Bạn đang xem bài viết Đề Thi Olympic Lớp 8 Năm Học 2014 được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
PHÒNG GD&ĐT THANH OAI TRƯỜNG THCS THANH THÙY ĐỀ THI OLYMPIC LỚP 8 Năm học 2014-2015 Môn thi: Ngữ văn Thời gian làm bài :120 phút ( Không kể thời gian giao đề) Câu 1: (4 điểm) Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ: “ Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm; Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. ( “Quê hương”- Tế Hanh ). Câu 2: (6 điểm) Nơi dựa “Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia? Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, hai bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ. Và cái miệng líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có. Ai biết đâu, đưa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống. Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia? Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết. Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy. Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời. Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách”. ( Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB văn học, Hà Nội, 1983) Từ ý nghĩa của văn bản trên, hãy trình bày suy nghĩ của em về nơi dựa của mỗi người trong cuộc sống. Câu 3: ( 10 điểm ) Nhận xét về hai bài thơ “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ) và “Khi con tu hú” (Tố Hữu ), có ý kiến cho rằng: “ Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khao khát tự do cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên thái độ đấu tranh cho tự do ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau”. Bằng hiểu biết của mình về hai bài thơ, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. DUYỆT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU PHÒNG GD&ĐT THANH OAI TRƯỜNG THCS THANH THÙY HƯỚNG DẪN CHẤM THI OLYMPIC LỚP 8 Năm học: 2014 -2015 Môn thi: Ngữ văn Câu 1: (4 điểm) 1-Yêu cầu chung: Học sinh cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp về hình thức và nội dung của bốn câu thơ dưới dạng một đoạn hoặc một bài văn ngắn. 2-Yêu cầu cụ thể: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác bài thơ, trích dẫn bốn câu thơ.( 0,5 điểm) Hai câu thơ “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng. Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Hình ảnh những chàng trai sức vóc dạn dày sóng gió. Họ là những đứa con thực sự của đại dương “Cả thân hình nồng thở vi xa xăm”. Nếu là những sinh thể được tách ra từ biển, mang theo về cả những hương vị của biển xa.Câu thơ thật lãng mạn, khoáng đạt. Chân dung người dân chài hiện lên thật tầm vóc và hình khối mà lại rất đặc trưng, chỉ có người dân biển mới có được. (1,5điểm) Hai câu thơ: “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm. Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” Nghệ thuật nhân hóa biến con thuyền thành một sinh thể sống. + Cụm từ “ im bến mỏi”vừa nói được sự nghỉ ngơi thư giãn của con thuyền sau chuyến đi vất vả trở về, vừa nói được vẻ yên lặng nơi bến đỗ. + Con thuyền như “ nghe” thấy vị muối của biển đang râm ran chuyển động trong cơ thể mình.(1,5 điểm) Đây là những câu thơ hay trong bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, vừa diễn tả được vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài, vừa diễn tả được cuộc sống lao động của người dân chài nơi quê hương. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương của tác giả.(0,5 điểm) Câu 2: (6 điểm) * Yêu cầu về kĩ năng: (1 điểm) - Bài viết có bố cục và cách trình bày hợp lí. - Hệ thống ý ( luận diểm)rõ ràng và được triển khai tốt. Diễn đạt tốt, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp. * Yêu cầu về nội dung: (5 điểm) - Nhận xét khái quát câu chuyện: Nguyễn Đình Thi đã ghi lại cảm xúc của mình trong bài thơ “ Tia nắng” về nơi dưa của mỗi người trong cuộc sống bởi vì mỗi người trong chúng ta cũng cần có một điểm tựa hay một nơi dựa để có được một cuộc sống thành đạt, hạnh phúc. (0,5 điểm) Giải thích được thế nào là nơi dựa và biểu hiện của nơi dựa: + Nơi dựa là nơi để mỗi người nương tựa khi gặp khó khăn trong cuộc sống, là nơi tiếp cho họ sức mạnh, niềm tin, động lực trong hoạt động, là nơi mang lại cảm giác ấm áp, bình yên khi gặp sóng gió. (0,5 điểm) + Nơi dựa trong bài thơ thể hiện ở biểu hiện bên ngoài, người phụ nữ là nơi dựa cho cậu bé, người chiến sĩ là nơi dựa cho bà cụ. Tuy nhiên ở khía cacnhj tinh thần, cậu bé cũng là nơi dựa cho người phụ nữ, bà cụ cũng là nơi dựa cho người chiến sĩ. (0,5 điểm) + Trong cuộc sống có những nơi dựa khác nhau: về