Xu Hướng 12/2023 # Con Ong Làm Mật Yêu Hoa – Câu Thơ Xuất Sắc Trong Bài Thơ Tiếng Ru Tố Hữu # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Con Ong Làm Mật Yêu Hoa – Câu Thơ Xuất Sắc Trong Bài Thơ Tiếng Ru Tố Hữu được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nội Dung

Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời Con người muốn sống, con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Một ngôi sao chẳng sáng đêm Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng Một người – đâu phải nhân gian Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi!

Núi cao bởi có đất bồi Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu? Muôn dòng sông đổ biển sâu Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?

Tre già yêu lấy măng non Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày Mai sau con lớn hơn thày Các con ôm cả hai tay đất tròn.

Con ong làm mật yêu hoa là câu thơ mở đầu cho Tiếng ru. Ở đây Tố Hữu muốn mượn hình ảnh thiên nhiên, các sự vật gần gũi để chuyển tải thông điệp của mình. Hoa cỏ, ong bướm bay lượn khắp cánh đồng đó cũng chính là nguồn sống. Còn bầu trời trong xanh chính là nơi những chú chim tung cánh. Và thật yên bình nhất là khung cảnh chim tìm về tổ mỗi hoàng hôn.

Những câu thơ đầu tiên của bài thơ này, Tố Hữu đã chuyển tại một mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống. Bởi khi các loài vật bị tách ra khỏi môi trường sống thì chúng sẽ chết. Và đó cúng chính là quy luật tất yếu của tự nhiên. Rằng con cá không thể sống thiếu nước, con ong không thể sống thiếu hoa, con chim không thể cất cánh trong lồng hẹp. Và chỉ với những câu thơ ngắn mà Tố Hữu đã gợi lên trong lòng người đọc tình cảm yêu thương và gắn bó với môi trường sống của mỗi loài.

Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời

Nêú như hai câu thơ đầu nói về mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống thì những câu thơ sau lại khéo léo chuyển sang nói về cuộc sống của con người.

Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Chính lời thơ ngọt ngào, tình cảm tác giả đã khẳng định con người không thể sống cô đơn mà cần phải có tình yêu thương. Đó chính là tình đồng chí, tình anh em. Tình đồng chí tức là mối quan hệ gắn bó, luôn giúp đỡ yêu thương và che chở lẫn nhau như ruột thịt. Cũng như vậy khi giải nghĩa về tình anh em. Tình cảm ấy sâu nặng đối với mỗi con người chúng ta.

Tình đồng chí, tình anh em rất cần thiết, nó cũng giống như con ong cần hoa con cá cần nước, con chim cần bầu trời. Và sẽ thật bất hạnh khi con người ta sống thiếu tình yêu thương. Bởi như vật sẽ rất cô độc và phải vượt qua mọi khó khăn một mình. Và đó cũng chính là giá trị nhân văn mà tác phẩm muốn chuyển tải. Đó chính là hay sống để yêu thương. Và trong xã hội khi có tình yêu thương thì con người mới có thể có được hạnh phúc và có thể tồn tại.

Con Ong Làm Mật Yêu Hoa

Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời Con người muốn sống, con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Một ngôi sao chẳng sáng đêm Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng Một người – đâu phải nhân gian Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi!

Núi cao bởi có đất bồi Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu? Muôn dòng sông đổ biển sâu Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?

Tre già yêu lấy măng non Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày Mai sau con lớn hơn thày Các con ôm cả hai tay đất tròn.

Con ong làm mật yêu hoa là câu thơ mở đầu cho Tiếng ru. Ở đây Tố Hữu muốn mượn hình ảnh thiên nhiên, các sự vật gần gũi để chuyển tải thông điệp của mình. Hoa cỏ, ong bướm bay lượn khắp cánh đồng đó cũng chính là nguồn sống. Còn bầu trời trong xanh chính là nơi những chú chim tung cánh. Và thật yên bình nhất là khung cảnh chim tìm về tổ mỗi hoàng hôn.

