Xu Hướng 6/2023 # Đọc Thơ Trần Nhân Tông # Top 10 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Đọc Thơ Trần Nhân Tông # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Đọc Thơ Trần Nhân Tông được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Xuân nhật yết Chiêu Lăng

Tì hổ thiên môn túc, Y quan thất phẩm thông. Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

là nhắc về niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 của vua Trần Thái Tông với chiến công oanh liệt : Ngày 17.01.1258, quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía Nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), vua Trần Thái Tông đã đích thân chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc: “Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn…”(theo Chuyện Nguyên Phong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Đến ngày 29.01.1258, tức chỉ nửa tháng sau, vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (vua Trần Thánh Tông sau nầy) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ Nhất.

“Người lính bạc đầu” là nói về những người lính 27 năm về trước (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 1), nay đã là những ông già đầu bạc, ngồi ôn lại chuyện cũ với lòng tự hào và xúc động.

Mặc dù đã đánh thắng quân nhà Nguyên xâm lược, nhưng trong chính sách ngoại giao khôn khéo với đối phương, vua Trần Nhân Tông luôn giữ phong thái đĩnh đạc: Khiêm hạ nhưng không yếu hèn, ôn nhu nhưng dũng lược,khoan hòa nhưng vẫn kiên định vững chắc, khiến cho quân thù phải nể nang và tôn trọng.

Ngày xuân viếng Chiêu Lăng

Quân thị vệ như hùm gấu, đứng nghiêm túc trước nghìn cửa, Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm. Người lính già đầu bạc còn ở nơi đây, Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.

Nhận xét : Bài thơ ngắn gọn cô đọng trong 4 câu, 20 chữ nhưng mỗi câu mỗi chữ như vết khắc trong lòng nhà vua Trần Nhân Tông đầy cảm xúc. Ý thơ bày tỏ lòng tri ân bậc tiền nhân và binh sĩ đã tham gia gia cuộc chiến chống xăm lăng vừa là niềm cảm khái với nét đẹp bi hùng và lòng tự hào dân tộc, tin tưởng tuyệt đối vào lòng yêu nước thương dân của bậc minh quân.

Ngày xuân vếng mộ Chiêu Lăng

Ngàn cửa gấu cọp canh, Áo quan thất phẩm rành. Lính canh nay đầu bạc Nguyên Phong trận liệt danh.

Ngày xuân thăm viếng Chiêu Lăng mộ, Thị vệ canh ngàn cửa đứng nghiêm. Bảy phẩm cân đai đầu đã bạc, Nguyên Phong kể lại liệt oanh thêm. .

Hương Lệ Oanh, VA

Cổ tự thê lương thu ái ngoại, Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ. Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá, Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.

Ngôi chùa cổ quạnh hiu trong lớp mây khói mịt mù của mùa thu, Thuyền câu buồn bã, chuông chùa bắt đầu điểm. Nước trong, núi lặng, cò trắng bay qua, Gió im, mây lững lờ, cây thưa lá đỏ.

Diễn thơ của các thi nhân:

Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa xưa sầu ngất, mây thu nhuốm, Thuyền cá buồn tênh, chuông chiều rơi. Núi tạnh nước trong, âu trắng lượn, Gió lặng mây nhàn, lá đỏ phơi.

Nguyễn Lương Vy

Châu Lạng chiều hôm

Chùa cổ đìu hiu, gió lộng sầu Chuông chùa hiu hắt vọng thuyền câu Cánh âu lờ lững nghiêng trên sóng Lá đỏ tơi bời đổ bến sâu.

Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa cổ đìu hiu mây trắng phủ Thuyền câu buồn bã tiếng chuông đưa Nước trong núi tĩnh con cò lượn Gió lặng mây nhàn lá đỏ thưa.

