp thực hiện những cuộc khai phóng.
Đến tập thơ “Chìm vào mật nóng” (Nxb Hội Nhà văn, 2011), ngoài sự ổn định về cấu tứ nội dung và thủ pháp nghệ thuật, nhà thơ đã tìm về cách biểu hiện trong sáng ở tập thơ đầu, “Nhịp sóng” (1976), phát huy sự giản dị nhiều nội lực của “Ba phần tư trái đất” (1979), tầm vóc và phồn sinh trong “Gọi nhau qua vách núi” (1996), cũng như thể hiện tài hoa và bay bổng trong “Đom đóm và sao” (1997) và “Bóng ai gió tạt” (2001). Thơ ông lúc này như con nước lặng lẽ trong bài thơ “Sông đêm”: “soi thấy ta trong ánh đêm một khuôn mặt lạ lùng/ bí ẩn xõa tóc đen mượt/ hơi ẩm bảo nơi người, ngày bối rối thì đêm chải chuốt”. Hai câu thơ kết “Nước ong óng phải lòng và lịch duyệt/ Ăn mặc tử tế vào ra chào dòng sông” trở về cách nghĩ và cách cảm quen thuộc trong tập “Đóm đóm và sao”: “Bố con tôi xin chào nắng mới/ nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con). Thơ Thi Hoàng gần đây tuy vẫn gai góc, sắc nhọn nhưng ít nhói buốt hơn trước, vẫn giữ thái độ tự chiếu, phản tỉnh mà không cay cú: “Một im lặng săn chắc/ Nối vào miền tăm cá bóng chim/ Từ một tịt đến muôn vàn, chó đá giữ bình yên/ Trong lòng người có cái đẹp thường không thèm chấp” (Ngồi với chó đá). Mọi động chuyển, dư ba trong lòng ông như đã lặng dần xuống, muốn lắng đến trong veo: “thương giàn mướp leo qua vai ta ra quả/ mùi mướp hương thương mái bếp nhà nghèo” (Về cái không phải là tôi của tôi). Những cung bậc hờn giận, mất-còn buốt xót trong “Chìm vào mật nóng”, ngỡ như không còn nhiều hệ lụy đối với Thi Hoàng nữa. Ông là người “Kéo mộng gửi vào mơ tìm đêm rơi ngày tuột/ Miệng vết thương lên cao vút một giọng ca nhói buốt/ Tôi leo lên cái giọng ca kia nhìn xuống vết thương mình” (Mộng gửi vào mơ). Ta gặp cách nói chân thành, nhuần nhụy hơn trước: “Phận em chữ nghĩa rỉa ơ hờ/ trên trang giấy có dấu chân bỏ chạy” (Thương chị).
Thi Hoàng là nhà thơ luôn tự làm mới từng câu, từng ý, cố nhích lên theo dấu mốc thời gian dù chỉ nửa bước chân. Ý chí và tinh thần sáng tạo ấy của ông luôn là tấm gương, là bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Tôi trân trọng ông ở thái độ ứng xử với thi ca trong những câu thơ: “Nhớ lại câu thơ mình riết róng viết ra/ Về phố cũ đường nét xưa di chú/ Chữ béo ú mắt díp lại ngái ngủ/ Trang giấy mặt đường không ra được ngã năm thiết tha…/ Đem đốt bài thơ đi cho nước non đứng đắn/ Cho trăng đàng hoàng thanh sạch sáng nghiêm minh” (Tôi không thấy thơ mình như trước nữa). Phải chăng ông tự mình đã nhìn thấy hết sức mình, biết chấp nhận “thất bại”, tuy bạn đọc có thể hiểu sự “thất bại” ấy chỉ do ông tự hoạch định, tự đặt ra ranh giới khắc nghiệt cho bản thân mình. Như nương vào sự thông minh, nên ông đã nhìn thấy đích đến, hoặc chân trời xa hơn, rộng hơn, nhưng biết mình không thể vượt qua nữa. Phẩm chất đó của ông chính là tài sản quý để lại cho thế hệ cầm bút tiếp theo, trên hết, là cái Đức và lòng dũng cảm của kẻ sáng tạo.
*
Thơ Thi Hoàng là những chặng đường từ truyền thống đến hiện đại, cách tân kết hợp với những giá trị ổn định trong mọi vỉa tầng của văn hóa dân tộc, đóng góp quan trọng vào cuộc đổi mới thơ Việt trong hai thập niên qua. Nhà thơ Thi Hoàng từng đọat nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1996, cho tác phẩm “Gọi nhau qua vách núi” và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2007, cho nhóm tác phẩm “Nhịp sóng”, “Ba phần tư trái đất”, “Gọi nhau qua vách núi”, “Bóng ai gió tạt”. Trong lời mở đầu bài viết, tôi nhận xét thơ Thi Hoàng là gạch nối giữa thế hệ ông với một số nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng cách tân sau 1975; bởi, ông không thể vượt qua từ trường, giới hạn mà thời đại, thói quen, và, có thể chính cá nhân ông đã trù định. Có thể gọi Thi Hoàng là nhà thơ của trường ca. Đây là miền đất rộng để ông được tự do bầy đặt ý tưởng và thể hiện bút lực của mình. Từ “rễ cái” nhân sinh, thế sự, thơ ông lan tỏa, bời ngợp nhiều lĩnh vực, với giàu có liên tưởng, phồn tạp cảm xúc trong đa dạng bút pháp. Nếu mỗi thế hệ có ý thức hệ, có tiếng nói của riêng mình, thì Thi Hoàng đã đi xa hơn thế hệ, tuổi tác của ông. Trong thơ ông có hai con người, vừa già vừa trẻ. Thi Hoàng là người trẻ vì sức bật dũng mãnh, liên tiếp thực hiện những cuộc lên đường, làm cho thơ mình biến đổi rõ nét qua từng giai đoạn. Nhưng ông khác biệt thế hệ trẻ, là luôn tự chiếu, tự biết giới hạn dừng lại, như trong một câu thơ của ông có “chân trời” mà ông từng lo sợ đó là “chân trời kim loại”: “Đắp một con đê theo dọc lòng mình/ Ngăn ý chí đẩy xô tới chân trời kim loại”. Thi Hoàng cũng đã vượt qua sự cản ngăn của “chân trời kim loại” trong lòng mình. Đó là con người không ngừng tìm tòi những giá trị cách tân về tư tưởng cho thơ ca, không chịu làm kẻ soi ngắm những thành quả đã gặt hái trong đời thơ của mình. Ông đã “Nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây cao”, như sức bật của kẻ gắn thơ với triết luận.
Hải Phòng, 12/2012 M.V.P
Giá Trị Và Vị Trí Tập Thơ “Việt Bắc” Trong Hành Trình Thơ Tố Hữu
Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thực sự có giá trị và giữ vị trí xứng đáng trong nền thơ ca kháng chiến, bởi n ó đã góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra cho nền văn nghệ mới Việt Nam sau 1945. Đó là vấn đề dân tộc và đại chúng, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền, vấn đề vốn sống và kỹ năng nghề nghiệp, vấn đề hiện thực và lãng mạn, vấn đề nội dung và hình thức Tố Hữu trong tập thơ Việt Bắc đã góp ph ần của mình không bằng lý luận mà bằng sáng tác, để giải quyết các vấn đề đó, và trở thành ngọn cờ tiêu biểu, đứng ở hàng đầu nền thơ ca cách mạng sau 1945- Từ Việt Bắc chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu về con đường đi của thơ đó là con đường gắn bó với nhân dân phục vụ lợi í ch của cách mạng.
