Bạn đang xem bài viết Giáo Án Đọc Văn Tấm Cám được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
Thao tác 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về tác phẩm
– Phương pháp tổ chức dạy học: học sinh làm việc độc lập với câu hỏi trắc nghiệm
– Các bước thực hiện:
1. Khái niệm và đặc điểm truyện cổ tích
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập
GV: Dòng nào nói đúng thể loại của truyện cổ tích?
A. Thể loại tự sự dân gian kể về các vị thần nhằm giải thích tự nhiên.
B. Thể loại tự sự dân gian kể về các sự kiện quan trọng có ý nghĩa đối với toàn thể cộng đồng.
C. Thể loại tự sự dân gian kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử.
D. Thể loại tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của người lao động.
GV: Có các loại truyện cổ tích nào?
A. Truyện cổ tích về loài vật
B. Truyện cổ tích thần kì
C. Truyện cổ tích sinh hoạt
D. Cả A, B, C đều đúng
GV: Nhận định nào sau đây không phải là đặc điểm của truyện cổ tích thần kì?
A. Phản ánh ước mơ, nguyện vọng, lí tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của cái thiện, cái đẹp.
B. Thể hiện thái độ, sự đánh giá của nhân dân về các sự kiện và nhân vật lịch sử
C. Kết thúc truyện thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc quan, thỏa mãn ước mơ của nhân dân
D. Yếu tố kì ảo tham gia như một phần không thể thiếu trong cốt truyện.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: suy nghĩ, khái quát kiến thức.
GV: Quan sát, hỗ trợ học sinh.
Bước 3: Báo cáo kết quả
HS trả lời câu hỏi, tóm lại những nét chính về truyện cổ tích, các loại truyện cổ tích và truyện cổ tích thần kì.
HS khác: nhận xét, bổ sung.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
GV: Nhận xét, chốt lại kiến thức.
2. Truyện cổ tích Tấm Cám
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập
GV: Tấm Cám thuộc loại truyện cổ tích nào?
A. Cổ tích thần kì
B. Cổ tích về loài vật
C. Cổ tích sinh hoạt
GV: Cô Tấm được xếp vào kiểu nhân vật nào trong truyện cổ tích?
A. Người con út
B. Người thông minh
C. Người mồ côi
D. Người nghèo khó
GV: Em hãy tóm tắt khái quát truyện qua
sắp xếp tranh theo chặng đời khi Tấm còn ở nhà cốt đúng cốt truyện
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: suy nghĩ, khái quát kiến thức.
GV: Quan sát, hỗ trợ học sinh.
Bước 3: Báo cáo kết quả
HS trả lời câu hỏi, tóm tắt truyện Tấm Cám ở chặng 1
Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
GV: Nhận xét, chốt lại kiến thức
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập
Học sinh: diễn kịch Tấm Cám
– Hình thức: Một nhóm diễn kịch
– Kỹ thuật: Đóng vai
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: GV nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
I. Tìm hiểu chung
1. Khái niệm và đặc điểm truyện cổ tích
– Truyện cổ tích là tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
– Có ba loại truyện cổ tích:
+ Truyện cổ tích về loài vật.
+ Truyện cổ tích thần kì.
+ Truyện cổ tích sinh hoạt.
– Truyện cổ tích thần kì:
+ Phản ánh ước mơ, nguyện vọng, lí tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của cái thiện, cái đẹp.
+ Kết thúc truyện thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc quan, thỏa mãn ước mơ của nhân dân
+ Yếu tố kì ảo tham gia như một phần không thể thiếu trong cốt truyện.
2. Truyện cổ tích Tấm Cám
-Thuộc loại truyện cổ tích thần kì.
– Cô Tấm được xếp vào kiểu nhân vật người mồ côi.
– Tóm tắt khái quát truyện
– Diễn kịch Tấm Cám- chặng đời khi Tấm còn ở nhà
Truyện Cổ Tích Tấm Cám
Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám
Truyện cổ tích Tấm Cám đã rất quen thuộc với nhiều người từ thủa còn nằm trong nôi, phản ánh mong ước thiết tha của nhân dân thời xưa: “Ở hiền gặp lành”. Câu chuyện ngợi ca sức sống bất diệt và sự trỗi dậy mạnh mẽ của con người trước sự vùi dập của cái ác, đồng thời thể hiện niềm tin của nhân dân vào công lí và chính nghĩa.
Hiện nay trên internet có khá nhiều phiên bản khác nhau, Thế giới cổ tích xin giới thiệu bản kể có từ khá lâu, được trích nguồn trong “Văn học trích giảng lớp 7 – phổ thông” – năm 1973 của Đỗ Thận. Bản kể này được xem là gắn liền với tuổi thơ của rất nhiều thế hệ.
Lưu ý khi kể chuyện Tấm Cám
Do đối tượng độc giả của Thế giới cổ tích hướng đến là các bạn nhỏ, nên chúng tôi có sự sàng lọc kỹ lưỡng. Ở phần cuối của truyện cổ tích Tấm Cám không phải là một cái kết đầy “kinh dị” như trong phiên bản gốc.