Nguyễn Cang

Cảnh chiều ở châu Lạng

Chùa xưa khói tỏa buồn hiu

Thuyền câu nằm đợi chuông chiều ghé chơi Nước trong cò trắng ngang trời Cây trơ lá đỏ gió khơi mây ngàn

Chiều Châu Lạng

Cổ tự chiều thu sầu quạnh quẻ, Thuyền câu lặng lẽ tiếng chuông buồn! Nước trong, núi vững đàn cò lượn, Lặng gió mây ngừng lá đỏ tuôn!

Hương Lệ Oanh, VA

Vài nét về tiểu sử vua Trần Nhân Tông:

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗 ; 7 tháng 12 năm 1258 – 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh Trần Khâm ( 陳昑 ), là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự (Vikipedia).Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi Tập, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập.

Cổ Thi :Đọc Thơ Trần Nhân Tông,Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng

https://donghuongkontum.files.wordpress.com/2015/09/tranh-hoa-trang24.mp3

ĐỌC THƠ TRẦN NHÂN TÔNG 

Nguyễn Cang

Bài 1: Xuân nhật yết Chiêu Lăng

Nguyên tác chữ Hán:

春日謁昭陵

貔虎千門肅

衣冠七品通

白頭軍士在

往往說元豐.

(陳仁宗)

Phiên âm:

     Xuân nhật yết Chiêu Lăng

Tì hổ thiên môn túc, Y quan thất phẩm thông. Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

(Trần Nhân Tông)

Chú thích từ ngữ:

yết(謁): yết kiến, báo cáo, vào hầu// thăm viếng.

tì hổ(貔虎): gấu, cọp.

túc(肅): cung kính, nghiêm nghị.

y quan(衣冠): y phục của quan.

tại(在): ở, như, còn//lời trợ ngữ chỉ đích danh chỗ nào.

vãng vãng(往往): thường thường

thuyết(說): nói, lấy lời nói giải thích rõ sự vật gì.

Chuyện Nguyên Phong là nhắc về niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 của vua Trần Thái Tông với chiến công oanh liệt : Ngày 17.01.1258, quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía Nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), vua Trần Thái Tông đã đích thân chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc: “Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn…” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Đến ngày 29.01.1258, tức chỉ nửa tháng sau, vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (vua Trần Thánh Tông sau nầy) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ Nhất.

“Người lính bạc đầu” là nói về những người lính 27 năm về trước (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 1), nay đã là những ông già đầu bạc, ngồi ôn lại chuyện cũ với lòng tự hào và xúc động.

Mặc dù đã đánh thắng quân nhà Nguyên xâm lược, nhưng trong chính sách ngoại giao khôn khéo với đối phương, vua Trần Nhân Tông luôn giữ phong thái đĩnh đạc: Khiêm hạ nhưng không yếu hèn, ôn nhu nhưng dũng lược,  khoan hòa nhưng vẫn kiên định vững chắc, khiến cho quân thù phải nể nang và tôn trọng.

Dịch nghĩa:

      Ngày xuân viếng Chiêu Lăng

Quân thị vệ như hùm gấu, đứng nghiêm túc trước nghìn cửa, Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm. Người lính già đầu bạc còn ở nơi đây, Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.

Nhận xét : Bài thơ ngắn gọn cô đọng trong 4 câu, 20 chữ nhưng mỗi câu mỗi chữ như vết khắc trong lòng nhà vua Trần Nhân Tông đầy cảm xúc. Ý thơ bày tỏ lòng tri ân bậc tiền nhân và binh sĩ đã tham gia gia cuộc chiến chống xăm lăng vừa là niềm cảm khái với nét đẹp bi hùng và lòng tự hào dân tộc, tin tưởng tuyệt đối vào lòng yêu nước thương dân của bậc minh quân.  

Dịch thơ:

    Ngày xuân vếng mộ Chiêu Lăng

Ngàn cửa gấu cọp canh,

Áo quan thất phẩm rành.

Lính canh nay đầu bạc

Nguyên Phong trận liệt danh.

Nguyễn Cang

Bài 2: 

Lạng Châu vãn cảnh

Nguyên tác chữ Hán :

諒州晚景

古寺淒涼秋靄外

漁船蕭瑟暮鐘初

水明山靜白鷗過

風定雲閒紅樹疏.