Mối quan hệ tự nhiên và sinh vật

Những câu thơ đầu tiên của bài thơ này, Tố Hữu đã chuyển tại một mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống. Bởi khi các loài vật bị tách ra khỏi môi trường sống thì chúng sẽ chết. Và đó cúng chính là quy luật tất yếu của tự nhiên. Rằng con cá không thể sống thiếu nước, con ong không thể sống thiếu hoa, con chim không thể cất cánh trong lồng hẹp. Và chỉ với những câu thơ ngắn mà Tố Hữu đã gợi lên trong lòng người đọc tình cảm yêu thương và gắn bó với môi trường sống của mỗi loài.

Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời

Triết lý về cuộc sống con người

Nêú như hai câu thơ đầu nói về mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống thì những câu thơ sau lại khéo léo chuyển sang nói về cuộc sống của con người.

Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Chính lời thơ ngọt ngào, tình cảm tác giả đã khẳng định con người không thể sống cô đơn mà cần phải có tình yêu thương. Đó chính là tình đồng chí, tình anh em. Tình đồng chí tức là mối quan hệ gắn bó, luôn giúp đỡ yêu thương và che chở lẫn nhau như ruột thịt. Cũng như vậy khi giải nghĩa về tình anh em. Tình cảm ấy sâu nặng đối với mỗi con người chúng ta.

Tình đồng chí, tình anh em rất cần thiết, nó cũng giống như con ong cần hoa con cá cần nước, con chim cần bầu trời. Và sẽ thật bất hạnh khi con người ta sống thiếu tình yêu thương. Bởi như vật sẽ rất cô độc và phải vượt qua mọi khó khăn một mình. Và đó cũng chính là giá trị nhân văn mà tác phẩm muốn chuyển tải. Đó chính là hay sống để yêu thương. Và trong xã hội khi có tình yêu thương thì con người mới có thể có được hạnh phúc và có thể tồn tại.

Con ong làm mật yêu hoa là một câu thơ mở đầu cho bài thơ Tiếng ru. Phải hiểu rằng tiếng ru ở đây không chỉ là tiếng ru cả mẹ mà còn là tiếng ru của nhân loại. Bởi bài thơ gợi nhắc các giá trị, triết lý nhân sinh cao cả. Mượng những hình ảnh đơn giản của tự nhiên Tố Hữu đã thành công trong việc khắc họa những điều đó. Đó chính là lời khuyên nhủ mọi người hãy sống yêu thương nhau. Và đó cũng chính là cách làm cho cuộc sống của chúng ta cnafg thêm ý nghĩa.

Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Con Ong Làm Mật Yêu Hoa

Cảm nhận những giá trị trong bài Tiếng ru

Con ong làm mật yêu hoa là câu thơ mở đầu cho Tiếng ru. Ở đây Tố Hữu muốn mượn hình ảnh thiên nhiên, các sự vật gần gũi để chuyển tải thông điệp của mình. Hoa cỏ, ong bướm bay lượn khắp cánh đồng đó cũng chính là nguồn sống. Còn bầu trời trong xanh chính là nơi những chú chim tung cánh. Và thật yên bình nhất là khung cảnh chim tìm về tổ mỗi hoàng hôn.

Mối quan hệ tự nhiên và sinh vật

Những câu thơ đầu tiên của bài thơ này, Tố Hữu đã chuyển tại một mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống. Bởi khi các loài vật bị tách ra khỏi môi trường sống thì chúng sẽ chết. Và đó cúng chính là quy luật tất yếu của tự nhiên. Rằng con cá không thể sống thiếu nước, con ong không thể sống thiếu hoa, con chim không thể cất cánh trong lồng hẹp. Và chỉ với những câu thơ ngắn mà Tố Hữu đã gợi lên trong lòng người đọc tình cảm yêu thương và gắn bó với môi trường sống của mỗi loài.