Có thế vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm và tranh luận khác nhau về vấn đề này, nhưng những người biên tập của Thế giới cổ tích đã rất cân nhắc khi lựa chọn đoạn kết như vậy.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Bố mất rồi, Tấm phải ở với dì ghẻ[1] là mẹ đẻ ra Cám.
Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo đi bắt tôm bắt tép. Mụ hứa rằng: “Đứa nào bắt được nhiều thì tao cho một cái yếm đỏ”.
Tấm và Cám cùng mang giỏ ra đồng. Tấm bắt được nhiều. Cám bắt được ít, Cám bảo chị:
Tấm tưởng thật, hụp xuống. Cám ở trên bờ trút lấy tôm tép của Tấm vào giỏ mình, rồi mang về trước. Tấm lên dòm vào giỏ, thấy mất cả, mới khóc hu hu, Bụt[2] hiện lên rồi hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm kể hết sự tình cho Bụt nghe rồi lại khóc, Bụt bảo Tấm nhìn xem trong giỏ còn gì không? Thì ra còn lại một con cá bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá bống về thả xuống giếng nuôi, và dặn mỗi ngày cho ăn hai lần, mỗi lần một bát cơm. Khi cho bống ăn, phải gọi:
“Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa[3] nhà người”.
Tấm nghe lời Bụt dặn, đem bống về nuôi. Cứ đến bữa cơm thì hớt một bát, giấu vào thùng gánh nước, mang ra cho bống. Nghe lời gọi dịu dàng của Tấm, bống lại ngoi lên mặt nước ăn cơm. Ít lâu sau, mụ dì ghẻ biết liền sai Cám đi rình. Cám đi rình xem hết đầu đuôi, học lỏm được câu gọi bống, rồi về mách mẹ. Một hôm, mụ dì ghẻ lừa bảo Tấm:
Tấm tưởng thật, nghe lời dì ghẻ, hôm sau dắt trâu đi chăn ở cánh đồng xa làng. Thừa dịp đó, mẹ con Cám đem cơm ra giếng, đổ xuống và cũng lặp lại câu mà Tấm thuoèng nói khi gọi bống. Bống cũng bơi lên mặt nước, thì bị mẹ con Cám bắt lấy mang về làm thịt ăn.
Đến bữa cơm, sau khi ăn xong, theo lệ thường, Tấm mang thùng đi gánh nước và đem cơm cho bống. Nhưng bận này, gọi mãi không thấy bống đâu mà chỉ có một cục máu nổi lên. Thấy vậy Tấm ngồi khóc hu hu. Bụt hiện lên hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm thưa lại sự việc xảy ra. Bụt liền bảo: “Người ta đã bắt bống của con ăn thịt mất rồi. Con về nhà nhặt xương nó, mua lấy bốn cía lọ bỏ vào đấy rồi đem chôn xuống bốn chân giường con nằm”.
Tấm nghe lời Bụt, về nhà tìm xương bống; tìm mãi không thấy. Bỗng có một con gà trông gáy lên rằng:
Tấm lấy nắm thóc ném cho gà. Gà bới một chỗ thì thấy ngay xương cá, Tấm vội nhặt lấy, cho vào bốn cái lọ và chôn xuống chân giường.
Được ít lâu, nhà vua mở hội[4]. Hai mẹ con Cám sắm sửa quàn lành áo tốt đi xem hội. Mụ dì ghẻ không muốn cho Tấm đi, liền trộn một đấu thóc với một đấu gạo, bắt Tấm ngồi nhặt kỳ xong mới được đi. Tấm ở nhà tủi thân lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên hỏi. Tấm kể đầu đuôi câu chuyện, Bụt liền bảo: “Để ta cho một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp cho con”. Tấm sợ chim ăn mất thóc gạo, sẽ phải đòn. Bụt biết ý, nói: “Rồi ta cấm chim không cho nó ăn thóc gạo của con. Con đừng sợ”.
Đàn chim sẻ sà xuống nhặt, chỉ nháy mắt là xong. Nhưng Tấm ngồi vào xó nhà, lại khóc. Bụt lại hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm thưa: “Con không có quần áo đẹp để mặc đi xem hội”. Bụt bảo: “Con đi đào những lọ chôn ở chân giường lên, muốn có quần áo đẹp như thế nào cũng có”. Tấm vui mừng đào các lọ lên, quả nhiên thấy chẳng những là có quần áo đẹp mà còn có cả một đôi giày thêu kim cương[5], một con ngựa hồng rất đẹp. Tấm mừng quá, thắng bộ[6] vào, đi giày, cưỡi ngựa ra xem hội.
Từ đằng xa, Cám trông thấy Tấm ăn mặc đẹp đẽ, vội mách mẹ. Mụ dì ghẻ không tin, nói: “Con Tấm nhà mà mà thắng bộ như thế à? Nó đương ngồi nhặt thóc, còn lâu!”.
Lúc Tấm đi qua bờ hồ, vô ý sẩy chân, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Vừa lúc ấy, voi nhà vua đi qua, bỗng dừng lại kêu rầm rĩ. Vua sai lính lội xuống hồ xem có gì cản trở. Quân lính xuống hồ mò, tìm một lúc, vớt được một chiếc giày đàn bà thêu rất xinh, liền đưa lên trình vua. Vua ra lệnh truyền tin cho tất cả đàn bà, con gái, ai đi xem hội mà ướm[7] giày vừa chân thì vua lấy làm vợ. Các cô thi nhau ướm thủ. Chẳng ai đi vừa cả. Mãi sau đến lượt Tấm, thì giày với chân vừa như in. Vua mừng lắm, sai thị vệ lấy kiệu rước nàng về cung.