(陳仁宗)

Phiên âm:

   Lạng Châu vãn cảnh

Cổ tự thê lương thu ái ngoại,

Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.

Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá,

Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.

Chú thích từ ngữ:

Lạng Châu (諒州): một địa danh có ngôi chùa cổ thuộc tỉnh Hà Bắc ( Bắc Giang) miền bắc Việt Nam.

vãn(晚): buổi chiều, muộn

tự (寺): chùa

thê(淒): buồn bả thê lương, tịch mịch

ái(靄): mây đen mù mịt

ngư (漁): câu cá

tiêu (蕭): tịch mịch

mộ (暮): buổi chiều

chung(鐘): chuông

sơ(初): bắt đầu

quá (過): đi qua

thụ(樹): cây lớn

sơ(疏): thưa, ít

Dịch nghĩa:

     Cảnh chiều ở Châu Lạng

Ngôi chùa cổ quạnh hiu trong lớp mây khói mịt mù của mùa thu,

Thuyền câu buồn bã, chuông chùa bắt đầu điểm.

Nước trong, núi lặng, cò trắng bay qua,

Gió im, mây lững lờ, cây thưa lá đỏ.

Dịch thơ của các thi nhân:

Bản 1: Nguyễn Lương Vy

    Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa xưa sầu ngất, mây thu nhuốm,

Thuyền cá buồn tênh, chuông chiều rơi.

Núi tạnh nước trong, âu trắng lượn,

Gió lặng mây nhàn, lá đỏ phơi.

Bản 2: V.Ng

    Châu Lạng chiều hôm

Chùa cổ đìu hiu, gió lộng sầu

Chuông chùa hiu hắt vọng thuyền câu

Cánh âu lờ lững nghiêng trên sóng

Lá đỏ tơi bời đổ bến sâu.

Bản 3: Nguyễn Cang

    Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa cổ đìu hiu mây trắng phủ

Thuyền câu buồn bã tiếng chuông đưa

Nước trong núi tĩnh con cò lượn

Gió lặng mây nhàn lá đỏ thưa.

Nhận xét:

Bài thơ “Lạng Châu vãn cảnh” được vua Trần Nhân Tông sáng tác khi ngài đi thăm ngôi chùa cổ ở Lạng Châu, vào một buổi chiều mùa thu. Cảnh vật nơi đây  hoang vắng, chỉ có tiếng chuông từ xa vọng lại. Bên dòng sông nhỏ buồn hiu lặng lẽ, mặt nước phẳng lỳ, một chiếc thuyền câu lặng lờ trôi, trên không đàn cò trắng nhẹ cánh bay qua khu rừng lá thay màu đỏ rực như một bức tranh thủy mạc lung linh sinh động.

Vài nét về tiểu sử vua Trần Nhân Tông:

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh Trần Khâm (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự (Vikipedia).Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi Tập, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập.

———-

Nguyễn Cang

(10/9/18)

Share this:

Twitter

Facebook

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Đề Đọc Hiểu Về Bài Thơ Dặn Con – Trần Nhuận Minh

                                                                      Đọc hiểu: DẶN CON                                                                Chẳng ai muốn làm hành khất                                                                Tội trời đày ở nhân gian                                                                Con không được cười giễu họ                                                                Dù họ hôi hám úa tàn

                                                               Nhà mình sát đường họ đến                                                                Có cho thì có là bao                                                                Con không bao giờ được hỏi                                                                Quê hương họ ở nơi nào

                                                               Con chó nhà mình rất hư                                                                Cứ thấy ăn mày là cắn                                                                Con phải răn dạy nó đi                                                                Nếu không thì con đem bán

                                                               Mình tạm gọi là no ấm                                                                Ai biết cơ trời vần xoay                                                                Lòng tốt gửi vào thiên hạ                                                                Biết đâu nuôi bố sau này.