họ như những tiếng ru ngọt ngào, sâu lắng.Vì thế, quê hương cách mạng Việt Bắc đã trở thành quê hương chung của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 CHƢƠNG III GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” 3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng 3.1.1. Thể thơ, câu thơ Nếu như ở Từ ấy Tố Hữu sử dụng phần lớn là thể thơ 7 chữ, 8 chữ, thậm chí nhiều bài có vẻ trau chuốt để “thành thơ”, thì đến Việt Bắc phong cách thơ của Tố Hữu đã bám sát đời sống quần chúng: phản ánh sinh hoạt của nhân dân, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa đựng lối nói, lối nghĩ của quần chúng, với hình ảnh đậm đà màu sắc ca dao dân ca, với thể thơ phong phú, linh hoạt. Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể lục bát của văn học dân tộc, kết hợp đặc sắc của thơ ca dân gian và cổ điển. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát cổ của bình dân vừa phảng phất lối đối theo từng vế giống như những câu thơ cổ điển của Truyện Kiều, hoặc Chinh phụ ngâm: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan. ( Phá đường, 1948) Hay: Anh về, cối lại vang rừng Chim reo quang mái, gà mừng dưới sân Anh về, sáo lại ái ân Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca… (Lên Tây Bắc, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Tình cảm mặn nồng, sự vỗ về của tình bà cháu, tình mẹ con trong sự hoà hợp với tình yêu đất nước được Tố Hữu sử dụng bằng thể thơ lục bát như lời hát ru ngọt ngào thật yêu thương: Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu ngủ với bà Bố mày đi đánh giặc xa cha về. ( Cá nước, 1947) Phần lớn các câu thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu đã tiếp nối và gắn nối được cái truyền thống của ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam, khai thác triệt để khả năng diễn đạt của câu thơ lục bát trong truyền thống văn học dân tộc để miêu tả cuộc sống của nhân dân một cách sinh động. Gắn với truyền thống cổ điển Việt Nam, Tố Hữu luôn tìm cách làm mới mình trước những trang thơ. Ông viết những vần thơ 7 chữ mà ta thấy nhiều lúc có bề thế của câu thơ 8 chữ nhằm thể hiện không khí dồn dập, sôi nổi trong cuộc kháng chiến của nhân dân: Nghe trưa nay tháng năm mùng bảy Trên đầu bay thác lửa hờn căm Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 Hay mấy câu thơ mở đầu Ta đi tới. Ở đây Tố Hữu đã vận dụng một cách linh hoạt việc sử dụng niêm luật, phối thanh, nhạc điệu khiến cho câu thơ khi đọc lên ta nghe thật thoải mái, phù hợp với tâm hồn con người đã được làm chủ đất nước: Trên đường cái ung dung ta bước Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên (Ta đi tới, 1954) Qua Tố Hữu, những câu thơ vốn hiền lành như bốn chữ, năm chữ cũng nói lên được cái đồ sộ, hoành tráng, hùng vĩ: Voi là voi ơi Voi gầm voi ré Voi xé tơi bời ! (Voi, 1948) Ở bài Lượm ta lại cảm nhận được cái nhanh nhẹn, tháo vát, mạnh bạo, không sợ hiểm nguy của bé Lượm giữa làn đạn của kẻ thù: Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề” thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo ? (Lượm, 1949) Để có đủ khả năng biểu hiện nội dung mới, thể thơ nhiều khi phải phá luật. Trong mỗi bài thơ, Tố Hữu không chỉ sử dụng một thể thơ lục bát, song thất lục bát, hay ngũ ngôn… mà còn sử dụng linh hoạt tất cả các thể thơ trong cùng một bài để nhịp thơ ăn khớp với nhịp suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Bài thơ Phá đường là minh chứng khá rõ việc Tố Hữu phối hợp các thể thơ, làm cho bài thơ thật dồi dào tính nhạc: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng đèo Khế gió sang Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong … Trên đồi quê Trăng non mới hé Đường thì dài, Hố xẻ chưa sâu Chưa sâu thì cuốc cho sâu Có anh có chị cùng nhau ta đào ! Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào ! ( Phá đường, 1948) Chỉ trong một đoạn thơ, Tố Hữu đã sử dụng các thể thơ khác nhau, khi thì dàn trải, khi trở nên mềm mại uyển chuyển, khi lại sôi nổi hào hứng… khiến cho nhịp điệu phong phú, linh hoạt theo cảm xúc, sự việc, mà tác giả muốn bộc lộ. Thành công của bài Phá đường được củng cố bởi hàng loạt các bài thơ khác, như Hoan hô chiến sĩ Điện Biên: Tin về nửa đêm Hoả tốc hoả tốc … Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp ! Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi… Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ… (Hoan hô chiến sĩ Điện biên, 1954) Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt những câu thơ tự do, ngắn dài khác nhau, để diễn đạt những nội dung tư tưởng, tình cảm biến đổi. Đọc đoạn thơ trên ta như hiểu được sau những trận đánh dữ dội của quân và dân ta là một niềm xúc động trào dâng khi nhận được tin quân ta chiến thắng, câu thơ thật ngắn gọn, dồn dập, bỗng được ghi lại bằng những câu thơ dài khi nói tới niềm vui chiến thắng, và trong niềm vui chiến thắng ấy là chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh Tổ quốc, hình ảnh Bác Hồ kính yêu của dân tộc. Câu thơ dài, nhịp thơ sôi trào, thể hiện niềm vui vô bờ của quân và dân ta sau chín năm gian khổ trông đợi để có được ngày hôm nay. Khi cần gợi khí thế sục sôi của chiến dịch Điện Biên, muốn ghi lại những gian khổ hy sinh nhưng đầy ý chí kiên cường của quân và dân ta, Tố Hữu cũng sử dụng những câu thơ ngắn dài khác nhau: Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn Những đồng chí thân chôn làm giá súng… ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Hoặc khi cần nói tới các miền đất khác nhau của Tổ quốc, nhắc đến chiến công của chiến khu cách mạng, nhà thơ cũng sử dụng đắc địa việc phối hợp các thể thơ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai về thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng Ai về thăm Bưng Biền Đồng Tháp Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp… (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu sử dụng những câu thơ liền mạch, thường theo diễn biến của tình cảm, theo lối “các câu thơ gọi nhau”, nên “tiếng gọi” của câu đầu có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bài thơ: Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái ung dung ta bước Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên… (Ta đi tới, 1954) Trong bài thơ Việt Bắc nhà thơ cũng tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, các câu thơ “ríu rít” gọi nhau, hai nhân vật “Mình” và “Ta” cứ xoắn xít, đan cài từ đầu đến cuối bài thơ: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?… (Việt Bắc, 1954) Nhìn chung, Tố Hữu rất thành thạo trong các thể thơ truyền thống. Đối với ông tất cả đều là thơ điệu nói- đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Đình Sử. Đó là thơ của người Việt Nam hiện đại, là kiểu thơ dân tộc hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 3.1.2. Nhạc điệu Khi nói đến nhạc điệu trong thơ Tố Hữu, thì ta cảm nhận được trong những vần thơ của ông luôn chứa đựng một thứ nhạc đặc biệt đó là nhạc điệu tâm hồn nhà thơ. Nó là sự kết tinh hiện thực phản ánh trong thơ, chất suy nghĩ, sự xúc động và sức tưởng tượng của tác giả. Nhạc điệu tâm hồn nhà thơ được toát ra từ toàn bộ hình tượng thơ, từ cấu tứ, hình ảnh, kết cấu … Nhờ có nhạc điệu của tâm hồn nhà thơ mà những vần thơ của ông luôn theo sát và đến thẳng tâm hồn bạn đọc. Thơ Tố Hữu là tiếng nói của lẽ sống lớn, tình cảm lớn. Tâm hồn thơ ông thật trong sáng, giàu có và đa dạng. Do luôn chứa đựng một tình yêu thương rất lớn, nhiều người đã gọi ông là “thi sĩ của tình thương”. Tình yêu thương của Tố Hữu không chỉ được thể hiện qua câu, chữ, hình ảnh mà còn được thể hiện qua hình tượng âm nhạc của thơ, cố nhiên nhạc điệu của câu thơ không chỉ ở chữ nghĩa mà còn ở những khoảng trống, những chỗ im lặng giữa các chữ, các dòng. Và nhạc của thơ cũng không chỉ là nhạc của âm thanh, của lời mà quan trọng là thứ nhạc của tâm tình, như Xuân Diệu đã nhận xét: “Đọc thơ Tố Hữu, người ta nhận thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu nhiều khi thành một thứ “thi tại ngôn ngoại” của Tố Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó, theo ý tôi, là lòng thương mến” .Ta có thể nhận thấy thứ nhạc đặc biệt đó trong bài Lên Tây Bắc: Lại những ngày đi, vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương Đêm mưa rình giặc, tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương. ( Lên Tây Bắc, 1948) Những câu thơ chứa chan tình cảm đối với anh bộ đội trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ hồi bấy giờ. Và tình cảm đó đã truyền được đến người đọc qua cách gieo vần của nhà thơ, qua âm hưởng của những chữ sương, bương, xương, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 đọc lên thật xúc động. Nhưng điều quan trọng hơn còn là phần thơ ở ngoài lời, phần không thể nói ra được bằng lời, cũng không thể nói hết bằng âm thanh nhịp điệu vì bao trùm lên hết thảy là tâm hồn nhà thơ. Tố Hữu cũng đã có lần nói: “Thơ là cái đó, sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có những tiếng dội rất đa dạng và rất tinh tế”. Thơ Tố Hữu có rất nhiều bài đạt tới sự hoà hợp giữa thứ “nhạc bên trong” của tâm hồn và “thứ nhạc bên ngoài” của bài thơ như mấy câu thơ trong Sáng tháng Năm: Vui sao một sáng tháng Năm Đường về Việt Bắc, lên thăm Bác Hồ Suối dài xanh mướt nương ngô Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn… (Sáng tháng Năm, 1951) Tố Hữu là nhà thơ nhạy cảm đặc biệt với nhạc tính của tiếng Việt và biết phát huy cao độ khả năng biểu cảm của nó. Vì vậy trong thơ ông tính nhạc rất giàu có, chất dân tộc sâu đậm, đặc biệt là giọng mộc mạc, đằm thắm của ca dao. Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già: Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về (Cá nước, 1947) Đọc thơ Tố Hữu, ta cảm thấy có cái gì như muốn ca lên, hát lên và ngân nga mãi trong lòng: Con ơi con ngủ cho ngoan Sang canh trăng lặn, buổi tan mẹ về… (Phá đường, 1948) Giữa bao nhiêu giọng điệu thơ Việt Nam hiện đại, thơ Tố Hữu có giọng điệu riêng, độc đáo. Đó là giọng tâm tình, ngọt ngào, thiết tha, giọng của tình thương. Đọc thơ ông người đọc luôn bị cuốn hút trong cái đằm thắm, da diết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 thường trực, tràn đầy từ sâu xa đáy lòng của nhà thơ. Có thể nói, phần lớn các bài trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu được viết bằng giọng điệu này. Lưu Trọng Lư đã nhận xét: “Thơ anh nhiều phong vị dân gian, giàu âm nhạc, nên dễ vào lòng quần chúng, nhất là quần chúng nông thôn. Nhiều câu thơ trong Truyện Kiều đã biến thành lời ru bên nôi, thì nhiều câu thơ trong Việt Bắc đã biến thành tiếng hát ruộng đồng. Thơ anh dân tộc, dân gian chỉ vì anh muốn nó đại chúng”, ta bắt gặp trong bài Voi âm hưởng điệu hò của người kéo gỗ: Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng… (Voi, 1948) Ở Bà mẹ Việt Bắc, lại là điệu vè kể chuyện của quần chúng: Con mé có ba Trai hai gái một Giá gả chồng xa Trai còn đứa rốt (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Với Phá đường lại có cách xưng hô ngọt ngào, nhịp điệu uyển chuyển ngay trong lời nhân vật tự giới thiệu: Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong ( Phá đường, 1948) Trong thơ Tố Hữu ta còn bắt gặp nhiều cách xưng hô thân thương trìu mến: bác, bầm, em, cha, mình, ta…Đặc biệt với bài Việt Bắc, chúng ta như được tiếp xúc với một bài ca dao dài, là cuộc đưa tiễn nhau của hai người yêu nhau. Từ cảnh chia ly đến nỗi nhớ, từ điều tâm sự, nhắn nhủ đến nỗi ước mong, hò Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 hẹn…đều in rõ dấu vết của lối đối đáp nam nữ trong ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không phải là đôi trai gái, Tố Hữu mượn mối tình nồng thắm của đôi trai gái trong ca dao, dân ca để nói đến tình nghĩa keo sơn của người cán bộ cách mạng với nhân dân, với kháng chiến, cụ thể là đối với chiến khu Việt Bắc. Tố Hữu muốn nhắn nhủ những người cán bộ khi hòa bình trở lại thủ đô thì đừng bao giờ quên “Nhớ khi giặc đến giặc lùng, rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, đừng quên những ngày gian khổ kháng chiến “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Tố Hữu muốn khẳng định tình đoàn kết khăng khít giữa đồng bào miền xuôi và nhân dân miền ngược. Bên cạnh giọng trữ tình tha thiết, trong tập thơ Việt Bắc không thể thiếu giọng anh hùng ca. Nhưng ngay cả “những bài vang dội giọng anh hùng ca vẫn đậm đà giọng trữ tình tha thiết. Nhiều khi hai giọng đó vẫn quyện lấy nhau nhuần nhuyễn và vẫn nổi bật cái nền trữ tình nồng thắm” (Nguyễn Trung Thu). Điều đó đã giúp ta cảm nhận được cái nhạc điệu ngọt ngào trong tập thơ Việt Bắc: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo ( Cá nước, 1947) Hay: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn ! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Cái ngọt ngào trong thơ Tố Hữu còn ở hơi thở dân tộc. Nhiều câu thơ Tố Hữu kế thừa rất sáng tạo vốn cổ điển và vốn dân gian. Câu thơ hiện đại mà nghe có hơi của điệu ngâm: Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà Mình về mình có nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu biết học cách sáng tạo trong Kiều và ca dao, cái hơi vè dân gian được sống dậy và nâng lên thành nghệ thuật: Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời Đêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm. (Bao giờ hết giặc, 1948) Hơi thở dân tộc đã tạo cho thơ Tố Hữu giàu chất nhạc. Mỗi tiếng “Ai” cất lên như xoáy vào mỗi chúng ta một lòng yêu nước tha thiết. Ai về Hưng Hoá Ai xuống khu Ba Ai vào khu Bốn Đường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!… (Ta đi tới, 1954) Một trong những yếu tố để tạo nên chất nhạc trong tập thơ, đó còn là việc chọn lọc từ. Tố Hữu “là một nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình”. “Tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 nhạc trong thơ Tố Hữu” [33]. Nhà thơ sử dụng từ tượng thanh một cách chính xác và thích hợp với hoàn cảnh mô tả, góp phần làm tăng tính nhạc cho câu thơ: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca… (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu sử dụng từ lấp láy với những biện pháp đa dạng và sáng tạọ. Thơ dân gian và các nhà thơ lớn của văn học Trung đại như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…đã sử dụng thành thục loại từ này. Tố Hữu đã học tập được cách sử dụng ngôn ngữ đó của ca dao, của các nhà thơ lớn. Nhà thơ đã vận dụng một cách thành công, và nâng cao nhạc điệu thơ lên, điển hình như trong bài Lượm. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh (Lượm, 1949 ) Vần trong thơ Tố Hữu, cũng góp một phần khá quan trọng làm giàu nhạc điệu của thơ. Dù ở bất kỳ thể thơ nào Tố Hữu luôn quan tâm đến vần. Nhiều đoạn thơ Tố Hữu vần thơ cứ nối tiếp, quấn quýt với nhau. Bà bủ không ngủ, bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về… (Bà bủ, 1948) Việc chọn từ giàu âm thanh và gieo vần rất quan trọng đối với nhà thơ, nhưng quan trọng hơn nữa là việc phân phối, hoà hợp âm thanh của từ để tổ chức nên tiết tấu, âm điệu thơ, tức là tổ chức nên nhịp điệu. Trong thơ Tố Hữu nhịp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 điệu không gò gượng mà biến hoá tinh tế theo mạch cảm xúc, góp phần biểu hiện tâm tình một cách tài tình uyển chuyển. Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. (Việt Bắc, 1954) Thơ Tố Hữu rất tinh tế, tiêu biểu như đoạn thơ lục bát trong bài thơ Phá đường, mang nhạc điệu của dân ca xứ Huế, khiến cho thơ Tố Hữu có nhạc điệu dân tộc ấm áp và phóng khoáng. Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, / nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ, / sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng/ đi phá đường quan. Con ơi/con ngủ / cho ngoan Sang canh/ trăng lặn,/ buổi tan/ mẹ về… (Phá đường, 1948) Tố Hữu sử dụng nhịp thơ 4-4 trong các câu 8 ở sáu dòng trên, đã góp phần thể hiện không khí khẩn trương của việc đi phá đường với tinh thần dứt khoát gác việc gia đình để đi làm việc công của người phụ nữ Bắc Giang. Nhưng đến ngay dòng 8 tiếp theo thì nhịp thơ chậm lại và chuyển theo nhịp 2-2-2-2, đó là điệu ru con ngọt ngào, đầm ấm nặng tình người mẹ. Nhịp thơ, ngay trong cùng một thể lục bát, đã có sự chuyển đổi nhịp điệu rất nhanh mà rất hợp khiến ta có cảm giác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 như thấy được bước thời gian đi và bước chân người mẹ về, cùng với phong thái thanh thản của người mẹ bên con. Hoặc trong bài thơ Việt Bắc cũng với cách ngắt nhịp chẵn 2/2/2 hoặc 4/4, cách ngắt nhịp này tạo nên một cảm giác bâng khuâng, nhẹ nhàng, tha thiết: Mình về/ mình có/ nhớ không Nhìn cây/ nhớ núi/ nhìn sông/ nhớ nguồn? ( Việt Bắc, 1954) Và: Mình về/ mình lại /nhớ ta Mái đình Hồng Thái/ cây đa Tân Trào. (Việt Bắc, 1954) Nhiều đoạn thơ, Tố Hữu đã ngắt nhịp táo bạo làm cho tâm trạng tác giả nổi bật hẳn lên và tác động rất sâu vào tình cảm của người đọc. Lượm là một ví dụ tiêu biểu: Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè… (Lượm, 1949 ) Từ đầu bài thơ, Tố Hữu sử dụng thể thơ bốn chữ, bốn dòng một khổ để kể chuyện về chú Lượm, nhí nhảnh, hồn nhiên và những kỷ niệm vui tươi giữa chú Lượm và tác giả. Nhịp thơ dí dỏm, nhảy nhót tươi tắn. Nhưng đến khi nhận được tin nhà thì Tố Hữu đột ngột cắt đôi dòng thơ bốn chữ và để riêng thành một khổ, thể hiện sự đau xót, mất mát khi Lượm hy sinh. Ra thế Lượm ơi ! Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Tố Hữu còn rất điêu luyện trong việc phân phối âm thanh, tăng sức biểu hiện của nhịp điệu. Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, có những câu thơ Tố Hữu sử dụng thanh trắc liên tiếp, thể hiện nhịp điệu dồn dập, không khí chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên. Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến, quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Hay trong bài Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng câu thơ liên tiếp vần bằng, để thể hiện tình cảm thắm thiết của con người. Đường về, đây đó gần thôi ! Hôm nay rời bản về nơi thị thành Nhà cao, chẳng khuất non xanh Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường ( Việt Bắc, 1954) Nhịp điệu mô phỏng cũng góp phần tạo nên tính nhạc. Đọc những câu thơ trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chúng ta như nghe thấy rõ tiếng vó ngựa dồn dập trên núi rừng Việt Bắc đưa tin chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Tin về nửa đêm Hoả tốc hoả tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc cháy sáng rừng… (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Nhiều lần Tố Hữu đã đưa vào thơ nhịp điệu lao động và chiến đấu của quần chúng một cách tinh tế và đầy sáng tạo. Từ nhịp điệu lao động khẩn trương, vất vả của người dân công phá đường giai đoạn đầu kháng chiến: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào! (Phá đường, 1948) Đến nhịp điệu chuyển pháo căng thẳng, chắc nịch, lạc quan của đơn vị pháo binh: Ta đi lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi khó nhọc Khó nhọc cũng trèo ! (Voi, 1948) Cùng với nhịp điệu mô phỏng, Tố Hữu còn vận dung nhịp điệu trùng điệp trong những khúc thơ : Ta đi tới trên đường ta bước tiếp Rắn như thép,/ vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, / dài như sông (Ta đi tới, 1954) Có khi Tố Hữu cho trùng điệp từ: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Thơ Tố Hữu luôn có sự hào quyện giữa nhạc và ý. Đúng như Hoài Thanh đã nhận xét: “Nhạc thơ quyện lấy lòng ta ngay khi ta chưa kịp nhận rõ ý thơ”. Quả thật thơ Tố Hữu “vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý” [33]. Nhạc điệu trong tập thơ Việt Bắc mang tính quần chúng, tính dân tộc sâu sắc, vừa bình dị, vừa nâng cao. Những tư tưởng tình cảm, những hiện thực của đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 sống quyện với sự hài hoà của âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu phù hợp với nếp thẩm mỹ quen thuộc của quần chúng, khiến thơ Tố Hữu dễ gần gũi, dễ đi sâu vào tâm hồn người đọc, đông đảo quần chúng đã nhớ, đã thuộc thơ Tố Hữu điều đó là minh chứng cho sự thành công của nhà thơ. 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh Tố Hữu không cố công tìm tòi ngôn ngữ mới lạ mà ông sử dụng ngay thứ ngôn ngữ rất phong phú, giản dị, trong sáng của quần chúng nhân dân. Mai Hương và Phong Lan đã có lý khi nhận xét: “Thơ Tố Hữu không cầu kỳ, không kỹ xảo, hầu như không dùng điển tích, điển cố, từ Hán – Việt mà chỉ dùng tiếng nói thường ngày của nhân dân. Ta có cảm giác Tố Hữu làm thơ rất dễ dàng, mạch thơ ông cứ trào lên và cuốn đi cuồn cuộn, thế nhưng thơ ông vẫn cứ hay, vẫn cứ đọng lại trong lòng người lâu dài” [25]. Trước hết cần thừa nhận thơ Tố Hữu rất bình dị. Bình dị ngay cả những lúc ông chủ tâm nói đến những vấn đề lớn lao của thời đại. Trong thơ ông gần như tràn ngập những hình ảnh quen thuộc, thường ngày; như: lúa, ngô, khoai, sắn, mạ non, cơm dé, áo tứ thân, cơm chấm muối, rừng nứa bờ tre, hoa chuối…Ông có ý thức trong việc đưa những hình ảnh, lớp từ ngữ bình dị gần với cuộc sống của người dân vào trong thơ để thơ ông cũng trở nên bình dị gần gũi với họ: Khoai mãn mùa đi, đến sắn về Say màu hương mới, dậy hồn quê Rướn thân lên trải ngàn tay rộng Như những chàng trai đón bốn bề. (Tình khoai sắn, 1946) Hay trong bài Bầm ơi: Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần. (Bầm ơi, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ địa phương như: mé, ông ké, bủ, … Có thể nói thơ Tố Hữu rất bình dị, vì thế mà người ta nói thơ Tố Hữu mang tính đại chúng cao, được nhiều người ưa thích, một thời đã đi vào lòng người đọc như lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ: Con mé có ba Trai hai gái một Gái gả chồng xa Trai còn đứa rốt… (Bà bủ, 1948) Thơ Tố Hữu còn thấm nhuần ngôn ngữ trong văn học dân gian, một ngôn ngữ sống động. “Nó không chỉ là chữ a, chữ b, mà là cả cái tiếng vang lên trong từng chữ, tiếng vọng của cả cái khoảng cách giữa những chữ, những dòng…” [33]. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều câu thơ có lối so sánh ví von kiểu ca dao trong thơ ông: Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu còn sử dụng nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ như: Lạnh tay, lạnh chân Đứng trơ như đá Hồn bay vía bay (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Có những câu thơ Tố Hữu lấy một phần của câu tục ngữ cộng thêm một phần lời thơ của mình: Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà. (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 Như vậy, ngôn ngữ thơ rất Tố Hữu, rất dân gian, đại chúng. Sự có mặt của ngôn ngữ dân gian, của đời sống hàng ngày khiến cho thơ ông trở nên bình dị, gần gũi thân thương. Đằng sau lớp ngôn ngữ bình dị ấy, nhà thơ muốn diễn tả một nội dung lớn lao, gắn với các vấn đề của cộng đồng, của thời đại, là nguồn cổ vũ động viên nhân dân đấu tranh, tin tưởng vào tương lai đất nước. Cùng với ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu rất đa dạng, có những hình ảnh hiện lên rõ nét nhìn là thấy: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca. (Ta đi tới, 1954) Có những hình ảnh cụ thể gây xúc động, thấy là lòng người rung lên nhớ mãi: Hình ảnh em bé Lượm dũng cảm mà đáng thương bị chết dưới làn đạn của giặc nhưng hình ảnh của em vẫn sống mãi trong lòng nhà thơ. Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi ! (Lượm, 1949 ) Hay những bài thơ viết về người mẹ, đọc lên khiến ta thấy xúc động trước tấm lòng yêu nước, yêu con, hy sinh bản thân cho cách mạng: Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo, càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về. (Bao giờ hết giặc, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 Và hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù… (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Song thơ Tố Hữu bao giờ cũng là hình ảnh thật của đời sống, những hình ảnh sinh động, là sự hoà quyện giữa người và cảnh tạo nên một khung cảnh thật ấm áp tình người: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. (Việt Bắc, 1954) Khi nói đến Tổ quốc, hình ảnh thật “hồn nhiên”, nên thơ có những gam màu, âm thanh,… lắng sâu vào tâm hồn. Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca… (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu còn thiên về loại hình ảnh “động” đang diễn biến, đang tiến triển. Ngay khi nhà thơ cảm xúc, một nét, lại một nét cứ bồi thêm vào nhau để dựng nên hình. Không ai khác đó là Hồ Chí Minh, “Người là Cha, là Bác, là Anh” của dân tộc: Nhớ Người những sớm tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người… (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Bài thơ Phá đường cũng biểu hiện khá rõ biệt tài của Tố Hữu trong việc xây dựng những hình ảnh động, gợi lên không khí lao động khẩn trương của chị dân công phá đường. Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào… (Phá đường, 1948) Nhịp thơ náo nức, trầm hùng khi miêu tả cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng, Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. (Việt Bắc, 1954) Ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu thật phong phú, đa dạng, gần gũi, bình dị, Ông không tìm tòi ở đâu cao xa mà có ngay trong đời sống kháng chiến, trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đó là những đóng góp đáng quý của thơ ông trên xu hướng tìm tòi bản sắc dân tộc đại chúng. 