Đến ngày giỗ bố, Tấm về nhà làm giỗ. Mụ dì ghẻ lập tâm giết Tấm, bèn sai Tấm trèo lên hái cau để mang cúng bố. Tấm trèo lên gần tới ngọn, mụ ở dưới đẵn gốc cây. Thấy động, Tấm vội hỏi: “Dì làm gì ở dưới ấy thế?” Mụ liền nói dối: “Dì đuổi kiến cho con đấy” và cứ tiếp tục chặt. Tấm đang hái cau thì cây đổ, Tấm ngã xuống ao cạnh đấy, chết đuối. Mụ dì ghẻ vội lấy quần áo đẹp của Tấm mặc vào cho Cám và đưa Cám bào cung[8] thế chị.
Tấm chết hóa ra con vàng anh, bay đến đậu ở vườn nhà vua. Thấy Cám đang giặt quần áo cho vua, chim vàng anh liền hót:
Đến lúc Cám đem phơi, chim vàng anh lại hót:
Vua nghe thấy tiếng chim hót, lạ lắm, bèn nói với chim:
Vàng anh nghe thấy thế, tức khắc bay bào tay áo vua. Từ đó, vua thả chim vào một cái lồng sơn son thiếp vàng, hằng ngày vui chơi với chim, không đoái hoài gì đến Cám nữa.
Cám tức lắm, vội về nhà kể cho mẹ nghe. Mẹ nó xui bắt chim làm thịt ăn. Cám liền về cung sai lính giết chim ăn, rồi vứt lông ra vườn. Lông chim lại hóa ra hai cây xoan đào tươi tốt. Vua thấy cây đẹp, lấy làm thích, sai mắc võng đào[9] để nằm chơi hóng mát.
Cám lại về mách mẹ. Theo lời mẹ xui, Cám lại bắt lính đẵn hai cây xoan xuống, lấy gỗ đóng khung cửi. Nhưng cứ mỗi lần Cám ngồi vào dệt vải thì cái khung cửi lại kêu lên:
Cám sợ quá về nhà mách mẹ, mẹ lại xui sai lính đốt khung cửi đi, rồi đổ tro ra đường cái. Không ngờ đám tro lại hóa ra một cây thị xanh tươi, cây thị chỉ có một quả thật to, thơm nức.
Một hôm, có bà lão hàng nước qua đấy thấy quả thị liền nói:
Bà lão vừa dứt lời, quả thị rụng ngay vào bị. Bà vội vàng mang về nhà, để ở đầu giường, lấy làm quí lắm. Ngày nào bào lão cũng phải đi chợ mua hàng về bán. Cứ mỗi lần ở chợ về, bà lão đều ngạc nhiên, vì thấy có sẵn cơm canh để phần tươm tất, lại có cả chậu nước nữa… Cửa nhà rất sạch sẽ, gọn gàng.
Bà rắp tâm[10] rình xem. Một hôm, đi chợ được nửa đường, bà liền quay trở lại. Gần đến nhà, bà rón rén tới sát của, nhìn qua khe liếp[11], thấy một cô gái đẹp như tiên đang làm bếp. Bà lão mừng quá, chạy vào ôm chầm lấy. Vì lộ cơ[12], cô tiên không biến đi được nữa.
Bà lão tìm quả thị, thì chỉ thấy còn cái vỏ, liền xé vụn ra rồi giấu đi.
Từ bấy giờ, hai người sống với nhau và thương yêu nhau như hai mẹ con.
Một hôm, vua ra hồ dạo chơi, qua hàng nước, thấy có một bà lão phúc hậu, liền ghé vào. Vua bỗng nhìn thấy những miếng trầu têm rất khéo và đẹp, giống như những miếng trầu trước Tấm vẫn têm. Vua mới hỏi bà lão: “Trầu này ai têm?”. Bà lão bảo chính tay bà têm. Nhưng vua gặng hỏi[13] mãi, bà đành thú thật là con gái bà têm. Vua ước ao được xem mặt. Bà lão gọi con gái ra, thì chính là Tấm. Được gặp vợ, vua mừng rỡ, sai quân lính rước về cung.
Về đến cung, Tấm kể rõ sự tình cho nhà vua nghe, nhà vua tức giận sai người đem mẹ con Cám lên xử tội, nhưng Tấm thương cảm, xin nhà vua tha cho họ. Nhà vua truyền chỉ đuổi mẹ con Cám ra ngoài cung. Vừa ra khỏi thành, giông tố ập đến, mẹ con Cám bị sét đánh chết giữa đồng.[14]
Theo bản của Đỗ Thận Nguồn: Văn học trích giảng lớp 7 – phổ thông (1973)
Chú thích trong truyện cổ tích Tấm Cám
Dì ghẻ: cũng là mẹ ghẻ, mẹ kế, tức là người vợ sau của cha kế tiếp người vợ cả đã chết.