                                                                                          (Trần Nhuận Minh) 1. Xác định phương thức biểu đạt  trong văn bản trên ? 2. Nêu ý nghĩa của cách dùng từ “hành khất” mà không phải là “người ăn mày” trong câu đầu ? 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ điệp cấu trúc “Con không…” ?

4. Lời dặn con của người cha qua hai câu thơ: “Con không bao giờ được hỏi Quê hương họ ở nơi nào?” 5. Anh/chị có suy nghĩ gì về bài học rút ra mà người cha nói với con qua bài thơ ?                                                                           Hướng dẫn: 1. Phương thức biểu đạt: biểu cảm, tự sự. 2. “Hành khất”, “ăn mày”: đều chỉ người kém may mắn trong cuộc sống, phải đi lang thang xin ăn. Từ “Hành khất” là một từ Hán Việt thể hiện thái độ tôn trọng của tác giả đối với những người không may cơ nhỡ trong cuộc sống. 3. Tác dụng:

+ Phép điệp Thể hiện sự giáo dục nghiêm khắc của người cha với con, mong muốn con mình thấu hiểu và sống đúng với đạo lí làm người: trân trọng, không chế nhạo những người cơ nhỡ.

+ Nhấn mạnh ý, tạo nhịp điệu, âm hưởng cho bài thơ 4. Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người, những người hành khất vì cơ nhỡ mà có người phải bỏ quê hương đi tha hương cầu thực, thậm chí còn có những người không có quê hương. Người cha dặn dò con không nên hỏi quê hương của họ bởi vì nhắc đến quê hương là nhắc đến nỗi nhớ, nhắc đến niềm đau.. Từ đó, người cha muốn con hiểu được, đồng cảm, sẻ chia trong cuộc sống, quan tâm giúp đỡ những người tha hương cầu thực, không chỉ về mặt vật chất mà trên hết vẫn là sự đồng cảm về mặt tinh thần. 5. Bài học rút ra: Cần tôn trọng ,đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ nhau trong cuộc sống.                                                                                      ***********Hết**********                                                                   Nguyễn Thế Anh – 12C – THPT Hoa Lư A – Ninh Bình

Đọc Bài Thơ “Nguyên Tiêu” Của Hồ Chí Minh, Trần Văn Giang

Đọc bài thơ “Nguyên tiêu” của Hồ Chí Minh

Trần Văn Giang  

Thưa các Bác,

Tình cờ nhà cháu bắt gặp trên mạng một cái tựa đề thật bắt mắt “100 Bài Thơ Hay Nhất Thế Kỷ 20” vừa mới được công bố tại Quốc Tử Giám Hà Nội nhân ngày thơ Việt Nam 2007.

Nên biết thêm, “Quốc Tử Giám” (còn gọi là Văn Miếu), không những là một di tích lịch sử và văn hoá cổ kính của Việt Nam mà còn là một trường đại học cổ đầu tiên ở vùng Đông Nam Á, được xây dựng từ năm Canh Tuất 1070 (đời vua Lý Thánh Tông) tại tâm hoạt động văn hoá – khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám” để ngòai việc phát huy tác dụng của di tích còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá, khoa học đậm đà bản sắc dân tộc của thủ đô Hà Nội (!)

Cái cơ sở oai nghi như vậy đã đúc kết danh sách 100 bài thơ hay, mà lại hay nhất của thế kỷ 20 mới ly kỳ, tất phải là chuyện đứng đắn. Thật vẻ vang cho những thi nhân có bài thơ được tuyển chọn vào danh sách “cấp cao” này.  Tuy nhiên, khi nhìn vào danh sách này, bài đứng hạng số 1 (number ONE) là bài “Nguyên Tiêu” (có nghĩa là “Rằm tháng Giêng”) tác gỉa là Hồ Chí Minh (?) Nhà cháu vốn dĩ bị dị ứng với cái tên HCM; và mỗi lần thấy cái tên này ở đâu là nhà cháu chẳng đặng đừng nghĩ ngay đến câu nói bất hủ, chân lý muôn thuở “…hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm;”   Nhà cháu đã phải dành một chút thì giở để… “nhìn kỹ những gì cộng sản làm.” Kết quả mà nhà cháu thu lượm được cũng thú vị không kém.  Nhà cháu kính trình sau đây để các bác có máu thơ thẩn trong người thưởng lãm.