3.1.4. Niêm luật và vần Tố Hữu là nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều của dân ca nên thơ ông thường mang hơi thở của truyền thống. Xuân Diệu đã từng nói: “Không học ca dao từ nhỏ thì làm sao học giỏi thơ được”. Vì vậy vần thơ của ông mang đặc điểm của thơ truyền thống. Đó là tôn trọng lệ “nhị, tứ, lục, phân minh” trong thể thơ truyền của văn học cổ truyền: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về. (Cá nước, 1947) Sử dụng trong cách hiệp vần. Các âm tiết hiệp vần thường có phụ âm đầu khác nhau, phần vần lặp lại và các vần thường mang thanh bằng. Đặt những câu thơ của Tố Hữu bên cạnh những câu ca dao lục bát thì ta khó có thể phân biệt được đâu là thơ Tố Hữu và đâu là câu ca dao. Nếu ca dao có câu: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Thì thơ Tố Hữu cũng góp phần vào vốn ca dao ấy những lời thơ thật ngọt ngào, tha thiết: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần không chỉ mang thanh bằng mà còn mang thanh trắc, hoặc phối hợp hai thanh bằng- trắc. Những cách hiệp vần này trong thơ Tố Hữu ít gặp ở những nhà thơ khác. Điều đó ghi nhận nét độc đáo trong thơ ông, khác với Xuân Diệu, Nguyễn Bính sau này. Trong thơ Nguyễn Bính ta cũng bắt gặp kiểu gieo vần lạ, bất thường: Trên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Nhưng không thể giống với Tố Hữu ở những vần được gieo kết hợp giữa âm tiết mang thanh bằng và âm tiết mang thanh trắc như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần này còn xuất hiện ngay trong câu lục và câu bát, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ: Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời (Bà bủ, 1948) Các âm tiết gieo vần với nhau đều mang thanh trắc cũng đã chứa đựng trong nó một nội dung, đó là khát vọng thay đổi quê hương đất nước. Hàng loạt âm tiết mang thanh trắc ấy dường như để diễn tả sự uất ức, hận thù và đầy nước mắt trước cảnh điêu tàn, tan nát của quê hương bị giặc dày xéo. Song bên cạnh đó lại là tiếng hát lên đường, tiếng hát theo vần thơ ngân dài đến tận cuối bài thơ: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây, từng giờ… (Giữa thành phố trụi, 1947 ) Tố Hữu học cách gieo vần trong ca dao, tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp sau thường là gieo vần bằng, ở các bài thơ tiêu biểu như: Bà bủ, Bầm ơi, Việt Bắc… Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về… (Bà bủ, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Tố Hữu là nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc học tập những nét tinh hoa của văn học truyền thống, mà ở nhà thơ luôn có sự tìm tòi, phát hiện mới mẻ. Ngoài việc gieo vần ở những vị trí thông thường Tố Hữu còn gieo vần ở những vị trí bất thường. Tố Hữu đã tạo ra một sợi dây liên kết vô hình (qua vần điệu) giữa những địa danh lịch sử để gọi về “chín năm nắng núi mưa ngàn” của Việt Bắc- một thời kỳ gian khổ nhưng oanh liệt. Ai về có nhớ ai không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng Nhớ sông Lô nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu sử dụng nhiều vần liên tiếp tạo nên âm hưởng ngân vang đồng vọng. Hai câu lục bát trên gieo vần ở vị trí 6-8 thông thường, nhưng đến hai câu sau Tố Hữu gieo vần bất thường, vị trí thứ 6 của câu lục gieo vần với vị trí thứ 4 của câu bát khiến câu thơ đột ngột chuyển giọng như khắc sâu nỗi nhớ, nỗi nhớ theo chiều sâu và lan toả từ vùng này sang vùng khác, từ những hy sinh gian khổ đến những chiến công vang dội …một nỗi nhớ dào dạt, tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng sáng tạo trong đoạn thơ này cách gieo vần bất thường làm cho những câu thơ không chỉ là trang ký sự chiến trường mà còn gợi lên vẻ đẹp thẩm mỹ trong lòng độc giả. Ngoài ra còn có một số bài thơ Tố Hữu gieo vần ở tiếng thứ 4 của câu tám. Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non. (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan (Phá đường, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Có thể nói những bài thơ gieo vần ở tiếng thứ 4 này đều là những bài viết về những người thôn quê mộc mạc dân dã. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Tố Hữu mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Tố Hữu thường dùng vần Đường luật mềm mại, có nhiều khả năng biểu hiện cái liên tục thích ứng với hơi thở liền mạch.(chữ cuối câu thứ nhất, câu thứ hai, và câu thứ tư, thanh bằng và vần với nhau): Ai biết trưa nay giữa bụi bờ Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi, không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ (Lên Tây Bắc, 1948) Tìm hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu, ta thấy ông không bao giờ nô lệ vào câu chữ hay gò ép, khiên cưỡng trong niêm luật và cách gieo vần. Thơ ông vừa mang nét tinh hoa của văn học truyền thống, vừa mang tính hiện đại, nên những bài thơ của ông vừa giàu tính nhạc, vừa mang tính hình tượng cao. 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hƣởng hiện đại Tố Hữu đã lấy dân tộc làm nền tảng cho thơ mình. Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh. “Ông tiếp thu phần hồn, đón lấy cái hương, cái “nhụy” của nó”, đúng như Nguyễn Đình Thi nhận xét. Nhìn lại các bài thơ gắn với truyền thống nhất của Tố Hữu, đều có một sự hài hoà hiếm có giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Hiện đại không chỉ nội dung mà cả hình thức thể hiện, hiện đại ngay trong các thể thơ cổ điển của dân tộc, trong cách biểu hiện rất gần với thơ ca dân gian. Phong vị dân gian đậm đà trong thơ Tố Hữu, đặc biệt trong nhiều bài thơ đặc sắc như hàng loạt các bài thơ Việt Bắc, Bầm ơi, Phá đường…Những câu thơ được ủ chặt giữa hương vị dân gian rất phổ biến. Chính nó là sợi dây bền chặt, kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 bện thơ Tố Hữu với truyền thống thơ ca dân tộc, tạo nên sức hấp dẫn, sức cảm hoá, sức nặng, sức bền của thơ ông trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Tố Hữu đã tiếp thu triệt để khai thác, sử dụng và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa của thơ ca truyền thống, góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng tình cảm mới của thời đại. Chính sự tiếp nhận sáng tạo ấy của nhà thơ đã đem lại dáng vẻ và âm hưởng hiện đại cho thơ ca truyền thống.” … làm cho cái hồn dân tộc nhập vào với cái hồn thời đại”,“ Tố Hữu đã giữ được hiện đại ngay trong hình thức biểu hiện tưởng là cổ điển nhất” (Lê Đình Kỵ). Tố Hữu đã đưa câu thơ lục bát cổ điển đến một hình thức phát triển cao nhất và phong phú nhất, những câu thơ ngọt ngào, uyển chuyển, thướt tha, mà vẫn nói lên được những điều cần nói về hiện thực cách mạng, về tình cảm cách mạng: Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong. (Phá đường, 1948) Hay bài Bầm ơi với âm điệu gần gũi với ca dao, Tố Hữu đã diễn tả được tình cảm ân tình tha thiết của người con đối với người mẹ, gợi lên được hình ảnh chân thực của bà mẹ nông dân Việt Nam vất vả và tình cảm của mẹ thật cảm động. Nhưng ở đây tình cảm của người mẹ đối với con rất đỗi thiêng liêng khi gắn với tình đồng bào, đồng chí, tình anh em, tình đất nước nó là sản phẩm mới của thời đại: Bầm ơi liền khúc ruột mềm Có con có mẹ có thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm. (Bầm ơi, 1948 ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm như lời ru, lời thủ thỉ đã đưa người đọc vào một thế giới sâu nặng ân tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Và tình yêu ấy đã biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình thuỷ chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm đáng nhớ. Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muố,i mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già… (Việt Bắc, 1954) Thuộc trong số câu thơ hay nhất của bài Việt Bắc là: Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Trong ca dao, không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Câu hỏi thật sâu nặng, đầy ý nghĩa. Bên cạnh đó bài Việt Bắc còn có những câu đọc lên như một bài ca dao hiện đại: Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Ở Tố Hữu cái hơi dân tộc kết hợp khéo léo với màu sắc hiện đại tiếp tục được thể hiện và càng dồi dào, đậm nét hơn trong tập Gió lộng như trong Em ơi…Ba lan, Bài ca mùa xuân 61: Em ơi, Ba lan, mùa tuyết tan Đường bạch dương, sương trắng nắng tràn Anh đi, nghe tiếng người xưa gọi Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn Và: Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa Thêm một ngày xuân đến. Bình minh Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh Bỏ âm nhạc đi, đó là những câu thơ rất Tây, lồng âm nhạc vào, đó là những câu rất Việt. Âm nhạc như cái hồn dân tộc theo sát các ý của thi sĩ khiến cho mỗi câu thơ; cùng toàn bài thơ vừa ẩn chứa tính dân tộc vừa mang âm hưởng hiện đại. Gió lộng, là sự rộng mở đến bát ngát, mênh mông của đất trời tự do, với một nửa nước đang bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội; với Tổ quốc” dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng”; với “mắt nhìn bốn hướng. Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau”; với tầm cao thời đại “trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu”. Thể thơ tự do được vận dụng linh hoạt, lúc thì rắn rỏi như Tiếng chổi tre, lúc thì rừng rực căm giận như Thù muôn đời muôn kiếp không tan, lúc thì mềm mại uyển chuyển như Em ơi…Ba lan…Những cách gieo vần mới mẻ như “Đường bạch dương, sương trắng, nắng tràn” tạo một bâng khuâng và ngân nga không dứt trong tâm tưởng làm nối dài những liên tưởng giữa truyền thống và hiện đại. So với Việt Bắc, Gió lộng là một bước tiến mới trong quan hệ dân tộc và hiện đại, nhưng vẫn không xa rời ngọn nguồn dân tộc như trong Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Tiếng ru… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 KẾT LUẬN 1. Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ – chiến sĩ, biết gắn bó đời mình và hoạt động thơ ca của mình với lý tưởng cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thơ ông là thơ “mang cánh lửa”, “đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa” (Xuân Diệu). Đã có bao nhiêu người cảm động vì thơ ông và từ thơ ông mà đến với cách mạng. Hơn nửa thế kỷ qua, thơ Tố Hữu trở thành tấm gương phản ánh những lẽ sống lớn của dân tộc, trở thành tiếng hát của thời đại. 2. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thực sự có giá trị và giữ vị trí xứng đáng trong nền thơ ca kháng chiến, bởi nó đã góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra cho nền văn nghệ mới Việt Nam sau 1945. Đó là vấn đề dân tộc và đại chúng, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền, vấn đề vốn sống và kỹ năng nghề nghiệp, vấn đề hiện thực và lãng mạn, vấn đề nội dung và hình thức…Tố Hữu trong tập thơ Việt Bắc đã góp phần của mình không bằng lý luận mà bằng sáng tác, để giải quyết các vấn đề đó, và trở thành ngọn cờ tiêu biểu, đứng ở hàng đầu nền thơ ca cách mạng sau 1945- Từ Việt Bắc chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu về con đường đi của thơ đó là con đường gắn bó với nhân dân phục vụ lợi ích của cách mạng. 3. Giá trị nội dung lớn của Việt Bắc- đó là một tình yêu nước, được thể hiện một cách thiết tha và cụ thể, qua tình yêu những con người đứng ở hàng đầu sự nghiệp kháng chiến – đó là anh bộ đội cụ Hồ, là những bà mẹ, những phụ nữ, những em bé…sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh thắng giặc; là sự phát hiện những giá trị nhân văn cao cả trong những con người bình thường, “ nhỏ bé” làm nên g- ương mặt chung của nhân dân, vừa được cách mạng giải phóng, vừa làm nên sức mạnh giải phóng của cách mạng. Là tình cảm gắn bó với quê hương cách mạng mang tên Việt Bắc“ thủ đô gió ngàn” với cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái- những địa danh đã đi vào lịch sử và bây giờ tiếp tục cuộc kháng chiến chín năm“ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với Trung ương, Chính phủ và Bác Hồ lãnh đạo quân dân cả nước tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Có thể nói, Việt Bắc bằng tiếng nói thơ ca, đã ghi nhận được những dấu ấn cụ thể cho một“ toàn cảnh” những tình cảm lớn của dân tộc trong 10 năm mở đầu nền văn học mới sau 1945, 10 năm kỷ nguyên dân chủ cộng hoà, chấm dứt 80 năm cả dân tộc chìm đắm trong tình cảnh nước mất. 4. Với Việt Bắc, Tố Hữu là nhà thơ đi đầu và có thành tựu lớn nhất trong việc đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ luôn có ý thức hướng tới đại chúng, để cho thơ có sức phổ cập rộng rãi. Đồng thời biết gắn tính dân tộc với âm hưởng hiện đại, để cho thơ luôn luôn có ý nghĩa thời sự. Điều đó làm nên vai trò mở đầu và dẫn dắt nền thơ ca cách mạng Việt Nam của Việt Bắc nói riêng, làm nên giá trị và sức cuốn hút mạnh mẽ của thơ Tố Hữu nói chung. Kết luận. Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ có đóng góp lớn nhất cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng và có giá trị, vị trí xứng đáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Hoàn toàn dễ hiểu khi Việt Bắc nhận được Giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam (1954-1955); sau Từ ấy, nó tiếp tục tạo nên một chuyển biến căn bản trên hành trình hơn nửa thế kỷ thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trọng Anh (1955), Đồng bào Miền Nam với thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 2. Nguyễn Bao (1998), Tố Hữu, nhà thơ- chiến sĩ. Nxb, H. 3. Nguyễn Cừ (1980), Tố Hữu, nhà thơ cách mạng, Nxb khoa học xã hội, H. 4. Hoàng Cầm (1955), Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ (số 70). 5. Hoàng Minh Châu (1959), Về giá trị tập thơ”Từ ấy” và phương pháp sáng tác của Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số71). 6. Xuân Diệu (1955), Tập thơ” Việt Bắc của Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 28,64). 7. Xuân Diệu (1960), Dao có mài mới sắc, Tạp chí Văn học (số73). 8. Xuân Diệu (1964), Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Nxb Văn học, H. 9. Lê Đạt (1955), Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số 68). 10. Hà Minh Đức (1977), Những bài học lớn và sự cổ vũ chân thành, Nxb Văn học, H. 11. Hà Minh Đức (1994 ), Từ Từ ấy đến Một tiếng đờn, Nxb Văn học, H. 12. Hà Minh Đức (1995), Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc- Nxb Giáo dục. 13. Phan Cự Đệ (1959), Một bông hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng, Tạp chí Văn học (số 30). 14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, H. 15. Tế Hanh (1959), Đọc tập thơ”Từ ấy” của Tố Hữu, Báo Văn học (số 49, 50). 16. Nguyễn Văn Hạnh (1970), Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, Nội san nghiên cứu Văn học, Trường ĐHSP, H. 17. Đông Hoài (1955), Góp ý kiến về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo văn nghệ (số 70). 18. Phạm Hổ (1964), Thơ Tố Hữu với Miền Nam thành đồng Tổ Quốc, Báo Văn nghệ ( số72). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 19. Tố Hữu ( 1946), Thơ, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam. 20. Tố Hữu (1961), Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, Tạp chí Văn nghệ (số 48). 21. Tố Hữu (1963), Việt Bắc, Nxb Văn học, H. 22. Tố Hữu (1972 ), Câu chuyện về thơ, Văn phòng Bộ văn hoá, H. 23. Tố Hữu (1980),Văn học là cuộc đời, Báo Văn nghệ (số 44). 24. Tố Hữu (1998), Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, H. 25. Thơ Tố Hữu, (1998) – Nxb Giáo dục. 26. Tố Hữu ( 2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hoá thông tin, 27. Mai Hương (1975), Ý kiến của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 28. Mai Hương (1975), Quan niệm của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 29. Lê Đình Kỵ (1979), Việt Bắc, Nxb đại học và trung học chuyên nghiệp. 30. Phùng Ngọc Kiếm ( 1987), Những biểu hiện tính dân tộc trong những bài thơ của Tố Hữu viết về Bác Hồ, Thông báo khoa học Đ.H.S.P 1987. 31. Phong Lan và Mai Hương, Tố Hữu” Người đốt lửa” và ” Người gieo hạt”, H. 32. Mã Giang Lân (1995), Thơ Việt Nam (1945-1954), Nxb Giáo dục, H. 33. Mã Giang Lân ( 2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 34. Nguyễn Viết Lãm (1955), Đặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu, Báo Độc lập (số 98). 35. Thẩm Lăng (1955),“Việt Bắc” và Tố Hữu, Báo Độc lập ( số 97). 36. Nguyễn Văn Long (1996), Thơ Tố Hữu trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam 50 năm qua, Nxb Hội nhà văn. 37. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, H. 38. Phong Lê ( chủ biên), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp ( 1945- 1954), Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 39. Phong Lê (biên soạn), Tố Hữu- thơ và cách mạng. Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu & giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh. 40. Vũ Đình Liên (1955), Mối tình dân tộc trong tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Tổ Quốc (số 12). 41. Lưu Trọng Lư (1971), Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 381). 42. Huỳnh Lý (1959), Nhận xét thơ Tố Hữu như một thực thể động, Báo Văn học (số73). 43. Thời Nhân (1946), Thơ Tố Hữu, Tạp chí Tiên phong (số 23). 44. Đặng Thai Mai (1964), Khi nhà nghệ sĩ“ Tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất cả tâm hồn mình, Báo Văn nghệ (số 87). 45. Đặng Thai Mai (1959), Mấy ý nghĩ, Nxb Văn học, H. 46. Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam 1945-1960, Nxb Giáo dục, H. 47. Hoàng Như Mai (1965), Con mắt thần chủ nghĩa trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 98). 48. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường thơ Tố Hữu, Nxb Giáo Dục. 49. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nhà xuất bản Đại học sư phạm ( 2002). 