Bụt: tức Phật. Theo trí tưởng tượng của người đời xưa, Bụt thường hiện lên để giúp đỡ người tốt gặp phải hoạn nạn.
Cháo hoa: cháo trắng, nấu toàn bằng gạo, hạt gạo nở to ra.
Mở hội: ý nói tổ chức ngày hội vui.
Kim cương: một thứ đá quí, rất cứng và trong suốt, thường dùng làm đồ trang sức… Giày thêu kim cương: giày có đính các hạt kim cương lóng lánh trông rất đẹp.
Thắng bộ vào: ý nói diện quần áo đẹp.
Ướm: thử xem có vừa không.
Cung: chỉ nơi ở của vua, còn gọi là cung cấm, cung điện.
Võng đào: cũng nói võng điều, võng màu đỏ. Đời trước vua quan mới được dùng võng đào.
Rắp tâm: có ý định, lập tâm.
Liếp: phên đan bằng nứa hay tre.
Lộ cơ: ý nói lộ bị mật
Gặng hỏi: cũng nói hỏi gặng, hỏi đi hỏi lại cho kỳ được.
Để phù hợp với lứa tuổi độc giả, Ban Biên tập Thế giới cổ tích đã thay đổi lại nội dung đoạn kết.
Soạn bài Tấm Cám lớp 10
Truyện cổ tích Tấm Cám từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, tập 1. Đây là vừa là truyện cổ tích thần kỳ, vừa là truyện cổ tích thế sự tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Cũng như phần lớn các truyện cổ tích thế sự khác, Tấm Cám đề cao công lí đồng thời là điều mong ước thiết tha của nhân dân lao động thời xưa trong mối quan hệ xã hội là: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
“Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.”
Về hình thức nghệ thuật, truyện Tấm Cám mang nhiều hình ảnh, chi tiết ý vị, đậm đà màu sắc dân tộc và dân gian: từ hình ảnh các loài vật gần gữi như con cá bống nuôi trong giếng, con gà mái bới xương, đàn chim sẻ nhặt thóc, con voi của nhà vua, con chim vàng anh biết nói… cho tới hình ảnh các loài cây cối quen thuộc như cây cau trong vườn nhà Tấm, cây xoan đào trong cung vua, cây thị bên bờ đường, quả thị của bà lão hàng nước… và cả những hình ảnh các đồ vật hàng ngày như chiếc giỏ xúc tép của Tấm, chiếc khung cửi bằng gỗ xoan đào, cái võng của nhà vua, miếng trầu têm cánh phượng của bà lão hàng nước, và đặc biệt là chiếc giày nạm kim cương xinh đẹp của Tấm, v.v… Tất cả với những hình ảnh đầy ý vị đó đều gắn bó rất mật thiết với từng bước phát triển số phận của Tấm – nhân vật trung tâm trong truyện, và đều để lại cho mọi người những ấn tượng sâu sắc, kì thú, khó có thể quên được.
Ngoài ra, những lời ăn tiếng nói có vần điệu của người và nhận vật trong truyện (gà, chim, khung cửi, quạ…) theo phong cách dân gian lại tạo cho câu chuyện một không khí giao cảm hài hòa giữa thế giới tự nhiên và con người trong thời cổ xưa, do đó có sức lôi cuốn lạ thường đối với người nghe truyện.
Phân tích nhân vật tấm trong truyện Tấm Cám
Mụ dì ghẻ: Cách bóc lột của mụ (dùng cái yếm đỏ để dử Tấm). Lòng độc địa nham hiểm của mụ (bắt bống của Tấm: bống tượng trưng cho cái gì? Lấy rựa đẵn gốc cau, để cho con mình thay Tấm làm Hoàng hậu, giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, đốt khung cửi, kỳ tiêu diệt được Tấm mới thôi).
Tấm: Tính cách hiền lành, chất phác, cần cù, nhẫn nại, yêu lao động, luôn luôn chịu đựng và hy vọng. Tấm đối với bà lão hàng nước, Tấm đối với chồng như thế nào?
Cám: Đại diện cho nhân vật phản diện, ghen ăn tức ở. Là chi em cùng cha khác mẹ, nhưng Cám đã dùng những thủ đoạn nào với Tấm?
Bụt: Bụt tượng trưng cho cái gì? Trong chuyện đời xưa, tại sao thường có sự can thiệp của Trời, Phật, Bụt?
Ông vua: Quan niệm của nông dân trong thời phong kiến đối với vua như thế nào? Tại sao? Tác phong của nhà vua trong truyện (vào quan uống nước, ăn trầu, lập hoàng hậu bất cứ với người giai cấp nào).
Những nhân vật phụ: Gà, Quạ cũng đứng về phe chính nghĩa.
Bố cục khi soạn bài Tấm Cám
Câu chuyện có thể chia làm 4 đoạn chính với nội dung cụ thể như sau:
Đoạn 1: Mẹ con Cám dối trá, cướp công của Tấm
Đoạn này bước đầu giới thiệu với chúng ta các nhân vật chính trong truyện (Tấm, Cám, mụ dì ghẻ và ông Bụt) trong cuộc tranh chấp đầu tiên mở đầu cho mối mâu thuẫn sẽ ngày càng phát triển gay gắt, quyết liệt trong các đoạn sau.