Nhân tiện đây, nhà cháu cũng mạn phép nói trước là khi các bác đọc các dòng chữ của nhà cháu nếu gọi là “ăn đong” thì cũng còn qúa đáng!  Nó còn tệ hại hơn thế nữa!  Trình độ của nhà cháu chưa qua hết trang đầu của “Tam tự kinh” (“Thiên là trời, Địa là đất, Tồn là  còn…!”)  Mặc dù là nhà cháu đã có cái may mắn được chính phủ VNCH gởi đi tu nghiệp ở Đài Loan (năm 1974).  Nhà cháu đã vội vã học cấp tốc một ít chữ Hán để sinh tồn (“survival Chinese”) trong một thời gian ngắn cấp bách trước khi xuất dương. Nhưng phải thành thật mà nói, nhà cháu, lúc đó (1974), vẽ (không biết viết!) được khỏang gần 300 mặt chữ Hán và xem như tạm đủ để đi ra chợ tầu (cũng nên biết trong giờ học ở Đài Loan, thầy giáo chỉ dậy bằng Anh ngữ thôi!  No Chino por favor!) mua “bánh tiu,” “dầu cháo quẩy,” “xì dầu,” “hủ tíu…” Ngòai giờ học, nếu nhà cháu có dạo phố buổi chiều để thăm dân tầu cho biết sự tình; hoặc tham gia vào buổi tối các chương trình trao đổi văn hóa (không phải để trả thù hận gì cả!) dân tộc với các thím xẩm thơ mộng; hoặc thỉnh thỏang đánh cầu lông; hoặc vật tự do với các thím trong các “tea house” (“phòng trà”) thì nhà cháu cũng chỉ dùng “sức lao động” nhiều hơn là “cỏong!”  Nói cách khác là dùng “tay chân đỡ cho mồm miệng!”  Nhìn lại đã 33-34 đã năm trôi qua rồi còn gì!  Ngay đến công phu võ nghệ mà không luyện tập một vài tháng thôi đã mai một rồi, nói chi đến 33-34 năm ròng! Nhưng cũng còn may là bác Biu Gết (Bill Gates) của đế quốc tư bản làm ra cái “Uynh đô” (Windows) có sẵn “khả năng” “Cắt và Dán” (“Cut and Paste”). Thế là nhà cháu cứ ngồi gãi… trán, tà tà “cắt và dán” cho thành bài ra này. Thế mà các bác xem thoáng qua cũng khó mà biết là thật hay gỉa; kỳ công hay là “chôm chỉa” đấy nhỉ.

元宵

今夜元宵月正圓 春江春水接春天 煙波深處談軍事 夜半歸來月滿船

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên Yên ba thâm xứ đàm quân sự Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền (Hồ Chí Minh, 1948)

Rằm tháng riêng (Người dịch: Văn nô Xuân Thủy)

Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Bản dịch nôm của Thiềng Đức

Tháng giêng trăng sáng tỏ đêm rằm Sông nước trời khuya lộng sắc xuân Trên sóng mờ sương bàn chiến sự Đêm tàn thuyền ngập trăng trong ngần.

Bản dịch nôm của Hòang Tâm

Trăng sáng vừa tròn rằm tháng giêng, Trời xuân lồng lộng nước sông in. Nơi quân bàn bạc dầy sương khói, Vừa lúc nửa đêm trăng ngợp thuyền.