mặt vật chất thì đó là tiền bạc của cải Xét về mặt tinh thần thì đó là nững người thân yêu trong gia đình như ông bà, cha mẹ, anh chị, những bạn bè thân thiết, những kỉ niệm, những giá trị thiêng liêng, ưu điểm, mặt mạnh của bản thân(0,5 điểm) Chỉ ra được ý nghĩa của nơi dựa: + Giúp con người cảm thấy bình yên, thanh thản, vượt qua mọi khó khăn thử thách, có động lực để phấn đấu vươn lênTa cảm thấy vui, hạnh phúc, yên tâm, vững vàng trong cuộc sống (học sinh phân tích lí giải và dẫn chứng) . (0,5điểm) Bài học về nơi dựa: + Bất cứ ai cũng cần có một nơi dựa nhưng đồng thời lại là nơi dựa cho người khác. (0,5 điểm) + Cần phải có thái độ trân trọng những nơi dựa tốt đẹp mà mình có được, đồng thời cũng là nơi dựa ý nghĩa cho người khác (học sinh phân tích lí giải và dẫn chứng) . (0,5 điểm) + Phê phán những người chỉ biết dụa dẫm, ỷ thế để làm điều xấu xa: những kiểu con ông cháu cha dựa vào quyền thế, tiền bạc của cha mẹ. Cũng cần lên án những kẻ chỉ biết lệ thuộc vào người khác mà không tin vào sức mình để vươn lên. Hoặc những nười chọn những nơi dựa không tốt để đạt được mục đích bằng bất cứ giá nào (1 điểm) + Qua bài thơ chúng ta thấm thía một điều rằng, sợi dây neo vững chắc nhất với cuộc đời của mỗi con người là sự yêu thương. Đó là chỗ dựa vững chắc nhất của con người trong cuộc đời, giúp con người vượt qua những buồn phiền và cay đắng. và như thế mọi bon chen, toan tínhlùi lại phía sau. (0,5 điểm) Câu 3: (10 điểm). A-Yêu cầu chung: - kiểu bài: Nghị luận chứng minh. - Vấn đề cần chứng minh: Sự giống và khác nhau về niềm khao khát tự do trong “ Nhớ rừng” (Thế Lữ) và “Khi con tu hú” ( Tố Hữu ). - Phạm vi dẫn chứng: Hai bài thơ “ Nhớ rừng”, “Khi con tu hú”. B- Yêu cầu cụ thể: Cần đảm bảo được những ý sau. I- Mở bài: (1 điểm). Giới thiệu khái quát bối cảnh Việt Nam trước Cách mạng tháng tám: Dân tộc ta chìm trong ách nô lệ của Thực Dân Pháp, nhiều thanh niên trí thức có tâm huyết với non sông đất nước đều khao khát tự do. - Bài thơ “Nhớ rừng” (Thế Lữ), “ Khi con tu hú” (Tố Hữu) đều nói lên điều đó. - Trích ý kiến II- Thân bài: ( 8điểm) Lần lượt làm rõ hai luận điểm sau. 1-Luận điểm 1:(3,5 điểm). Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khao khát tự do cháy bỏng: - Vì yêu nước nên mới thấy hết nỗi tủi cực của cuộc sống nô lệ (Dẫn chứng: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt), mới uất ức khi bị giam cầm ( Dẫn chứng: Ngột làm sao, chết uất thôi) (1,5điểm). - Không chấp nhận cuộc sống nô lệ, luôn hướng tới cuộc sống tự do: (2 điểm). + Con hổ nhớ về cuộc sống tự do vùng vẫy ở núi rừng đại ngàn: Những đêm trăng đẹp, những ngày mưa, những bình minh rộn rã tưng bừngCon hổ lúc mơ màng như một thi sĩ, lúc lại như một bậc đế vương đầy quyền uy( Dẫn chứng ). + Người thanh niên yêu nước tuy thân bị tù đầy nhưng tâm hồn vẫn hướng ra ngoài song sắt để cảm nhận bức tranh mùa hè rực rỡ sắc màu, rộn rã âm thanh, đầy hương vị ngọt ngào( Dẫn chứng ). 2-Luận điểm 2: (4,5 điểm). Thái độ đấu tranh cho tự do khác nhau. - “ Nhớ rừng” là tiếng nói của một tầng lớp thanh niên có tâm sự yêu nước, đau đớn về thân phận nô lệ nhưng chưa tìm được con đường giải thoát, đành buông xuôi, bất lực. Họ đã tuyệt vọng, đã hết ước mơ chiến thắng, đã thôi nghĩ đến hành động Đây là thái độ đấu tranh tiêu cực( Dẫn chứng) (2 điểm). - Khi con tu hú là tiếng nói của một chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, đại diện cho những thanh niên đã đi theo con đường cứu nước mà cách mạng chỉ ra, Biết rõ con đường cứu nước là gian khổ nhưng vẫn kiên quyết theo đuổi. Họ tin ở tương lai chiến thắng của cách mạng, đất nước sẽ độc lập, dân tộc sẽ tự do. Họ không ngừng đấu tranh để giải phóng dân tộc. Đây là thái độ đấu tranh rất tích cực( Dẫn chứng ) (2 điểm). - Học sinh có thể liên hệ tới tầng lớp thanh niên hiện nay: (0,5 điểm). + Không ngừng học tập, nghiên cứu khoa học + Trở thành những doanh nhân giỏi + Tham gia nghĩa vụ quân sự để bảo vệ đất nước, bảo vệ biển đảo III-Kết bài (1 điểm): Khẳng định lại giá tri của bài thơ. - Trân trọng nỗi niềm yêu nước sâu kín. Đó là nỗi đau nhức nhối ví thân phận nô lệ, khơi dậy niềm khao khát tự do và nhớ tiếc thời oanh liệt của dân tộc. - Tiếng nói khao khát tự do, ý thức đấu tranh giành tự do mạnh mẽ trong “ Khi con tu hú” có tác dụng tích cực đối với thanh niên đương thời. DUYỆT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆUĐề Thi Chọn Học Sinh Giỏi Lớp 9 Cấp Huyện Năm Học 2022