Đoạn 2: Tấm đi dự hội đánh rơi chiếc giày đẹp, được nhà vua kén làm vợ.
Ở đoạn này, kịch tính bắt đầu phát triển cao hơn, dồn dập hơn, chủ yếu qua hai tình tiết chính: một là việc Bụt tận tình giúp đỡ cho Tấm đi dự hội của nhà vua mở, hai là việc Tấm đánh rơi chiếc giày đẹp, là đầu mối cho toàn bộ diễn biến câu chuyện đầy kịch tính và đầy yếu tố kì lạ về sau.
Đoạn 3: Mẹ con Cám gian ác, nham hiểm, quyết tâm hãm Tấm để cướp đoạt hạnh phúc của Tấm.
Trọng tâm của truyện cổ tích Tấm Cám là ở đoạn này. Tình tiết của câu chuyện diễn biến mỗi lúc một phức tạp, sôi nổi, kịch tính của truyện cũng phát triển ngày càng cao hơn, thể hiện cuộc xung đột diễn ra hết sức gay gắt giữa một bên là mrj con mụ dì ghẻ quyết “hủy diệt” cuộc sống của Tấm để cướp đoạt bằng được hạnh phúc của nàng, và một bên là Tấm chống cự lại quyết liệt dã tâm nham hiểm của hai người họ (“Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”…); dù phải “hóa kiếp” tới bốn lần thành chim muông, cây cỏ, cuối cùng Tấm vẫn hiện trở lại thành người để giành lại quyền sống và quyền hưởng hạnh phúc.
Đoạn 4: Mẹ con Cám bị trừng phạt đích đáng.
Tấm hiện hình trở lại thành người và lại được vua đón về cung. Nhưng vẫn còn Cám – đứa em cùng cha khác mẹ hết sức bất nhân bất nghĩa, vẫn còn mụ dì ghẻ cực kì độc ác, nham hiểm; nghĩa là vẫn còn mâu thuẫn và mâu thuẫn càng phát triển lên tới đỉnh cao. Sau bốn lần thất bại liên tiếp, liệu Tấm sẽ đối xử với mẹ con Cám như thế nào? Trừng trị hay khoan dung?
Tìm Hiểu Văn Bản: Tấm Cám (Truyện Cổ Tích)
– Truyện cổ tích là những tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận những con người bình thường trong xã hội có giai cấp, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
– Truyện cổ tích được chia thành ba loại: cổ tích về loài vật, cổ tích sinh hoạt và cổ tích thần kì. Trong đó, truyện cổ tích thần kì là phong phú nhất và chiếm số lượng nhiều nhất.
b. Đặc trưng của truyện cổ tích thần kì
– Sự tham gia của yếu tố thần kì là khá phổ biến (tiên, bụt, sự biến hoá thần kì, những vật có phép màu…).
– Kết cấu tương đối thống nhất: Dạng kết cấu phổ biến là nhân vật chính trải qua những phiêu lưu, hoạn nạn, thử thách, cuối cùng đạt được ý nguyện của mình.
– Nhân vật chính phần lớn là những con người bình thường.
– Mâu thuẫn, xung đột gia đình và xã hội được thể hiện dưới dạng khái quát: đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác.
– Tấm Cám là một truyện cổ tích đặc sắc trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Câu chuyện này được truyền miệng từ bao đời nay, là kết quả của quá trình sáng tác tập thể, gắn bó mật thiết với các sinh hoạt tinh thần trong đời sống cộng đồng.
– Văn bản Tấm Cám đưa vào SGK được chọn từ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, của Nguyễn Đổng Chi, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.
– Tấm Cảm là một tác phẩm tự sự. Đây là câu chuyện về cuộc đời Tấm – cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống với mẹ con người dì ghẻ độc ác, trải qua nhiều nỗi khổ, Tấm đã tìm thấy hạnh phúc và đấu tranh quyết liệt đến cùng để giành lại cuộc sống, giữ gìn được hạnh phúc.
– Theo hệ thống thể loại văn học dân gian thì Tấm Cám thuộc loại truyện cổ tích thần kì. Truyện cổ tích có nguồn gốc xa xưa được phát triển trong xã hội có giai cấp cùng với sự xuất hiện chế độ tư hữu tư sản, chế độ gia đình phụ quyền thời cổ.
– Kiểu truyện Tấm Cám rất phổ biến ở nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới: Cô bé lọ lem (Pháp), Chiếc hài cườm pha lê (Đức),… và có những điểm chung về nội dung như:
+ Phản ánh số phận của những con người nhỏ bé, bất hạnh.
