Bạn đang xem bài viết Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Vịnh Quả Mít (Hồ Xuân Hương) được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì múi nó dày
Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay
Bản khắc 1922
Câu 3: Quân tử có yêu thì đóng nõ
Câu 4: Xin đừng mân mó nhựa ra tay
Bản Quốc văn tùng ký
Câu 3: Quân tử có thương thì đóng cọc
Câu 4: Xin đừng mân mó nhựa ra tay
Bản Xuân Hương thi sao
Tựa đề: Vịnh quả mít
Câu 1: Của tôi như quả mít trên cây
Câu 3: Quân tử có yêu thì đóng cọc
Câu 4: Xin đừng mân mó nhựa ra tay
Bản Quế Sơn thi tập
Tựa đề: Ba la mật
Câu 1: Dái này hẳn ở chạc ba cây
Câu 3: Quân tử có say xin đóng cọc
Câu 4: Chớ đừng mân mó nhựa ra tay
Hình ảnh quả mít trong thơ Hồ Xuân Hương
Bài thơ Vịnh quả mít tự phần ngôn từ của nó không thanh cao nhưng nó cũng không tục tĩu mà nhìn chung là do cảm nhận của người đọc. Bài thơ này được mở đầu bằng công thức thân em rất nhã nhặn, nhún nhường. Và nó cũng chính là mô típ chung của các bài ca nói chung khi viết về người phụ nữ.
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì múi nó dày
Quả mít trông vẻ ngoài có vẻ nhàm chán, xù xì nhưng nó lại có múi dày và ngọt, và nó cũng ngọt đậm hơn một số quả khác. Thêm vào đó nó có cái hương vị của người phụ nữ thôn quê vất vả và dân dã. Và có lẽ cũng vì thế mà họ tủi cho thân phận của mình nên đã cầu xin nhưng đấng nam tử.
Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay
Đóng cọc cũng coc nghĩa là quả mít đang non cần đóng vào phần đầu cuống để chảy bớt nhựa và mau chín. Nó còn có nghĩa là đóng cái cuộc đời của mình, bằng thứ tình cảm chân thành giản dị. Và cũng đừng mân mê quả mít, và cũng đừng coi tình cảm của người phụ nữ như là một nét thoáng qua để rồi diễu cợt họ. Nó cũng chính là cái phẩm giá của người phụ nữ và đừng làm họ thêm khổ đau. Có như vậy mới đáng mặt nam nhi.
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Của Hồ Xuân Hương
Cảm nhận về bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận, được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ tinh tế, độc đáo. Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữu tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm. Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả. Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng.
Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữa vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Bài Ca Xuân 68
Anh chị em ơi!
Hãy giương súng lên cao, chào Xuân 68
Xuân Việt Nam
Xuân của lòng dũng cảm.
Ai đến kia, rộn rã cùng Xuân?
Hoan hô anh Giải phóng quân. Kính chào Anh,
con người đẹp nhất!
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang: bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một dây ná, mót cây chông, cùng tiến công giặc Mỹ.
Không tự ngắm mình. Anh chẳng hay đâu.
Hỡi chàng dũng sĩ! Cả năm châu, chân lý đang nhìn theo
Bóng Anh đi… và vành mũ tai bèo
Của Anh đó!
Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ.
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mình trời xanh mà xông xáo,
mà tung hoành, ngang dọc.
Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả
Lầu năm góc! Ta muốn hỏi Trường Sơn
Có đỉnh nào cao hơn
Chiếc mũ kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?
Cảm ơn Đảng của chúng ta, Đảng làm ra ánh sáng
Người chưa đưa ta lên được sao Kim.
Nhưng đã cho ta một linh hồn và một trái tim
Biết lẽ phải, biết yêu thương, căm giận
Biết đi tới và làm nên thắng trận
Hôm nay sao vui thế? Sáng xuân nay
Ta đi tới, lòng ta như bay
Với mỗi làn mây, với từng cơn gió
Gió miền Bắc đang thổi vào Nam đó!
Gió mây đi, không đợi nắng xuân về
Không bay đi mà che những đoàn xe
Và những đoàn quân tuôn ra tiền tuyến….
Tổ quốc ta hai mươi ba năm đau khổ gian nan:
bền gan kháng chiến.