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CHÂU THÀNH ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2015- 2016 MÔN THI: NGỮ VĂN NGÀY THI: 24/3/2016 THỜI GIAN: 150 PHÚT (Không kể phát đề) PHÂN I: (8 điểm) Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Sao đã cũ Trăng thì già Nhưng tất cả đều trẻ lại Để con bắt đầu gọi ba! Con bắt đầu biết yêu thương Như ba bắt đầu gian khổ Đêm sinh con hoa quỳnh nở Một bông hoa trắng xóa hương bay Hôm nay con bắt đầu gọi ba Người con nhận diện, yêu thương đầu tiên sau mẹ Tiếng gọi thiêng liêng trào nước mắt Đây bàn tay ba rắn chắc Cho ba ẳm, ba thơm Thịt xương, hòn máu của ba đây có mùi của mẹ Ba nhìn sao cũ Ba nhìn trăng già Bầu trời thêm một ngôi sao mới Ngôi sao biết gọi: ba! ba! (Đặng Việt Ca, Văn nghệ trẻ, số 42, 2003) 1/ Cho biết cảm xúc nào của người cha được bật ra từ bài thơ? Vì sao người cha có cảm xúc đó? Hãy đặt nhan đề cho bài thơ. (1,5 điểm) 2/ Bài thơ kết thúc bằng các hình ảnh đẹp. Đó là những hình ảnh nào? Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì ở đây? Nêu ý nghĩa của các hình ảnh đó. (1,5 điểm) 3/ Nội dung bài thơ gợi lên một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý. Đó là tình cảm gì? Tình cảm nầy gợi em nhớ tới các tác phẩm, của tác giả nào đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 8 và 9? (1 điểm) 4/ Viết một bài văn ngắn (khoảng 1 mặt giấy làm bài) bộc lộ cảm nhận của em về thứ tình cảm thiêng liêng ấy trong các tác phẩm em vừa nhớ (trong đó có sử dụng khởi ngữ và 2 phép liên kết câu rồi chỉ rõ chúng). (4 điểm) PHẦN II: ( 12 điểm) Đề: Khát vọng sống cống hiến cho đời trong hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ./. HẾT PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO CHÂU THÀNH ĐỀ CHÍNH THỨC HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI HSG LỚP 9 CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2015-2016 MÔN: NGỮ VĂN NGÀY THI: 24/3/2016 PHẦN I: (8 điểm) 1/ HS nêu được: - Cảm xúc của người cha bật ra từ bài thơ: vui sướng, tự hào về con(0,5điểm) vì hạnh phúc được làm cha. (0,5 điểm) - HS có thể đặt nhan đề: Niềm vui làm cha, Hạnh phúc làm cha, Ngôi sao của cha, (miễn sao nhan đề toát lên được ý nghĩa của bài thơ). (0,5 điểm) 2/ - HS chỉ được các hình ảnh đẹp ở cuối bài: sao cũ, trăng già, ngôi sao mới. (0,5 điểm) - Xác định đúng biện pháp tu từ từ vựng mà tác giả sử dụng: ẩn dụ. (0,5 điểm) - Nêu được ý nghĩa của hình ảnh: + Sao cũ, trăng già: những người đã lớn trong gia đình. (0,25 điểm) + Ngôi sao mới: đứa con còn nhỏ. (0,25 điểm) 3/Bài thơ gợi lên một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý, đó là tình phụ tử. (0,5 điểm) - Tình cảm nầy gợi nhớ đến các tác phẩm: Lão Hạc của Nam Cao (lớp 8); Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng ( lớp 9); Nói với con của Y Phương (lớp 9). (0,5 điểm) 4/ HS viết bài văn bộc lộ suy nghĩ của mình về tình phụ tử trong 3 tác phẩm vừa nhớ. a/ Về kĩ năng: viết văn mạch lạc, dùng từ chuẩn xác; bài văn có đủ 3 phần, có sử dụng khởi ngữ và 2 phép liên kết câu đồng thời chỉ rõ chúng. b/ Về kiến thức: đảm bảo đạt các ý sau: * Giới thiệu: Tình phụ tử trong đời sống tình cảm cuả mỗi con người. * Lần lượt nêu suy nghĩ về tình phụ tử trong các tác phẩm: - Lão Hạc của Nam Cao: Truyện là bài ca về tình cha yêu con vô bờ bến, lão Hạc sẵn sàng nhận lấy cái chết để cấy mầm sống cho con - Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng: Tình cha con cao đẹp và cảm động trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh - Nói với con của Y Phương: Tình cha con thâm trầm, sâu sắc, yêu con, muốn con nên người nên người cha miền núi đã chỉ dạy, dặn dò con phải biết yêu quê hương nhất là phải có niềm tin, vững bước trên đường đời bằng chính đôi chân của mình * Gút ý: - Nêu ý nghĩa, tầm quan trọng của tình phụ tử trong cuộc sống của con người. - Liên hệ: nêu suy nghĩ và hành động của cá nhân về bổn phận của người con đối với cha mẹ. * CÁCH CHẤM: - Hoàn thành tốt các yêu cầu trên (4 điểm); thiếu khởi ngữ trừ (1,0 điểm); thiếu một phép liên kết câu trừ (0,5) điểm. - Đạt phần lớn các yêu cầu trên nhưng lí lẽ, dẫn chứng chưa thật đủ để làm sáng tỏ ý khái quát, còn mắc một số lỗi diễn đạt. ( 3 điểm) - Chỉ nêu được các ý, diễn đạt chung chung, còn mắc số lỗi thông thường.