50. Tú Mỡ (1955), Góp ý kiến về tập thơ“Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ, (số 75). 51. Như Phong (1959), Cái mới của”Từ ấy”- những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 52. Vũ Đức Phúc (1955), Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu. Nxb Văn Học. 53. Vũ Đức Phúc (1967), Người Việt Nam và lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Pháp (1946-1954), Tạp chí Văn học (số 6). 54. Vũ Đức Phúc (1984), Tố Hữu (trích)- Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 55. Vũ Quần Phương (1997), Tố Hữu- Người mở đường của nền thơ cách mạng, Báo Nhân dân. 56. Nguyễn Đức Quyền (1970), “Ta” với “ Mình” trong bài thơ”Việt Bắc” của Tố Hữu, Tạp chí Ngôn ngữ ( số3). 57. Lê Bá Suý ( 1955),” Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc”, Báo Văn học ( số 71). 58. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 59. Thanh Tịnh (1959), Vài cảm nghĩ về tập thơ” Từ ấy” của Tố Hữu, Tạp chí Văn nghệ quân đội ( số 8). 60. Minh Tranh (1955), Tình yêu trong tập thơ” Việt Bắc”, Báo Văn nghệ (số 66). 61. Nguyễn Phú Trọng (1960), Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu. Nxb Văn học. 62. Hà Xuân Trường (1955), Đọc tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Nhân dân,( số 329). 63. Nguyễn TrungThu (1968), Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, (số 11). 64. Hoài Thanh (1955), Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ ( số 74). 65. Hoài Thanh ( 1955), Nói chuyện thơ kháng chiến, Nxb Văn nghệ, H. 66. Hoài Thanh (1960), “Từ ấy” tiếng hát của một người thanh niên, một người cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Văn học. 67. Hoài Thanh (1962), Gió lộng, một bước tiến mới của thơ Tố Hữu, một tập thơ mang khí thế mới của cách mạng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học( số 8). 68. Hoài Thanh (1978), Một số ý kiến ngắn về thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới. Hữu, Báo Nhân dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 70. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa học xã hôi, H. Bắc”, Báo Văn nghệ, (số 81). 72. Nguyễn Đình Thi (1955), Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Báo Văn nghệ ( số 77). 73. Nguyễn Đình Thi (1955), Lập trường giai cấp và Đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn, Báo Văn nghệ (số 79). 74. Nguyễn Đình Thi (1955), Nhà thơ lớn lên với thời đại, Báo Văn nghệ ( số 79) 75. Nguyễn Đình Thi (1968), Tập thơ Việt Bắc- Nxb Văn hóa, H. 76. Chế Lan Viên (1963), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 77. Chế Lan Viên (1968), Tổ Quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 78. Hoàng Việt (1955), Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, Báo Văn nghệ ( số 69). 79. Hồ Sĩ Vịnh (1970), Đọc tập thơ“Bác Hồ”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ( số 360). 80. Hoàng Yến ( 1955), Tập thơ“ Việt Bắc” có hiện thực không?, Báo Văn nghệ (số 65).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
doc_298_1834.pdf
Trình Bày Hoàn Cảnh Ra Đời Của Bài Thơ Tây Tiến
Nhà thơ Quang Dũng là một nhà thơ tài hoa, ông tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật, trong đó nổi bật nhất là những tác phẩm về thơ ca. Đọc thơ ông ta sẽ thấy rõ một cái tôi hào hoa thanh lịch, mang đậm chất trữ tình và lãng mạn. Và trong số đó, ta sẽ không thể nào không nhắc đến tác phẩm thơ Tây Tiến là tác phẩm vô cùng độc đáo và nổi tiếng của Quang Dũng. Tác giả đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính yêu nước, sẵn sàng ngã xuống hi sinh vì sự nghiệp chống giặc xâm lược của dân tộc. Hình ảnh người lính như sống mãi với thời gian, với lịch sử.
Quang Dũng đã viết lên bài thơ này như tưởng nhớ lại những năm tháng hoạt động trong đội quân Tây Tiến. Cùng điểm lại hoàn cảnh sáng tác ra tác phẩm này để thấy điểm đặc biệt của nó. Sau khi cuộc cách mạng tháng tám thành công vang dội, Quang Dũng gia nhập vào bộ đội. Vào thời gian cuối mùa xuân năm 1947, lúc đó ông là một nguyên phái viên phòng quân sự Bắc Bộ và cũng là một học viên lớp quân sự ở Tông (nay thuộc Sơn Tây). Ông trở về Phùng để thăm mẹ già,vợ con để lên đường tham gia vào đội quân, Tây Tiến và giữ chức vụ Đại đội trưởng. Đội quân này được thành lập vào đầu năm 1947, đội quân có nhiệm vụ là sẽ phối hợp với bộ đội Lào để cùng nhau bảo vệ biên giới Việt- Lào, (đây là vùng núi Tây Bắc gồm từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nứa tới miền Tây Thanh Hóa) cùng nhau chống lại, đánh lại hạm quân của Pháp đang ở Thượng Lào, quân ta ra sức giúp hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào.
Nhìn những người người bộ đội Tây Tiến ta sẽ thấy họ vô cùng đáng trân trọng, họ bao gồm nhiều tầng lớp từ những người lao động bằng tay chân, tri thức và chủ yếu là những tri thức, những thanh niên chỉ mới là những học sinh bước ra từ những mái trường, từ phố phường ở Hà Nội. Vì đất nước, đồng bào họ không ngại khó khăn gian khổ, với điều kiện vô cùng thiếu thốn về vật chất, có thể chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn, nhưng họ vẫn lạc quan, vui vẻ tiến sang biên giới chiến đấu cùng bảo vệ lãnh thổ. Với Đội quân Tây tiến sau khi trở về từ Lào, Tây tiến trở thành trung đoàn 52, và Quang Dũng- đại đội trưởng đã ở đó đến cuối năm 1948 sau đó ông được chuyển sang đơn vị khác. Dù xa rời đơn vị cũ, nhưng ông vẫn nhớ về những năm tháng hào hùng, anh em sát cánh bên nhau, ngồi tại Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ ra đời, mang nhiều dấu ấn lịch sử, an hem trong và ngoài quân đội cứ truyền tay, truyền miệng cho nhau để đọc, để nhớ… Bài thơ Tây Tiến được hai lần đổi tên, lần đầu tiên có tên là “Nhớ Tây Tiến” khi được in tại nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III, được phát hành vào năm 1949. Rồi đến năm 1957, Quang Dũng đưa Tây Tiến để vào tập thơ “Rừng biển quê hương”. Lúc đó ông đã bỏ chữ “Nhớ” chỉ giữ nguyên hai từ “Tây Tiến”. Chỉ với hai từ này thôi đã nói lên được chủ đạo của toàn bài thơ, luôn tiến về phía trước không.
Nhan đề Tây Tiến gợi cho chúng ta thấy được một thời kỳ chiến đấu gian khổ nhưng lúc đó lại mang cho mình một sự lạc quan, đậm chất thơ của đoàn quân. Đoàn quân đã chiến đấu với nhiệm vụ bảo vệ và đánh đuổi quân thù cùng bảo vệ bờ coi, đây là một nhiệm vụ quan trọng và thiêng liêng mà đội quân đã hoàn thành xuất sắc trong gần hai năm trời xa quê hương. Bài thơ chính là nỗi nhớ đồng đội, nhớ những người đã cùng chung gian khổ, vui buồn, cùng sinh hoạt và tình đồng đội, đồng chí như mang ý nghĩa quá thân thương, và lúc đó quân dân cũng một lòng. Một hình tượng chân dung người lính Tây Tiến, người lính của núi rừng với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
Đây chính là hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, một bản trường ca của các anh hùng, của người lính, dù gian khổ, vất vả, có hi sinh nhưng vẫn yêu đời và lạc quan luôn đoàn kết chia sẻ bên nhau.
Nguồn: Văn mẫu chọn lọc
Cho Đoạn Thơ “Đất Nước Bốn Nghìn Năm/ Vất Vả Và Gian Lao/ Đất Nước Như Vì Sao/ Cứ Đi Lên Phía Trước”, Em Có Suy Nghĩ Gì Về Hành Trình Lịch Sử Của Đất Nước, Hãy Trình Bày Bằng 1 Đoạn Văn Diễn Dịch 8
Home ” Lớp 9 ” Cho đoạn thơ “Đất nước bốn nghìn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”, em có suy nghĩ gì về hành trình lịch sử của đất nước, hãy trình bày bằng 1 đoạn văn diễn dịch 8-10 câu
GỢI Ý 1
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– 2 câu đầu: đất nước Việt Nam có được như ngày hôm nay là cả một quá trình trải qua hàng ngàn khó khăn mới có thể đứng vững và tồn tại, phát triển đến bây giờ. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, hy sinh biết bao xương máu của các anh hùng dân tộc, nếm trải hàng vạn cay đắng, khổ cực trước những nguy cơ nước mất nhà tan, nhưng người dân vẫn giữ vững tinh thần dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, khôi phục lại non sông cho đất nước…
– 2 câu tiếp: đất nước Việt Nam cứ thế mà đứng dậy, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu, nỗ lực không ngừng để phát triển đất nước lớn mạnh hơn. Nhờ có tình yêu nước mãnh liệt, tinh thần dân tộc vô cùng cao nên nhân dân ta mới có thể bảo vệ được độc lập của đất nước, đưa đất nước lên một tầm cao mới…
– Liên hệ bản thân: giờ đây, đất nước đang ngày càng phát triển, thì là một học sinh, em sẽ cố gắng học tập thật tốt để sau này giúp đất nước lớn mạnh hơn nữa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Em sẽ cố gắng để trở thành một công dân tốt trong tương lai để không phụ lòng những người đã hy sinh thân mình giữ nước được bình yên cho đến ngày hôm nay…..
“Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”
Sao là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời gian. Sao cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua đó, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn và vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào ngăn cản được. Nhất định đất nước cũng phải tỏa sáng như những vì sao trong hành trình tới tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Cảm xúc của nhà thơ là cảm xúc lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống quê hương đất nước của dân tộc mỗi khi mùa xuân về.
Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Ai Mua Hành Tôi
Tóm tắt sơ lược về câu truyện cổ tích Ai mua hành tôi
Nhân vật chính trong câu truyện chính là nói về một chàng nông dân bán hành cùng với người vợ của mình. Trong một ngày nọ trên đường đi bán hành, anh đã cứu lấy chú chim sẻ đang bị tấn công bởi con quạ và được chú trả ơn bằng lọ nước thần kỳ. Lọ nước này có thể khiến cho mọi vật được tốt đẹp hơn. Nếu là người thì người sẽ trở nên trẻ đẹp không ai bằng, nếu là vật thì vật sẽ cao to gấp nhiều lần so với bình thường. Anh chàng cũng hiểu được sự quý giá của lọ nước thần này nên cất giữ vô cùng cẩn thận.
Mọi chuyện bắt đầu vào một ngày khi anh vẫn đang tiếp tục công việc bán hành của mình thì người vợ ở nhà đã vô tình sử dụng lọ nước thần tắm. Với sự nhầm lẫn lọ nước thần kỳ thành sữa tắm đã tạo nên một sự thay đổi lớn. Vốn dĩ là một cô gái quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chăm chỉ làm việc dưới đồng ruộng nên cô có một làn da có phần đen đúa. Nhờ vào lọ thuốc thần này mà cô gái đã lột xác thành một người khác trắng trẻo, xinh đẹp hơn. Điều đó khiến chồng luôn say mê, thậm chí chểnh mảng công việc của mình và suốt ngày chỉ quấn quýt lấy vợ.
Tuy nhiên, mỗi ngày anh vẫn phải mưu sinh với công việc của mình. Và một sáng kiến đã ra đời là khi đi bán anh chồng phải họa một bức ảnh của người vợ xinh đẹp mang theo để đỡ nhớ nhung nàng. Trong một lần vô tình tấm ảnh bị cuốn bay đi và bị quân lính nhìn thấy mang về tâu với vua. Vì tò mò về sắc đẹp của cô gái trong tranh mà mọi quân lính trong triều được ra lệnh phải ra sức ráo riết tìm kiếm. Cuối cùng, người vợ cũng đã được tìm thấy và bị bắt về cung. Nhưng dù cho cô được sống trong hào hoa nhung lụa của cung điện thì chưa từng nói một lời nào. Miệng nàng không buồn nói, quần áo đẹp nàng không thèm nhìn và thậm chí tóc nàng cũng không thèm chải chuốt. Từ đó nhà vua đã bắt đầu ban lệnh nếu ai có thể làm cho cô nàng cười được thì sẽ được ban thưởng.
Vua nhìn thấy bức ảnh của người vợ xinh đẹp
Người chồng nghe thấy vậy liền lên đường đến ngay cung điện và không quên mang theo những bó hành. Nghe thấy lời rao của người chồng, vợ liền trở nên tươi tắn có thần sắc tốt hơn và cho người gọi anh vào. Ngay khi nhìn thấy chồng, cô đã cười lên một tiếng. Nhà vua thấy thế liền đinh ninh cho rằng chỉ cần cải trang thành người bán hành có thể khiến cho nàng vui thì liền ra lệnh để được mặc đồ của chàng bán hành. Trong lúc nhà vua mải mê hóa thân thành người bán hành thì anh chàng nhanh chóng mặc long bào rồi ra lệnh cho quân lính đuổi người bán hành ra ngoài. Từ đó, chàng bán hành trở thành vua và hai vợ chồng sống hạnh phúc cùng nhau suốt đời.
Anh bán hành đến cung điện để gặp lại người vợ xinh đẹp
Bài học được rút ra từ Truyện cổ tích Ai mua hành tôiMột trong những bài học lớn nhất được rút ra từ truyện cổ tích Ai mua hành tôi chính là về đức tính hiền lành, tốt bụng của con người. Đức tính này được thể hiện thông qua nhân vật anh chàng bán hành trong câu truyện. Anh chàng tốt bụng đã giúp đỡ chú chim nhỏ để nhận lại được sự đền ơn của chú chim. Và về sau khi người vợ bị bắt đến cung điện thì anh đã dùng chính nghề nghiệp chân chính của mình là bán hành để được tái hợp với người vợ. Từ đó cho thấy, không chỉ là người tốt bụng, hiền lành mà anh còn là một người chung thủy với vợ của mình.
Kết quả viên mãn từ câu chuyện cho chúng ta thấy được chỉ cần ở hiền thì sẽ gặp lành. Bài học này giúp chúng ta hiểu được rằng trong cuộc sống chúng ta nên làm nhiều điều tốt, giúp đỡ mọi người xung quanh để nhận lại được những điều tốt đẹp. Đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, từ nhỏ cần được rèn luyện đức tính tốt chăm chỉ học hành hòa thuận với bạn bè để lớn lên có thể trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội bằng nghề nghiệp chân chính.
Câu truyện đã được xuất bản thành sách
Câu truyên đồng thời cũng ca ngợi đức tính thủy chung của người chồng. Đức tính này vô cùng cần thiết không chỉ ở thời xa xưa mà còn ở hiện tại. Nhất là khi cuộc sống con người ngày càng hiện đại dẫn đến nhiều sự thay đổi quan điểm hơn. Con người sống với nhau thoải mái, dễ đến và dễ đi. Thậm chí có rất nhiều câu chuyện tan vỡ do có sự xuất hiện của người thứ ba. Do đó, sự chung thủy trong tình yêu thời hiện đại lại ngày càng phải được nhấn mạnh hơn nữa. Mỗi chúng ta phải tự rèn luyện cho mình sự chung thủy với đối phương. Có như vậy mình mới nhận lại được kết quả tương tự.
Những điều câu truyện Ai mua hành tôi phê phánTrong những câu truyện cổ tích dân gian thời xưa, bạn chắc chắn không quá xa lạ với hình ảnh của những vị vua, quan hay phú hộp có địa vị, có tiền bạc và cậy vào thế để ức hiếp những người dân vốn hiền lành, chất phác. Một lần nữa, câu truyện cổ tích Ai mua hành tôi đã tái hiện hình ảnh của một vị vua chỉ vì ham mê sắc đẹp mà đã khiến một đôi vợ chồng trẻ chịu cảnh ly tán. Ông đã cậy quyền thế của mình để làm những việc trái với luân thường đạo lý. Và cuối cùng hậu quả cũng không mấy tốt đẹp.
Điều này ta cũng rất dễ nhìn thấy được từ cuộc sống xung quanh, những người làm điều ác điều xấu hay xem thường và cậy thế ức hiếp người khác đều sẽ bị trả báo. Quả báo trong cuộc sống là có thật, chính vì vậy dù bạn làm một điều xấu dù nhỏ nhất thì cũng sẽ nhận lại hậu quả không tốt, dù không phải là ngay lập tức nhưng sau đó bạn sẽ nhận báo ứng. Đó là lý do người ta cũng thường có câu lưới trời lồng lộng, mọi điều xấu đều rất khó thoát khỏi hậu quả không tốt đẹp.
Từ bây giờ, mỗi người chúng ta cần phải luôn rèn luyện cho mình một đức tính tốt đẹp, sống chan hòa hay yêu thương và giúp đỡ mọi người xung quanh. Dù là một điều tốt nhỏ bé thì chúng ta cũng sẽ được nhận lại những đền đáp xứng đáng. Đồng thời, trong đời sống với vợ chồng, gia đình thì phải luôn yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Không tính toán và vụ lợi hay lợi dụng đối với những người thân trong gia đình của mình. Có như vậy, bạn mới có được một cuộc sống bình yên và hạnh phúc để tận hưởng những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.
Anybooks.vn – Kênh thông tin giới thiệu sách, review sách, chia sẻ những cuốn sách hay nên đọc dành cho độc giả.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hành Trình Trưởng Thành Của “Cậu Bé Người Gỗ Pinocchio” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!