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về la!
Hôi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lắng nghe… Phút giao thừa đang chuyển
Bác Hồ tới ấy là mùa xuân đến…
Hoan hô Xuân 68 anh hùng!
Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng
Tất cả pháo!
Và xông lên, dũng sĩ!
Như khí phách Trần, Lê
Như oai vũ Quang Trung.
Khắp thành thị nông thôn
Đánh tan đầu Mỹ, Nguỵ!
Vì Độc lập, Tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị Con Người
Vì muôn đời hoa lá xanh tươi
Ta quyết thắng. Giành mùa xuân đẹp nhất.
Cảm nhận bài thơ Bài Ca Xuân 68 của nhà thơ Tố Hữu
Những năm đất nước còn chiến tranh, nhà thơ Tố Hữu vẫn thường viết những bài thơ xuân để ngợi ca những chiến công của đất nước, của dân tộc. Một trong những bài thơ xuân hay nhất của ông là “Bài ca xuân 68” – bản anh hùng ca về người chiến sĩ giải phóng quân.
Trong ký ức của nhiều người Việt, mỗi khi Tết đến Xuân về, mọi người thường chờ đợi thơ chúc Tết của Bác Hồ và sau đó là mong chờ những bài thơ xuân của nhà thơ Tố Hữu. Tố Hữu có nhiều bài thơ xuân hay: Xuân nhân loại, Bài ca Xuân 61, Tiếng hát sang Xuân, Xuân sớm, Chào Xuân 67, Với Đảng – mùa Xuân… Nhà thơ Tố Hữu viết Bài ca Xuân 68 ngày 23-1-1968 (chỉ một tuần trước khi nổ ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968).
Ngay khi mở đầu khúc ca xuân, nhà thơ đã reo vang với muôn triệu đồng bào, đồng chí: Anh chị em ơi!/Hãy giương súng lên cao, chào Xuân 68/Xuân Việt Nam/Xuân của lòng dũng cảm. Mạch thơ cuồn cuộn chảy khi nói về mùa xuân, và nhân vật chính của khúc ca xuân (người chiến sĩ giải phóng quân) hiện ra một cách giản dị, nhưng đẹp đẽ:
Ai đến kìa, rộn rã cùng Xuân?/Hoan hô anh Giải phóng quân/Kính chào Anh, con người đẹp nhất!/Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất/Sống hiên ngang, bất khuất trên đời/Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi/Một dây ná, một cây chông vẫn tiến công giặc Mỹ/Không tự ngắm mình, anh chẳng hay đâu, hỡi chàng dũng sĩ/Cả năm châu, chân lý đứng nhìn theo. Ở đây, với chất thơ mang đậm tính sử thi, những người lính “chân đất” bình dị đã được Tố Hữu nâng lên thành những anh hùng mang tầm vóc của thời đại và lịch sử.
Người lính Việt Nam ở đây thật dũng cảm, kiên cường, và nhà thơ đã gọi người chiến sĩ giải phóng quân là “con người đẹp nhất”. Ở đây, vẻ đẹp của mùa xuân chính là vẻ đẹp của con người – người chiến sĩ giải phóng quân hiên ngang, bất khuất: Bóng Anh đi và vành mũ tai bèo/Của anh đó!/Ôi chiếc mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ/Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành/Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh. Mà xông xáo mà tung hoành, ngang dọc/Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả lầu Năm Góc! Ta muốn hỏi Trường Sơn/Có đỉnh nào cao hơn/Chiếc mũ kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?…
Người lính giải phóng quân với chiếc mũ tai bèo giản dị, với tinh thần cách mạng bất khuất và những chiến công vang dội thật sự đã làm “run sợ cả lầu Năm Góc”. Người lính giải phóng quân Việt Nam thật đẹp bởi chiến đấu vì “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, được Đảng soi sáng dẫn đường.
Và không khí mùa xuân, không khí chuẩn bị cho một đại chiến dịch đã được nhà thơ “hát” lên trong niềm vui phơi phới: Hôm nay sao vui thế! Sáng xuân nay?Ta đi đây mà lòng ta như bay/Với mỗi làn mây, với từng cơn gió/Gió miền Bắc đang thổi vào Nam đó/Gió mây ơi, không đợi nắng xuân về/Hãy bay đi mà che những đoàn xe/Và những đoàn quân tuôn ra tiền tuyến…
Đọc những vần thơ ấy, trong ta luôn có cảm giác rạo rực. Hình ảnh những đoàn quân vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu với tinh thần Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai như hiển hiện ra trước mắt.