(2 điểm) - Bài văn viết sơ sài, sai lạc về nội dung khái quát, mắc nhiều lỗi diễn đạt. (1 điểm) PHẦN II: (12 điểm) 1/ Yêu cầu về kĩ năng: - HS biết cách làm bài Nghị luận văn học về một vấn đề chung của hai tác phẩm. - Bố cục 3 phần và hệ thống ý sáng, rõ. - Lập luận chặt chẽ, luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực. - Không mắc những lỗi thông thường về diễn đạt, chính tả, dùng từ. 2/ Yêu cầu về kiến thức: * Trên cơ sở nắm chắc hai tác phẩm, có thể lập ý rồi phân tích đan xen hai tác phẩm hoặc tách riêng theo trình tự từng tác phẩm rồi khái quát, đánh giá chung. Cần đảm bảo các ý sau: * Phần mở bài: (1 điểm) - Giới thiệu vấn đề nghị luận. - Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Nêu lí tưởng sống cao đẹp: sống cống hiến cho đời trong hai tác phẩm văn học: + Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long) + Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) * Phần thân bài: (10 điểm) Lần lượt làm rõ khát vọng sống cống hiến trong từng tác phẩm. 1/ Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành Long): (4 điểm) * Khát vọng sống cống hiến thể hiện qua cuộc sống, suy nghĩ, hành động, việc làm của anh thanh niên ( nhân vật chính của truyện). - Anh thanh niên là người sống có lí tưởng, có ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với công việc: + Anh tự nguyện nhận công tác một mình trên đỉnh Yên Sơn vắng vẻ, chung quanh chỉ có cỏ cây và mây núi Sa Pa. + Anh phải vượt qua bao gian lao, khó nhọc nhất là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ để hoàn thành trách nhiệm của mình. - Anh có suy nghĩ thật sâu sắc và đúng đắn về công việc của mình, anh hiểu và thấy được công việc của mình gắn bó và đem lợi lợi ích cho nhiều người - Qua nhân vật nầy, ta hiểu thêm hạnh phúc ở con người là gì. Đó là đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người; đó là được cống hiến, được góp sức mình bảo vệ và xây dựng đất nước. 2/ Mùa xuân nho nhỏ ( Thanh Hải): (4 điểm) Từ xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, từ sức sống mạnh mẽ của đất nước, nhà thơ nghĩ về ước nguyện của mình, một ước mơ bình dị mà cao cả: được sống cống hiến (khổ thơ 4, 5). Điều tâm niệm nầy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh giản dị, tự nhiên mà đẹp. Tác giả ước mong: + Làm một tiếng chim trong giọng hót của muôn chim. + Làm cành hoa trong hương sắc của muôn hoa. + Làm một nốt nhạc trầm trong trong bản hòa ca xuân muôn điệu để làm tăng thêm ý nghĩa của cuộc sống. + Đặc biệt làm một mùa xuân nho nhỏ, khiêm nhường và nhỏ nhẹ, lặng lẽ, âm thầm cống hiến suốt cuộc đời cho đất nước. Đại từ " ta" thay cho đại từ "tôi" ở khổ đầu cho thấy đó là khát vọng của tác giả nhưng cũng là khát vọng chung của mọi người. Điệp ngữ " dù là" khẳng định để tự dặn mình, là sự kiên trì thách thức với thời gian. Đó là sự dâng hiến âm thầm, không mệt mỏi từ lúc trẻ cho đến khi về già. Bài thơ thể hiện một quan niệm về lẽ sống cao quí: sống đẹp, sống có ích, sống cống hiếncho đời, giữ cho con người và đất nước mãi mãi thanh xuân, một sự dâng hiến đáng trân trọng. ** Mở rộng, nâng cao vấn đề: (2 điểm) - Sống là phải biết dâng hiến cuộc đời thì cuộc sống mới có ý nghĩa.(0,5 điểm) - Lẽ sống đẹp, thể hiện ý thức trách nhiệm của con người đối với cuộc đời mình cũng như đối với cộng đồng xã hội. (0,5 điểm) Liên hệ với lí tưởng sống của lớp trẻ hiện nay: bên cạnh những thanh niên sống với lí tưởng cao đẹp " Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình" còn không ít thanh niên có biểu hiện của lối sống sai lệch: ich kỉ, toan tính cho cá nhân, hay đòi hỏi cho bản thân, không biết cống hiến, không biết hy sinh, thậm chí không có trách nhiệm đối cuộc sống của chính mình, để cuộc đời trôi đi một cách vô nghĩa. (1,0 điểm) Kết bài: (1 điểm) Đánh giá chung hai tác phẩm và liên hệ bản thân. Mỗi tác phẩm đều có vẻ đẹp riêng nhưng cùng để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc về tình yêu cuộc sống và khát vọng sống cống hiến. (0,5 điểm) Xác định trách nhiệm bản thân: " Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay". (0,5 điểm) BIỂU ĐIỂM Điểm 10 - 12: Đạt được các yêu cầu trên, nắm vấn đề và giải quyết đúng hướng, đúng trọng tâm. Bố cục chặt chẽ, diễn đạt hay, trôi chảy; có nhiều phát hiện sâu sắc, sáng tạo; biết nâng cao, mở rộng vấn đề. Điểm 8 -9,5: Đầy đủ các yêu cầu về nội dung, hiểu và có định hướng giải quyết đúng. Bài viết biết phân tích, nhận xét, đánh giá từng tác phẩm; biết tổng hợp, khái quát làm rõ vấn đề tuy nhiên có thể chưa thật toàn diện và sáng tạo. Lời văn trong sáng, mạch lạc. Hạn chế được lỗi diễn đạt. Điểm 6 - 7,5: HS nắm được các yêu cầu cơ bản, có một số phát hiện nhất định nhưng một số chỗ còn chưa được mạch lạc. Mở rộng, nâng cao vấn đề còn hạn chế. Văn viết khá, không mắc nhiều lỗi chính tả. Điểm 4 - 5,5: HS có hiểu yêu cầu đề, tuy nhiên bài còn chưa khai thác được các chi tiết, chưa mở rộng nâng cao vấn đề. Văn viết tạm được. Điểm 2 - 3,5: Bài viết chung chung, phân tích không sâu, chưa khái quát được vấn đề;mắc nhiều lỗi diễn đạt. HẾT.