Nếu chỉ đọc bài thơ “Đường” thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán ở trên thôi, đừng nhìn vào tên tác gỉa (HCM), các bác nhận thấy ngay từ cách dùng chữ cho đến âm hưởng hình như là của một thi sĩ Trung hoa đời “Đường” như Lý Bạch, Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn… nào đó, thật là tuyệt vời! Bây giờ thử mở một lô Đường thi ra đọc lại xem sao! Voilà!  Đường mật đâu chưa thấy, nhà cháu đã khám phá ra một hũ tương… sau khi đã “nhìn kỹ những gì cộng sản làm!”

À há! Bác đã “đỡ nhẹ” ý tất cả 4 câu của 4 thi sĩ khác nhau thành ra bài “number ONE” của Bác! Nếu Bác chịu khó khiêm nhường một tí (hình như bộ phận “khiêm nhường” trong người Bác đã được gỡ ra lâu lắm rồi thì phải!?) Bác cứ việc thong thả đề vào xuất xứ (hoặc đề là “lấy ý”) của từng câu, thì bài này không có vấn đề; tuy nhiên Bác cứ im lim lỉm – tương tự như các bài khác mà Bác đã từng “chôm” nguyên văn (ví dụ như việc “chôm” một số bài, có người nói là Bác “chôm” nguyên con cả tập – xin GS Lê Hữu Mục,  trong tập thơ “Nhật ký trong tù” – “Ngục Trung Nhật Ký”- của một người bạn tù khác bị nhốt chung vời Bác ở Quảng tây (?) Trung Hoa năm 1942-43 (?) – rồi để tên mình vào tỉnh bơ con sáo sậu!!! 

Quỷnh nhất là các cháu “đỉnh cao trí tuệ” XHCN của Bác đã quá mau mắn nâng bi Bác triệt để trong việc xếp hạng bài thơ “của” Bác đứng đầu (lại number One!) trong danh sách 100 bài thơ “hay nhất” của thế kỷ 20 (?)

Xin tất cả các bác “Quốc tử giám” cho nhà cháu nhờ tí!!! 

Xem ra, Bác đã “chôm” ý của từng câu một, lần lượt như sau:

Câu 1: Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên (trích từ bài “Ngư ca tử kỳ 5” của Trương Chí Hòa)

Câu 2: Nguyệt quang như thủy thủy như thiên (trích từ bài “Giang lâu thư hoài” của Triệu Hỗ)

Câu 3: Yên ba thâm xứ hữu ngư châu (trích từ bài “Thú nhàn” của Cao Bá Quát)

Câu 4: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (trích từ bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế)

Nhà cháu xin chép lại 4 câu bị “chôm” ở trên một lần nữa vào thành một bài (có cái tựa mới toanh mà cháu vừa mới “chôm” lại  của Bác!) để các bác dễ đọc:

Tiêu nguyên

Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên Nguyệt quang như thủy thủy như thiên Yên ba thâm xứ hữu ngư châu Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Đồng thời xin các bác nhìn lại bài “Nguyên tiêu” của “Người” mà so sánh:

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên Yên ba thâm xứ đàm quân sự Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền (Hồ Chí Minh, 1948)

Tiện đây, nhà cháu xin mời đồng chí “xưng thỉ” văn hay chữ tốt (nếu còn sống; hay hậu duệ của đồng chí cũng đặng!) dịch nôm lại 4 câu bị “chôm” mà nhà cháu vừa mí gom lại ở trên xem nó ra nàm thao!

một (gồm cả bản chữ Hán và bản dịch nôm) của mỗi tác gỉa để các bác thơ thẩn rộng đường tham luận:

Bài 1- Ngư ca tử kỳ 5 – 漁歌子其五 (của Trương Chí Hoà – Thi sĩ Trung Hoa)

漁歌子其五

青草湖中月正圓, 巴陵漁父棹歌連。 釣車子, 橛頭船, 樂在風波不用仙。

Ngư ca tử kỳ 5

Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên, Ba Lăng ngư phủ trạo ca liên. Điếu xa tử, Quyết đầu thuyền, Lạc tại phong ba bất dụng tiên.