+ Thể hiện ước mơ về sự công bằng, dân chủ, hạnh phúc.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Cha mẹ mất sớm, Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Một lần, khi đi bắt tôm tép ngoài đồng, Cám đã lừa Tấm, trút hết tép vào giỏ của mình. Tấm khóc, Bụt hiện lên bảo Tấm mang con bống còn sót lại trong giỏ về nuôi ở giếng. Mẹ con Cám biết chuyện, lừa Tấm bắt bống giết thịt. Mất bống, Tấm ngồi khóc thì Bụt lại hiện ra và bảo Tấm hãy nhặt lấy xương bống bỏ vào bốn lọ chôn ở bốn chân giường. Ít lâu sau, nhà vua mở hội. Dì ghẻ lấy gạo trộn lẫn với thóc, bắt Tấm ở nhà nhặt rồi cùng Cám đi trảy hội. Tấm ngồi khóc một mình, Bụt lại hiện ra và sai đàn chim sẻ xuống nhặt giúp, lại bảo Tấm đào các lọ chôn ở chân giường lên để có đủ mọi thứ để đi trảy hội. Trên đường trảy hội, khi phóng ngựa qua chỗ lội Tấm đánh rơi một chiếc giày mà không kịp nhặt. Nhà vua đi qua nhặt được chiếc giày xinh xắn liền ra hạ lệnh để tất cả đàn bà con gái đi xem hội ướm thử, ai đi vừa thì sẽ lấy làm vợ. Tất cả không ai ngoài Tấm đi vừa chiếc giày rồi được rước vào cung làm vợ vua.
Ngày giỗ cha, Tấm về nhà, mẹ con Cám ghen ghét bày mưu để Tấm trèo cau rồi chặt gốc, giết chết Tấm. Cám vào cung thay Tấm. Tấm chết hoá thành chim vàng anh quấn quýt bên vua, Cám bắt chim làm thịt vứt lông chim ra vườn. Lông chim hoá ra hai cây xoan đào, vua thấy đẹp bèn sai mắc võng nằm chơi hóng mát hằng ngày, Cám sai chặt hai cây xoan đào làm khung cửi. Cám ngồi dệt, từ khung cửi phát ra tiếng oán trách. Cám đem đốt khung cửi, vứt tro ra xa hoàng cung. Từ đống tro mọc lên cây thị, đến mùa thị chỉ ra một quả và được bà lão hàng nước đem về. Hàng ngày, khi bà lão đi vắng, Tấm từ trong quả thị chui ra giúp bà mọi việc trong nhà xong lại chui trở vào. Bà lão rình biết được bèn ôm choàng lấy Tấm, nhận làm con. Một hôm vua đi chơi qua, ghé vào quán nước của bà lão, nhận ra Tấm và đón nàng về cung. Thấy Tấm ngày càng xinh đẹp, Cám hỏi, Tấm lừa Cám tự đào hố rồi sai đổ nước sôi. Cám chết, Tấm đem xác làm mắm và gửi về cho dì ghẻ. Mụ dì ghẻ ăn đến khi mắm gần hết thì thấy đầu lâu con gái, mụ lăn đùng ra chết.
– Phần 1: từ đầu đến “đẹp thế”: Thân phận của Tấm – cô gái mồ côi và con đường đến với hạnh phúc.
– Phần 2: từ “Vào cung vua” đến hết: Cuộc đấu tranh quyết liệt của Tấm để giành lại sự sống và hạnh phúc.
– Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám phản ánh mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ nói riêng; mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, giữa thiện và ác trong xã hội nói chung.
+ Tấm đại diện cho loại nhân vật mồ côi (mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi; sau đó ít năm người cha cũng chết): chăm chỉ, hiền lành, đôn hậu (mải miết bắt được đầy giỏ tâm tép không quản trời nắng, bớt phần ăn dành nuôi bống, cho trâu đi ăn thật xa,…)
+ Mẹ con người dì ghẻ là hiện thân của cái ác: Cám lừa gạt chị xuống tắm, trút hết tôm tép của Tấm vào giỏi của mình để giành chiếc yếm đỏ; mẹ con Cám rắp tâm lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để tiện bề bắt con cá bống – nguồn vui duy nhất của Tấm; trắng trợn trộn một đấu thóc vào một đấu gạo để bắt Tấm ngồi nhặt, không được đi hội do nhà vua mở;…
– Mâu thuẫn từ chỗ xoay quanh quyền lợi vật chất và tinh thần trong cuộc sống gia đình thường ngày (dì ghẻ – con chồng) đến mức biến thành xung đột về quyền lợi xã hội.
– Mâu thuẫn phát triển ngày càng gay gắt, không thể dung hòa, buộc phải giải quyết: Mọi đau khổ, tủi cực của Tấm đều bắt nguồn từ mẹ con Cám. Cô gái Tấm mồ côi chỉ biết khóc khi lừa gạt, bị tước đoạt đến cả những niềm vui bé nhỏ nhất. Trong truyện này, cũng như hầu hết các truyện cổ tích khác, nhờ sự can thiệp của các yếu tố kì ảo, xung đột thiện – ác cũng được giải quyết theo hướng: dù khó khăn đến đâu, dù lâu hay chóng thì cái thiện cuối cùng cũng thắng cái ác.
– Tấm có được hạnh phúc nhờ có sự giúp đỡ của Bụt. Cách giải quyết mâu thuẫn như vậy thể hiện ước mơ của người lao động, niềm tin của họ về lẽ công bằng mà trong đời sống thực còn quá mong manh và hầu như khó có thể thực hiện được.
+ Tấm bị Cám lừa nên không được thưởng chiếc yếm đỏ, chỉ biết khóc – Bụt xuất hiện an ủi cô, bày cho cô cách nuôi bống để làm bầu bạn.