Đề Thi Học Sinh Giỏi Ngữ Văn 8 Trường Gio Linh
Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn 8 Trường Gio Linh
Đề Olympic Ngữ văn 8 trường THCS Xuân Dương
ĐỀ THI NGỮ VĂN 8
Thời gian: 120 phút
Câu 1: (4,0)
Trong bài thơ “Quê hương”, Tế Hanh viết:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
và
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Tìm, nêu giá trị phép tu từ trong các câu thơ đó.
Câu 2:
Đọc kỹ đoạn văn sau:
” Chao ôi! Đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ dể cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương…”.
Viết một văn bản ngắn (khoảng 1 trang giấy thi) trình bày hiểu biết của em về ý kiến được nêu trong đoạn văn trên.
Câu 3: Có ý kiến cho rằng: Đặc sắc trong phong cách thơ trữ tình Hồ Chí Minh là vừa có màu sắc cố điển vừa mang tinh thần thời đại. Bằng hiểu biết của mình về bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” và bài thơ ” Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh, em hãy làm sáng tỏ lời nhận xét trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI NGỮ VĂN 8
Câu 1: (4,0đ)
* Về nội dung:
– Chỉ nghệ thuật so sánh: “Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã”.
– Tác dụng”
+ Diễn tả thật ấn tượng khí thế băng tới dũng mãnh của con thuyền ra khơi.
+ Toát nên sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp hùng tráng của con thuyền, đó cũng chính là khí thế lao động đầy hứng khởi, dạt dào sức sống của người dân làng chài.
– Chỉ ra nghệ thuật nhân hóa được thể hiện qua các từ ngữ: “im, mỏi, trở về, nằm, nghe”.
Tác dụng của biện pháp nhân hóa:
+ Biến con thuyền vô tri, vô giác trở nên sống động, có hồn như con người.
+ Các từ “im, mỏi, trở về, nằm” cho ta cảm nhận được giây phút nghỉ ngơi thư giãn của con thuyền, giống như con người, sau một chuyến ra khơi vất vả cực nhọc, trở về.
+ Từ “nghe” gợi cảm nhận con thuyền như một cơ thể sống, nhận biết chât muối của biển đang ngấm dần, lặn dần vào da thịt của mình; cũng giống như những con người từng trải, với con thuyền, vị muối càng ngấm vào nó thì nó như càng dày dạn lên. Hình ảnh con thuyền vất vả cực nhọc đống nhất với với cuộc sống người dân chài.
* Về hình thức: Có sự liên kết đối chiếu làm nổi bật sự khác nhau trong hình ảnh con thuyền ở mỗi khổ thơ. Diễn đạt mạch lạc, trong sáng, không sai, mắc các lỗi câu.
Câu 2: 6đ
* Về nội dung:
– Giới thiệu khái quát vị trí của đoạn văn nằm ở cuối truyện ” Lão Hạc”.
– Lời nói đó là của ông giáo (thực chất là lời của Nam Cao) khi ông chứng kiến những khổ đau, bất hạnh cũng như vẻ đẹp của Lão Hạc.
– Đây là lời nói có tính triết lý lẫn cảm xúc trữ tình xót xa của Nam Cao.
– Nam Cao muốn khẳng định một thái độ một các ứng xử mang tính nhân đạo, không nhìn những người xung quanh bằng cái nhìn phiến diện, bằng cặp mắt lạnh lùng, vô cảm mà nhìn nhận bằng sự thông cảm thấu hiểu, bằng lòng nhân ái của con người.
– Con người cần biết phát hiện, nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp, những điểu đáng quý ẩn sau mỗi con người. Đó là quan niệm đúng đắn khi đánh giá con người.
– Lấy dẫn chứng để phê phán một số quan điểm đánh giá con người bằng cái nhìn phiến diện, bằng cặp mặt lạnh lùng, vô cảm.
– Lấy dẫn chứng và nêu tác dụng của cách nhìn nhận con người bằng cái nhìn cảm thông, thấu hiểu, bằng lòng nhân ái của con người.
– Nêu bài học cho bản thân mình trong cách ứng xử.
* Về hình thức: Hình thức một bài văn: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Diễn đạt rõ ràng, linh hoạt, uyển chuyển, không mắc các lỗi viết câu, dùng từ, chính tả)
Câu 3: 10đ
* Yêu cầu về kỹ năng:
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm với những yêu cầu cụ thể sau:
– Hình thức một bài văn: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có sự phân tích, bình giá, cảm thụ về nội dung cảm xúc, các yếu tố nghệ thuật( ngôn từ, hình ảnh, thể thơ các thủ pháp tu từ…) trong hai bài thơ.
– Diễn đạt rõ ràng, linh hoạt, uyển chuyển, không mắc các lỗi viết câu, dùng từ, chính tả)
* Yêu cầu về kiến thức
a. Giới thiệu vấn đề nghị luận
– Giới thiệu về tác giả Hồ chính Minh và hai bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”, ” Ngắm trăng” .
– Dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận.
b. Chứng minh màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại ở hai bài thơ.
Bài Tức cảnh Pác Bó
* Màu sắc cổ điển.
– “Thú lâm tuyền”
+ Câu thơ đầu ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi toát nên cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp, giọng điệu thật thoải mái, phơi phới cho ta thấy Bác sống thật ung dung hòa điệu với nhịp sống núi rừng.
+ Câu thơ 2 tiếp tục mạch cảm xúc đó, có chút đùa vui: lương thực, thực phẩm ở đây đầy đủ đến mức dư thừa.
+ Câu thơ thứ nhất nói về việc ở, câu thơ thứ hai nói về việc ăn, câu thơ thứ 3 nói về việc làm của Bác. Tất cả đều hòa hợp cùng thiên nhiên toát nên cảm giác thích thú, bằng lòng.