Sau những tiếng reo vui ấy, nhà thơ đã ngầm báo hiệu thời khắc mở màn chiến dịch: Tổ quốc ta! Hai mươi ba năm đau khổ/Gian nan, bền gan kháng chiến/Tiến lên!/Toàn thắng ắt về ta!Hỡi bốn phương và những chiến trường xa/Xin lắng nghe… /Phút giao thừa đang chuyển/Bác Hồ gọi. Ấy là mùa xuân đến…
Cái cách dùng mấy câu thơ Phút giao thừa đang chuyển/Bác Hồ gọi. Ấy là mùa xuân đến là cách để thông tin cho “bốn phương và những chiến trường xa” làm chúng ta nhớ lại tình tiết cô gái Nga hát bài tình ca Đôi bờ để báo cho người lính Hồng quân Xô Viết biết sáng sớm mai Hồng quân sẽ tấn công vào căn cứ địch ở trong một bộ phim nói về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ 2.
Đoạn cuối của Bài ca Xuân 68, nhà thơ đã dự cảm và tiên đoán về một cuộc tổng tiến công của “khắp thành thị nông thôn” với khí phách oai hùng của cha ông để giành lấy mùa xuân cho dân tộc: Hoan hô Xuân 68 anh hùng/Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng/Tất cả pháo/Và xông lên, dũng sĩ/Như khí phách Trần, Lê.
Như oai vũ Quang Trung/Khắp thành thị nông thôn/Đánh tan đầu Mỹ, ngụy/Vì Độc lập, Tự do, núi sông hùng vĩ/Vì thiêng liêng giá trị Con người/Vì muôn đời hoa lá xanh tươi/Ta quyết thắng. Giành mùa xuân đẹp nhất.
40 năm đã qua nhưng với Bài ca Xuân 68 của Tố Hữu, khí thế tiến công của Xuân Mậu Thân 1968 như vẫn còn vang vọng đến hôm nay.
Bài Ca Xuân 68Theo chúng tôi là một thi phẩm đi cùng năm tháng gắn liền với một giai đoạn lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc ta. Bài thơ chính là lời kêu gọi khơi gợi tinh thần yêu nước và chiến đấu của nhân dân ta. Đến nay, bài thơ này vẫn vẹn nguyên giá trị và được ca ngợi mạnh mẽ. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2 Của Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương
I. Sơ lược về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Trước hết, bài cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 xin dành vài dòng để giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương. Cho đến hiện tại giới nghiên cứu vẫn chưa đưa ra tài liệu chính xác về năm sinh và năm mất của Hồ Xuân Hương – một nữ sĩ tài danh của làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mặc dù quê của bà ở Nghệ An nhưng bà lại sống gắn bó với mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến. Hồ Xuân Hương may mắn có cơ hội được đi đến nhiều nơi và kết thân với nhiều danh sĩ thế nhưng có một điều không may mắn với bà là cuộc đời, tình duyên lại có lắm ngang trái, éo le.
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” vì đã đóng góp cho đời những bài thơ chữ Nôm giàu giá trị (sáng của Hồ Xuân Hương bao gồm thơ chữ Hán và chữ Nôm, nhưng thơ Nôm có phần nổi bật hơn). Theo các tài liệu lưu truyền thì tên tuổi của Hồ Xuân Hương gây được tiếng vang là bởi trên dưới 40 bài thơ Nôm. Ngoài ra, Hồ Xuân Hương còn có tập “Lưu hương kí” gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm. Hồ Xuân Hương để lại ấn tượng trong lòng độc giả nét phong cách trào phúng mà trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Với phong cách ấy, bà thường chọn nội dung về người phụ nữ để thể hiện tiếng nói thương cảm, đồng thời cũng khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
Nguồn: Internet
2. Bài thơ Tự tình 2
Khi cảm nhận bài thơ Tự tình 2, chúng ta còn cần giới thiệu đôi nét về tác phẩm. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật và nằm trong chùm thơ gồm ba bài thơ Tự tình. Chùm thơ nói chung và bài thơ này nói riêng chính là dịp để nhà thơ bày tỏ nỗi niềm của mình trước duyên phận hẩm hiu.
II. Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2
1. Hai câu đề
Hai câu đề đã diễn tả nỗi niềm buồn tủi của nhà thơ trong khung cảnh vắng lặng về đêm. Thời điểm ấy được gợi lên rất rõ qua các từ “đêm khuya”, “văng vẳng” và càng trở nên dồn dập hơn khi tiếng “trống canh dồn” hối thúc liên hồi. Tiếng điểm nhịp của thời gian cũng chính là tiếng trống của tâm trạng. Chính tiếng trống ấy đã gợi ra phần nào sức tàn phá của thời gian vì được cảm nhận bằng chính tâm trạng mang cảm thức cô đơn và lo ngại trước bước đi của thời gian.
Từ khung cảnh ấy, nhà thơ gửi gắm chút cảm nhận về sự bẽ bàng của duyên phận. Nếu từ “trơ” có tác dụng nhấn mạnh thì sự kết hợp giữa “hồng nhan” và từ “
cái” ở sau đó lại hàm ẩn sự cay đắng, xót xa. Thế nhưng bên cạnh đó, “trơ” còn được hiểu là sự thách thức, bản lĩnh của những người phụ nữ cá tính như nhân vật trữ tình.
Nguồn: Internet
2. Hai câu thực
Hai câu tiếp theo diễn tả rõ hơn cảnh và tình của nhân vật. Trong thời khắc về khuya mà chủ thể trữ tình còn thao thức hẳn phải có ít nhiều tâm sự. Hình ảnh “chén rượu hương đưa” chính là một sự xác nhận cho điều đó bởi chén rượu nhấm nháp khi trời về khuya là chén rượu chất chứa vô vàn suy tư. Cụm từ “say lại tỉnh” như gợi lên sự luẩn quẩn, rối bời không thể giải tỏa.
Hình ảnh “vầng trăng” vào thời điểm “bóng xế” với tính chất “khuyết chưa tròn” như thấp thoáng trong đó thân phận của người con gái. Với cô, tuổi xuân hình như đã dần trôi qua nhưng tình duyên vẫn còn dang dở, hẩm hiu.
3. Hai câu luận
Cặp câu thứ ba của bài đã bộc bạch niềm khát khao mãnh liệt của con người. Những sinh vật bé mọn như “rêu”, “đá” phải mọc “xiên ngang mặt đất” và “đâm toạc chân mây” như một cách để phản kháng lại ngoại cảnh mà sinh tồn. Dường như tác giả đã mượn hình ảnh ấy để nói thay tâm trạng của mình.
Cặp câu có sử dụng những hình ảnh mạnh mẽ, từ ngữ độc đáo đã gián tiếp thể hiện một tâm hồn tràn đầy sức sống và niềm khao khát mãnh liệt của nữ sĩ họ Hồ. Dù trong nghịch cảnh, dù chịu sự đè nén, vùi dập nhưng vẫn kiên cường, bản lĩnh.
4. Hai câu kết
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Nguồn: Internet
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Hai câu thơ cuối chính là điểm nhấn của việc cảm nhận bài thơ Tự tình một sự thể hiện rõ rệt tâm trạng chán ngán, sầu tủi trước cuộc đời. Trong khi “xuân đi” rồi “xuân lại lại”, tạo hóa vẫn xoay vần như ngàn đời vẫn thế nhưng tuổi xuân với con người một khi đã qua thì không bao giờ trở lại nữa.
Câu thơ cuối cùng giúp người đọc dễ hình dung là bài thơ mang tâm trạng của một thân phận làm lẽ. Nói thế là bởi vì “mảnh tình” đã bé lại còn phải “san sẻ” rồi trở thành “tí con con” thì thật chua cay, đáng thương. Câu thơ kết lại khiến người đọc cảm thấy xót xa, mủi lòng của những “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa khi phải chịu cảnh chồng chung. Đối với họ, có lẽ hạnh phúc thật hẹp, người này đủ đầy thì kẻ khác lại lạc lõng, bơ vơ.
Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Vịnh Quả Mít (Hồ Xuân Hương) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!