Ngư ca tử kỳ 5 (Người dịch: Điệp luyến hoa)

Hồ trong cỏ mượt bóng trăng đầy, Ngư phủ Ba Lăng tiếng hát say. Thuyền đầu nhọn, Cần chắc tay. Chẳng tiên, sóng gió cũng vui vầy.

Bài 2- Giang lâu thư hoài (Triệu Hỗ – 趙嘏 – Thi sĩ Trung Hoa)

江棲書懷

獨上江棲思悄然 月光如水水如天 同來玩月人何在 風景依稀似去年

Giang lâu thư hoài

Ðộc thướng giang lâu tứ tiễu nhiên Nguyệt quang như thủy thủy như thiên Ðồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại Phong cảnh y hi tự khứ niên

Viết lại cảm nghĩ ở lầu bên sông (Người dịch: Lý Tứ)

Hoài cảm lên lầu đứng lẻ loi Sông lồng trăng sáng nước như trời Người cùng thưởng nguyệt nay đâu nhỉ Cảnh cũ năm xưa chẳng đổi dời.

Bản dịch nôm của tản Đà

Lên gác bên sông một ngậm ngùi, Sáng trăng như nước, nước như trời. Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá? Trăng nước như xưa chín với mười.

Bài 3- Thú nhàn (của thi Sĩ Cao Bá Quát)

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn Yên ba thâm xứ hữu ngư châu Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu Gõ nhịp lấy, đọc câu ”Tương Tiến Tửu” “Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi” Làm chi cho mệt một đời.

Bài 4- Phong Kiều dạ bạc (của Trương Kế – 張繼 – Thi sĩ Trung Hoa)

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天 江楓漁火對愁眠 姑蘇城外寒山寺 夜半鐘聲到客船

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hoả đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Nửa đêm đậu bến Phong Kiều (Người dịch: Hạt Cát)

Quạ kêu sương lạnh trăng tà. Đèn chài giấc muộn la đà bến sông. Chùa Hàn trầm bổng hồi chuông. Nửa đêm gọi khách bềnh bồng Cô Tô.

Lời kết

Thiệt hết ý kiến! Ban tuyển lựa của “Quốc tử giám” chắc chắn phải gồm những cây cổ thụ của nền thi văn Hà thành làm sao có thể họ lại không nhìn thấy những sự “chôm chỉa” giữa ban ngày ban mặt này! Lại đem bài này ra ánh sáng để thi nhân bêu riếu Bác! Hay là các bác này vì mải “liên hoan” qúa chừng độ, ăn nhằm phải một mẻ “lông lợn rừng” thành ra bị lẫn cả lũ rồi? Chỉ có giời mới biết!

Nhưng phải công nhận một điều là Bác HCM “vô vàn kính yêu” thật “kiệt suất” tài tình đã phát minh ra cái thuật “Cắt và Dán” tạm gọi là “Uynh đô 48” (1948). Cho mãi đến khỏang gần 40 năm sau, vào đầu thập niên ‘90 bác Biu Gết mới làm ra “Uyng đô 95” (1995) với cùng kỹ thuật “Cắt và Dán.” Bác Biu Gết đã hốt bạc (tỷ) nhờ cái “Uynh đô” này.  Bác Biu Gết nay đã là người giầu nhất thế giới rồi. Nếu biết điều một tí thì bác Biu nên trả lệ phí (“royalty”) cho hậu duệ của Bác HCM (đảng CSVN); tượng trưng vài tỷ đô la cũng được rồi!  Ít hay nhiều thì cũng đỡ khổ cho dân tộc Việt Nam; có nó ($$$), các bác lãnh đạo nhà nước anh hùng đỡ phải xếp hàng sang “rước Mĩ kíu nước!” cho toát mồ hôi trán.

Trần Văn Giang 02/20/2008

* Các câu “ăn cắp” nổi tiếng của Hồ Chí Minh, xoathantuong tổng hợp  

www.geocities.ws/xoathantuong  

Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Thơ Trần Nhân Tông trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!