+ Giọng điệu thoải mái pha chút đùa vui hóm hỉnh có phần khoa trương tạo cho nhân vật trữ tình mang dáng dấp một ẩn sĩ, một khách lâm tuyền thực thụ.
*Tinh thần thời đại.
+ Bác đến tìm đến thú lâm tuyền không giống với người xưa là để “lánh đục tìm trong” hay tự an ủi mình bằng lối sống” an bần lạc đạo” mà đến với thú lâm tuyền để “dịch sử Đảng” tức là làm cách mạng. Nhân vật trữ tình mang dáng vè một ẩn sĩ song thự chất vẫn là người chiến sĩ.
+ Trung tâm của bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ được đặc tả bằng những nét đậm, khỏe đầy ấn tượng qua tử láy ” chông chênh” và 3 chữ ” dịch sử đảng” toàn vần trắc, toát nên vẻ khỏe khoắn, mạnh mẽ.
+ Niềm vui sống giữa thiên nhiên hòa quện trong niềm vui làm cách mạng.
Bài “Ngắm trăng”.
* Màu sắc cổ điển.
+ Phân tích đề tài “Vọng nguyệt” và thi liệu cổ: “rượu, hoa, trăng”
+ Phân tích dáng dấp thi nhân xưa của Bác qua: Cấu trúc đăng đối, nghệ thuật nhân hóa ở hai câu thơ cuối, nhất là chủ thể trữ tình yêu trăng, coi trăng như người bạn gắn bó, tri kỷ.
* Tình thần thời đại:
+ Phân tích hồn thơ lạc quan, tinh thần vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn gian khổ biểu hiện ở sự tự do nội tại, phong thái ung dung, vượt hẳn lên sự nặng nề, tàn bạo của ngục tù.
+ Phân tích tâm hồn thi sĩ hòa quện trong tâm hồn chiến sĩ.
Đề Thi Sóng Theo Hướng Mới Năm 2022
Đề thi Sóng theo hướng mới năm 2019: Sóng là một bài thơ thuộc nhóm các tác phẩm trọng tâm trong kì thi THPT QG năm nay vậy nên tiếp cận với một số đề thi sóng theo hướng mới năm 2019 là một cách tốt để các bạn làm chủ bài thơ này.
Cảm nhận hai đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh:
Và ở cuối bài thơ:
Bài Làm
Xưa nay, tình yêu luôn là cánh cửa mời gọi trái tim bao thi sĩ bước vào, trải lòng, ngơ ngẩn, rung động và đắm say. Trong văn học đương đại Việt Nam, nếu Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” thì ngôi vị “nữ hoàng thơ tìn” chắc hẳn sẽ thuộc về Xuân Quỳnh như nhiều người nhận định. Xuân Quỳnh thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ giàu yêu thương, luôn khao khát tình yêu, trân trọng, nâng niu hạnh phúc đời thường song cũng đầy trăn trở, lo âu. Cùng với “Thuyền và biển”, “Sóng” là bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng, của thơ hiện đại Việt Nam nói chung.
Bài thơ được sáng tác năm 1967, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Xuân Quỳnh, vượt qua sự thử thách của thời gian, hòa nhịp cùng năm tháng. Đọc bài thơ này, người đọc nhận ra “sóng biển” với “sóng lòng” luôn sóng đôi cùng nhau, tạo thành giai điệu tự tình ngân mãi vào lòng người không bao giờ dứt.
Khép lại bài thơ, đoạn đầu và đoạn cuối có lẽ là hai đoạn thơ mang đủ mọi cung bậc xúc cảm trong tâm hồn người con gái: sôi nổi, vồ vập, sâu lắng, chân thành pha lẫn niềm tin vào tình yêu bất diệt.
Trong quyển “Nhà thơ Việt Nam hiện đại”, người nghiên cứu nhận xét: “Bài Sóng thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ xa” . Quả thế! Tình yêu của người con gái trong bài thơ “Sóng” trải cùng mọi sắc thái cảm xúc, khao khát chạm vào cái ngưỡng cao nhất, tuyệt vời nhất của tình yêu.
Đọc bài thơ “Sóng”, ta hiểu vì sao trong thơ ca thời chống Mĩ, cái tên Xuân Quỳnh không lẩn khuất giữa rừng “những bông hoa tươi thắm” khác như Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Nguyễn Thị Hồng Ngát… Tiếng thơ Xuân Quỳnh đã đủ sức ngân vang cùng thời gian, cảm xúc chân thành, đằm thắm của Xuân Quỳnh đủ sức níu kéo trái tim người đọc bao thế hệ. Sóng – “mãi còn nổi sóng”!
Đặc sắc của bài thơ trước hết được thể hiện ở hình tượng nghệ thuật mà Xuân Quỳnh lựa chọn. Thật trùng hợp khi hai thi phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh là “Sóng” và “Thuyền và biển” đều soi chiếu tâm lí người con gái trong tình yêu giữa không gian mênh mông bao la, nơi đó có con thuyền, có biển bạc đầu, con sóng nhấp nhô vỗ vào bờ cát.
Trong bài thơ “Sóng”, hình tượng sóng và “em” là hình tượng chủ đạo, xuyên suốt, nhất quán từ đầu đến cuối bài thơ. Nữ thi sĩ mượn sóng để diễn tả những cảm xúc tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, phức tạp, vừa tha thiết, sôi nổi của trái tim người phụ nữ; còn “em” là cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh.