+ Tấm bị mất cá bống – được gà tìm xương, được Bụt cho hi vọng đổi đời.
+ Tấm không được đi hội – Bụt cho chim sẻ xuống giúp nhặt thóc ra khỏi gạo, đưa Tấm đến đỉnh cao hạnh phúc: gặp vua và trở thành hoàng hậu.
– Tấm trở thành hoàng hậu nhưng cái ác vẫn đeo bám, vẫn tìm cách chiếm đoạt tất cả những gì Tấm có được, muốn tiêu diệt Tấm đến cùng. Khác với phần đầu câu chuyện, ở phần hai, cuộc đấu tranh giữa Tấm và mẹ con Cám hết sức quyết liệt nhưng ta không thấy Tấm khóc, cũng không thấy nhân vật Bụt xuất hiện; chỉ thấy sau mỗi lần hóa thân: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửu, quả thị – một cô Tấm ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt sống dậy, trở lại cuộc đời để đòi quyền được sống, đòi lại hạnh phúc đã bị Cám cướp mất.
– Các yếu tối kì ảo ở phần hai không thay thế Tấm trong cuộc đấu tranh quyết liệt với mẹ con Cám, dường như nó là nơi Tấm hóa thân để trở lại đối đầu với kẻ ác, để giành lại hạnh phúc của mình. Lại một lần nữa, người đọc cảm nhận được quan niệm giản dị, thực tế về hạnh phúc của người lao động: người tốt phải tự mình tiêu diệt cái ác, giành lại hạnh phúc; hạnh phúc chỉ có thể có ở cuộc đời thực, chỉ trọn vẹn khi không còn cái ác, khi cái ác đã bị tiêu diệt đến cùng. Sự hóa thân của Tấm không hẳn là do ảnh hưởng của thuyết luân hồi của nhà Phật; nếu có chăng, tác giả dân gian chỉ mượn cái vỏ ngoài để thể hiện ước mơ, tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi.
– Chi tiết Tấm ẩn mình trong quả thị và từ quả thị bước ra, trở lại làm người là một chi tiết có giá trị thẩm mĩ cao. Ý nghĩa cổ xưa nhất của nó là một quan niệm của tác giả dân gian (Sọ Dừa là một cục thịt biết lăn tròn, biến thành chàng trai khôi ngô tuấn tú – trong truyện Sọ Dừa; người đẹp từ trong tranh bước ra – trong truyện Tú Uyên – Giáng Kiều; cô gái mang lốt cóc xấu xí bẩn thỉu trở thành người, lấy được người chồng dũng cảm, đẹp đẽ – truyện Lấy vợ cóc;…). Sau này, một lớp nghĩa mới mang tính hiện đại hơn được gửi gắm ở chi tiết biến hóa cuối cùng của Tấm, đó là nội dung tốt đẹp thường được ẩn dưới một hình thức bình thường, thậm chí xấu xí.
– Kết thúc truyện cổ tích Tấm Cám là kết thúc có hậu: mẹ con Cám bị trừng phạt thích đáng; cô Tấm mồ côi bị đọa đày sau bao lần chết đi sống lại cuối cùng vẫn gặp được nhà vua, vẫn là hoàng hậu bên những người dân hiền lành tử tế.
– Trong sự trở về của Tấm có vai trò của miếng trầu têm cánh phượng, một hình ảnh quen thuộc trong đời sống văn hóa Việt Nam, trong lễ tết, cưới hỏi của người Việt. Và ở đây, trong sự hội ngộ của nhà vua với người vợ khéo léo, đảm đang của mình, miếng trầu têm cánh phượng lại có mặt, như một sự nhận viết thiêng liêng mang đậm dấu ấn dân tộc Việt, càng tôn thêm giá trị nhân văn của câu chuyện.
Sự biến hóa của Tấm thể hiện sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của con người trước sự vùi dập của kẻ ác. Đây là sức mạnh của cái thiện chiến thắng cái ác qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng đến cùng. Chiến thắng ấy thể hiện niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, tinh thần lạc quan và ước mơ về một xã hội công bằng.
– Cốt truyện li kì, hấp dẫn với những mâu thuẫn, xung đột ngày càng quyết liệt.
– Xây dựng nhân vật theo hai tuyến đối lập.
– Sử dụng các yếu tố, chi tiết tưởng tượng kì ảo
Kể Lại Truyện Tấm Cám Bằng Lời Văn Của Em Hay Nhất
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em hay nhất
Tấm Cám là câu chuyện cổ tích rất nổi tiếng mà tuổi thơ của chúng ta ai cũng từng đọc qua. Em hãy kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em, một bài viết do chúng tôi chia sẻ làm tư liệu hữu ích cho những bạn đang quan tâm.
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em
Truyện “Tấm Cám” thể hiện giá trị tư tưởng giữa mâu thuẫn, xung đột trong gia đình và ngoài xã hội. Qua câu truyện, ta còn thấy được ước mơ nhân dân về chiến thắng cái thiện và cái ác, về hạnh phúc gia đình, công bằng xã hội, về năng lực và phẩm chất tuyệt vời của con người.