Sóng và “em” tuy hai mà một, lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, lúc đan cài vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng, nhằm diễn tả sâu hơn khát vọng tình yêu đang trào dâng trong trái tim thi sĩ.
Hà Minh Đức cho rằng: “Sóng là một hình tượng ẩn dụ vừa hóa thân, vừa hòa nhập với cái tôi trữ tình. Và ở đây sóng phải góp phần nói lên tình cảm, tình yêu của một tâm hồn thơ nữ”. Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng sóng và “em”, từ đó, Xuân Quỳnh đã khám phá vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu nhiều chiều, đa dạng và đầy cảm xúc.
Kiến thức trọng tâm bài thơ SóngỞ hai khổ thơ đầu, Xuân Quỳnh viết về “sóng lòng” trong tâm hồn người con gái đang yêu đồng điệu với những con sóng ngoài biển khơi, về khát vọng tình yêu, về những đối cực thường trực:
Người con gái trong bài thơ không ngại ngần, e thẹn như người con gái trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn, thương mà không dám nói, yêu mà e ấp giấu che. Người con gái trong thơ Xuân Quỳnh thật mạnh mẽ, sôi nổi, tự nhận thức tình yêu trong lòng mình. Bản thân con sóng ngoài biển khơi có nhiều trạng thái trái ngược nhau:
“Dữ dội” và “dịu êm”, “Ồn ào” và “lặng lẽ”. Đây là những biểu hiện thường thấy của sóng: lúc biển động phong ba, sóng “Dữ dội”, “Ồn ào”; ngược lại, khi trời yên, bể lặng, sóng “dịu êm”, “lặng lẽ”. Những đối cực này đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo trước, nhưng đôi khi diễn ra thật bất ngờ, thất thường và đầy bí ẩn.
Tâm hồn người con gái đang yêu cũng tương tự như sóng. Từ xưa, trái tim người phụ nữ vốn dĩ là một đại dương sâu thẳm, khó mà hiểu hết. Lúc hờn ghen, giận dỗi, khi lại nhẹ nhàng, dịu dàng, lắng sâu. Phải chăng khi yêu ai cũng vậy? Bởi lẽ tình yêu vốn mang trong mình những đối cực, mâu thuẫn nhưng đó là những mâu thuẫn trong thống nhất, biểu hiện một trái tim yêu mãnh liệt, chân thành.
Hai câu thơ: “Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể” đã diễn tả hành trình của con sóng tìm về bể lớn. Những con sóng hiện lên thật mạnh mẽ, bản lĩnh, không chấp nhận sự chật hẹp, gò bó mà luôn tìm về không gian biển rộng mênh mông. Nơi đó sóng đủ sức vẫy vùng. Con sóng chỉ đầy uy lực khi nó được sống giữa môi trường đích thực: biển lớn.
Hành trình của sóng cũng giống như trái tim người con gái đang yêu, không chấp nhận sự ràng buộc, nhỏ hẹp, tầm thường. Trái tim ấy luôn hướng tới cái lớn lao, cao cả, luôn khao khát một tình yêu có sự thấu hiểu, đồng điệu, thông cảm và sẻ chia. Bàn về hai câu thơ này, Trần Đăng Xuyên có viết: “Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa.
Nếu ‘Sông không hiểu nổi mình’ thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, ‘tìm ra tận bể’, đến với cái cao rộng, bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt!”. Vậy là ở một khía cạnh nữa, ta thấy được tính “nữ quyền” mà Xuân Quỳnh gửi gắm. Khác với người con gái thuở xưa, nhẫn nhục cũng chịu đựng, tình yêu tầm thường cũng cắn răng sống trọn một cuộc đời vô vị, nhạt nhẽo.
Người con gái hiện đại không nhẫn nhịn đến nhẫn nhục như vậy, họ bản lĩnh, kiên quyết hơn trong việc lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Bốn dòng thơ đầu hé mở quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: người con gái tìm đến tình yêu thật chủ động, tự tin, mạnh mẽ vượt qua mọi rào cản để vươn đến những điều cao cả.
Xuân Diệu từng nói: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo – Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”. Khát vọng tình yêu vốn là khát vọng muôn thuở của nhân loại, mãnh liệt của tuổi trẻ. Khổ thơ tiếp theo, Xuân Quỳnh mượn hình tượng sóng để khám phá cái quy luật vĩnh hằng của tình yêu:
Sóng ngoài biển khơi vĩnh hằng với thời gian. Đâu ai biết sóng vỗ rì rào trên biển cả tự bao giờ, và cũng đâu ai đoán được bao giờ sóng thôi vỗ bờ, bao giờ sóng biến mất để biển chết dần chết mòn, cạn khô sự sống? Không một nhà khoa học nào lí giải được điều ấy, Xuân Quỳnh thốt lên: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế”, từ ngàn xưa sóng xôn xao vỗ vào bờ đá, bây giờ cũng vậy và muôn đời vẫn vậy.
Con sóng ngày xưa và con sóng hôm nay không gì thay đổi, vẫn dào dạt, vẫn sôi nổi vô cùng. Cũng như sóng, khát vọng tình yêu là khát vọng của tuổi trẻ muôn đời vẫn bồi hồi. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu, và mãi mãi con người sẽ vẫn tìm đến tình yêu như một cứu cánh của cuộc đời.