Truyện kể rằng ở ngôi làng kia có hai chị em cùng cha khác mẹ. Cô chị tên là Tấm, mồ côi mẹ từ nhỏ sống cùng cha và mẹ ghẻ. Cha cô đổ bệnh mà qua đời khiến Tấm khổ cực hơn. Cám – cô em cùng cha của Tấm, được mẹ nuông chiều chỉ biết rong chơi không chịu làm việc. Tấm phải chịu cảnh mẹ ghẻ con chồng và sống cùng đứa em đầy mưu mô.
Tấm và Cám được mẹ sai đi hớt tép và mẹ có treo thưởng. Tấm chăm chỉ bắt được đầy giỏ trong khi Cám chỉ mải mê rong chơi. Khi Cám nhìn thấy giỏ tép đầy của Tấm, Cám đã bày mưu lừa trút hết giỏ tép đầy kia. Tấm bị lừa ngồi bưng mặt khóc. Tấm khóc và bụt hiện lên giúp đỡ. Bụt hỏi Tấm xem trong giỏ còn thứ gì không và Tấm đã tìm thấy một chú cá bống còn sót lại. Bụt dạy Tấm cách chăm sóc cá bống, ngày ngày Tấm đều phần cơm cho cá bống ăn. Mẹ con nhà Cám rình Tấm và biết được sự có mặt của cá bống dưới giếng liền lập mưu giết chết cá bống của Tấm. Tấm về nhà theo thói quen thường ngày cho cá bống ăn nhưng gọi mãi chả thấy bống đâu và Tấm lại khóc. Bụt lại hiện lên và bảo Tấm đi tìm xương cá bống còn sót lại, kiếm bốn cái lọ cho xương cá bống vào đó rồi chôn xuống chân giường.
Nhà vua cho mở hội già trẻ gái trai ai cũng đều nô nức. Tấm xin dì ghẻ cho đi chơi hội nhưng dì ghẻ đã trộn gạo lẫn thóc và bắt Tấm ở nhà nhặt cho bằng xong rồi mới được đi chơi hội. Uất ức Tấm bật khóc. Lúc này, Bụt lại hiện lên và giúp đỡ cho Tấm nhặt thóc bằng cách gọi bầy chim sẻ đến. Bụt còn chỉ cho Tấm cách có quần áo, giày đẹp, ngựa để đi trẩy hội bằng cách đào bốn cái lọ xương cá dưới chân giường lên. Khi đi qua cầu Tấm đánh rơi một chiếc giày. Ngựa của nhà vua có đi qua chiếc cầu đó và sai quân lính xuống mò xem cái gì và phát hiện chiếc giày xinh đẹp. Vua sai lệnh cho người dân ướm thử, ai vừa sẽ lấy người đó làm vợ. Ai ai cũng muốn ướm thử và mẹ con nhà Cám cũng vậy. Tấm cũng muốn thử và khi đến lượt Tấm thì chiếc giày vừa như in, giống với chiếc giày trong túi của Tấm. Tấm trở thành hoàng hậu và được vào cung.
Tấm tuy quen với cuộc sống sung sướng nhưng vẫn chẳng quên ngày giỗ của cha mình. Cô đã xin phép nhà vua cho mình trở về làm giỗ cho cha cùng dì và em. Mẹ con Cám có mưu giết hại Tấm và cho Cám vào cung thay thế. Khi Tấm chết, Tấm hóa thành chim vàng anh ngày ngày ở bên cạnh vua. Mẹ con Cám thấy tức với chim vàng anh bèn lập tức giết vàng anh và bỏ lông ra góc vườn. Góc vườn mọc lên hai cây xoan đào, tỏa bóng mát. Nhà vua thấy thích bèn sai quân lính mắc võng ở đây và nằm ngủ. Mẹ con Cám lại bày mưu chặt cây xoan lấy gỗ làm khung cửi. Khung cửi khi dệt toàn vang lên những tiếng chửi rủa khiến Cám sợ hãi và đem đi đốt, vứt tro tại nơi đó mọc lên một cây thị thơm ngào ngạt nhưng chỉ có duy nhất một quả. Một hôm, có bà lão đi qua đem lòng yêu mến bèn hứng túi ra xin thị về ở với bà. Quả thị rơi ngay túi bà và từ đó ngày ngày bà đi chợ Tấm đều xuất hiện từ trong quả thị chui ra ngoài giúp bà lão dọn nhà, nấu cơm. Bà cụ phát hiện nên đã rình và bắt được. Bà xé nát vỏ thị và từ đó Tấm ở lại làm con gái của bà lão.
Một hôm vua vi hành nhận ra cánh trầu têm giống với cách têm trầu của vợ mình. Vua liền gọi bà lão ra hỏi và nhận ra con gái của lão chính là người vợ đã chết của mình – Tấm. Sau đó vua đón Tấm trở lại cung. Khi về, Cám thấy Tấm xinh đẹp hơn xưa nên đem lòng ghen ghét, hỏi Tấm cách làm trắng da. Cám làm theo sự hướng dẫn của Tấm và chết thảm. Mẹ Cám khi hay tin con gái mình chết cũng lăn đùng ra chết theo.
Theo chúng tôi
Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Đọc Văn Tấm Cám trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!