Tình yêu có sức cảm hóa con người, vực dậy hi vọng sống, khiến con người nhìn thấy màu hồng giữa cuộc đời đầy phong ba tăm tối. Tình yêu bao giờ cũng là khát vọng cháy bỏng của tuổi trẻ, “còn yêu là sống mà còn sống là yêu”:
Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ đây, Xuân Quỳnh đã trải cùng cảm xúc yêu đương: hờn giận, nhớ nhung, lòng thủy chung, hi vọng hướng về tổ ấm bình yên hạnh phúc. Những vần thơ trong trẻo, mạnh mẽ nhưng đôi khi cũng xen lẫn trăn trở, âu lo. Cái giọng âu lo đầy ám ảnh vốn là giọng thơ đặc trưng của Xuân Quỳnh. Phải chăng chị đã bao lần đổ vỡ, bao lần tình yêu không thành, vì thế mà trong tình yêu Xuân Quỳnh luôn hết mình, đắm say: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn – Hôm nay yêu mai có thể xa rồi” (Nói cùng anh).
Khổ thơ cuối như khúc vĩ thanh, giai điệu sóng biển ngân vọng vào tâm can người trẻ. Chính ý thức lo âu về sự phai tàn trong tình yêu đã giúp Xuân Quỳnh đưa ra một lối ứng xử tích cực. “Sóng” nâng đỡ tấm lòng nhà thơ mạnh dạn nói lên khát vọng được sống trọn vẹn, sống hết mình trong tình yêu:
Câu hỏi tu từ: “Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ” khiến như nỗi trăn trở dễ thương của người con gái trong tình yêu. Nữ thi sĩ hỏi nhưng không cần trả lời, bởi lẽ con người đâu thể tan ra “Thành trăm con sóng nhỏ”, không thể được! Đây mãi mãi là một ước muốn vô lí. Tuy vậy, trong vô lí hóa ra lại có lí.
Hơn hết vẫn là nỗi lòng của người con gái, khát khao cháy bỏng muốn hòa mình vào “biển lớn tình yêu”, để được yêu hết mình, tận hưởng hết mình, một tình yêu đích thực và vĩ đại mà trên hành trình cuộc đời người con gái luôn kiếm tìm, theo đuổi. Trần Đăng Xuyên cho rằng: “Những ý nghĩ này có vẻ tự do, tản mạn, nhưng từ trong chiều sâu của thi tứ vẫn có sự vận động nhất quán.
Đó là cuộc hành trình khởi đầu từ sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu”. Đến đây ta có thể nhận ra sự bao dung, độ lượng của người con gái. Với mỗi người, tình yêu không đơn giản chỉ là rung động rồi quấn quít bên nhau.
Tình yêu đẹp phải là tình yêu sống mãi cùng thời gian, nhịp bước cùng năm tháng, một tình yêu khiến người đời ngưỡng vọng, mến yêu.
Phải chăng Xuân Quỳnh đã dự cảm về cuộc đời của mình, một điều không hiếm hoi trong thơ của chị. Đời nhiều khổ đau, bất hạnh, Xuân Quỳnh luôn trong tâm thế âu lo, sợ đời ngắn ngủi, vô thường, sợ tình yêu chóng tan như mây khói. Trong bài thơ “Tự hát”, Xuân Quỳnh có viết:
Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều không thể nói Trái tim đập cồn cào cơn đói Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn.
Cứ lo âu, trăn trở, thấp thỏm như thế, sóng Xuân Quỳnh vẫn không lún sâu vào chán nản, tuyệt vọng mà trái lại càng khao khát được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ” để vĩnh viễn hóa tình yêu của mình: “ngàn năm còn vỗ”. Bài thơ cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng.
Sóng biển như sóng lòng, lúc vồ vập, dâng trào, lúc bình yên, suy tư, trầm lắng. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng và đầy bao dung. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.
Bài thơ thể hiện rõ sức sống tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Tình yêu mà Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và son sắt, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của thời gian đời người.
Người phụ nữ đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh rất mạnh dạn, chủ động, dám vượt qua mọi trở ngại, gian lao; lo âu trước sự hữu hạn của thời gian nhưng tin vào sức mạnh của tình yêu; hướng tới một tình yêu bất diệt. Khát vọng ấy lại đi liền với khát khao về mái ấm gia đình, sự gắn bó lâu bền, thủy chung, duy nhất.
Đó là quan niệm tình yêu vừa thấm đẫm chất hiện đại, vừa phảng phất nét truyền thống của người phụ nữ phương Đông. Xuân Quỳnh viết bài “Sóng” trong những năm tháng đánh Mĩ “Xẻ dọc Trường Sơn” ác liệt, khi sân ga, bến nước, gốc đa, khi lại là cuộc chia li màu đỏ. Trong hoàn cảnh ấy, bài thơ càng thể hiện rõ hơn nỗi khát khao của người con hái trong tình yêu.
Hai khổ thơ đầu và một khổ thơ cuối nối liền mạch cảm xúc của người con gái mà đoạn giữa bài thơ là phần diễn giải vừa khái quát, vừa sâu sắc quan niệm tình yêu. Hình tượng sóng vẫn cứ xuyên suốt nhất quán, nhịp thơ vẫn cứ bềnh bồng, dạt dào như nhịp sóng ngoài trùng khơi. “Sóng” vì vậy mà đẹp hơn hẳn, rực rỡ hơn hẳn. Xuân Quỳnh đã thổi vào thơ ca chống Mĩ một sắc màu mới, riêng biệt, không trùng khít với bất kì ai.
“Sóng” là bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ Việt Nam nói chung. Mặc dù sử dụng “sóng” làm hình tượng ẩn dụ thì không mới, nhưng những tâm sự về tình yêu cùng cách khai thác sức chứa của ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả đã tìm được một hình tượng thơ đẹp đẽ để giãi bày tình yêu dịu dàng mà mãnh liệt, gần gũi, riêng tư mà mở rộng, phóng khoáng của người phụ nữ.
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Thi Olympic Lớp 8 Năm Học 2014 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!