Con ong làm mật yêu hoa

Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời

Triết lý về cuộc sống con người

Nêú như hai câu thơ đầu nói về mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường sống thì những câu thơ sau lại khéo léo chuyển sang nói về cuộc sống của con người.

Con người muốn sống con ơi

Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

Chính lời thơ ngọt ngào, tình cảm tác giả đã khẳng định con người không thể sống cô đơn mà cần phải có tình yêu thương. Đó chính là tình đồng chí, tình anh em. Tình đồng chí tức là mối quan hệ gắn bó, luôn giúp đỡ yêu thương và che chở lẫn nhau như ruột thịt. Cũng như vậy khi giải nghĩa về tình anh em. Tình cảm ấy sâu nặng đối với mỗi con người chúng ta.

Tình đồng chí, tình anh em rất cần thiết, nó cũng giống như con ong cần hoa con cá cần nước, con chim cần bầu trời. Và sẽ thật bất hạnh khi con người ta sống thiếu tình yêu thương. Bởi như vật sẽ rất cô độc và phải vượt qua mọi khó khăn một mình. Và đó cũng chính là giá trị nhân văn mà tác phẩm muốn chuyển tải. Đó chính là hay sống để yêu thương. Và trong xã hội khi có tình yêu thương thì con người mới có thể có được hạnh phúc và có thể tồn tại.

Giải Thích Và Bình Luận: Nhà Thơ Như Con Ong Biến Trăm Hoa Thành Một Mật… (“Ong Và Mật”

(“Ong và mật” – Chế Lan Viên)

Ngoài kia cuộc đời tràn đầy sắc ngọt vị hương! Hoa nào cũng đẹp mà nụ nào cũng thơm! Yêu cuộc sống bao nhiêu thì người nghệ sĩ càng đong đầy những ý niệm của mình trong các vần thơ bấy nhiêu. Những rung động tinh tế, những trái tim ca hát của người nghệ sĩ lúc nào cũng bám riết, cũng đòi tinh chất mật ngọt của đời sống. Như đôi cánh ong chăm chỉ, Chế Lan Viên trong “Ong và mật” có viết:

Ý kiến trên của Chế Lan Viên với hình ảnh của con ong kiếm mật đã mở ra công việc, trách nhiệm và thiên chức của mỗi nhà thơ trong cuộc đời sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của mình.

Thơ là tình ca muôn đời của cuộc sống mến thương, Nhà thơ chính là người viết nhạc, người tạo lời cho bản đàn dạo suốt trăm phương. Cuộc sống thì mời mộc lắm, đáng yêu và quyến rũ lắm, nhà thơ không thể mong đứng bên ngoài khung trời ấy mà tạo nên được muôn câu thơ cho đời, Góp mình vào dòng thơ ca đó, Chế Lan Viên có những câu thơ viết về thơ rất tinh tế và sắc sảo. Với trải nghiệm của một nhà thơ lớn, Chế Lan Viên có những ý kiến rất xác đáng về thơ ca, nhà thơ cũng như quá trình hình thành nên tác phẩm. Rất nhiều bài thơ của Chế Lan Viên ẩn chứa quan niệm nghệ thuật. Những dòng thơ trong “Ong và mật” đã nói lên được thiên chức của nhà thơ, cũng như quá trình sáng tạo nên một tác phẩm nghệ thuật văn chương. Ông ví nhà thơ như chú ong kia, cứ mải mê, miệt mài hút nhụy, hút mật, đắm mình vào với mật cuộc sống. Mật càng ngọt, càng tinh chất thì đôi cánh ong bay càng miệt mài, vất vả. Cũng như thơ càng cô đọng, hàm súc nao nhiêu thì những nặng nhọc đèo bong của nhà thơ trong sáng tạo nghệ thuật càng kì công, khổ hạnh bấy nhiêu. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên lại nhìn thấy hình ảnh các nhà thơ trong chú ong kiến mật chăm chỉ. Phải chăng ong và quá trình làm mật cùng chiếu ứng với nhà thơ và quá trình sáng tác. Nếu đặc tính của con ong là cần mẫn, chăm chỉ thì nhà thơ cũng vậy:

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mậtMỗi giọt mật thành đôi vạn chuyến ong bay”

Chế Lan Viên đã nêu lên được yêu cầu trong sáng tạo của nhà thơ. Con ong chính là nhà thơ, “hoa” là hiện thực đời sống và “giọt mật” kia là tác phẩm, là bài thơ. Sự tương phản và đồng nhất giữa “trăm hoa” – “một mật” đã cho thấy được sự lâu dài, gian khổ bởi chính thơ là kết tinh của hiện thực đời sống. Những “biến”, “thành”, “đòi” hay là những yêu cầu cấp thiết để nhà thơ có thể thâu lấy hiện thực kia mà thêu mà dệt, mà chiết lấy những gì tinh túy nhất. Với một loạt các không gian “non Đoài”, “xứ Bắc”, “đồng bằng”, “miền Tây”. Những vùng miền ấy đều là những địa danh đẹp và thơ của Tổ quốc. Hay chăng trong thơm ngát của đồng nội xanh rì, cần hút nhụy, hút mật ở những nụ hoa đẹp nhất, thơm nhất và đầy vị ngọt lành nhất. “Ong và mật” hay là người nghệ sĩ với tác phẩm của mình, với mỗi vần thơ mình viết, mình tạo thành, và rung lên điệu hồn của cuộc sống trong ngọt ngào, ý vị và dư ba.

Pau-tốp-xki đã từng nói: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Nhà văn ấy, hay nhà thơ ấy phải là người đi tìm những vẻ đẹp trong cuộc đời này để rồi viết lên trang thơ. Nhà thơ chính là người kết lại những ngụy hoa. Những bông hoa sẽ héo khô thôi nếu một ngày kia ong chẳng đến. Cuộc đời sẽ phủ lớp bụi thời gian nếu không có nhà thơ nhọc công tìm kiếm. Một chút nắng qua thềm, một chút gió thổi lá rinh rung, tất cả sẽ rơi và quên lãng nếu trang viết các nhà thơ không khiến nó đẹp vô ngần. Chế Lan Viên khẳng định nhà thơ phải là người gắn bó sâu sắc với thực tế đời sống, đưa đời sống chân thực vào trang thơ. Hay phải chăng cuộc sống chính là nơi nhà thơ cần đắm mình vào để có được cho mình bao mặn mòi của đời sống. Nguyễn Du xưa cũng đã phải gió bụi truân chuyên để làm nên được bao kiệt tác văn chương. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du sẽ không trở thành đại thi hào nếu không có mười năm gió bụi. Phải chăng không có quãng thời gian nhập mình vào đời sống của dân nghèo lam lũ thì sao Nguyễn Du thấu hiểu hết mọi đắng cay, mọi cơ cực của đời sống:

“Lạnh sơ đã khổ vì không áo,Chày vải nhà ai chiều nện đưa

(“Đêm thu” – II)

Không thấu nổi cảnh đói rét đó thì sao có một “Sở kiến hành” đầy nhức nhối:

Có lẽ người đã nhìn thấy cảnh khổ này trong cảnh khổ của mình. Nguyễn Du đã từng bôn ba mười năm trên đất Bắc, mười năm gió bụi ấy, người đã nếm trải nên khi gặp ba mẹ con đói khổ thì tâm trạng chạm đến tim, tâm khóc và tim nhỏ máu. Mười năm để thấu hiểu cuộc sống đã đem đến những hiểu biết sâu sắc, làm tiền đề cho chân dung nhà đại thi hào dân tộc.

Hồ Xuân Hương – một trong ba nữ kiệt của thơ ca Việt nam, đã có nhiều tác phẩm viết cho những người phụ nữ bình dân. Trong khi: những nhân vật phụ nữ của văn học giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Nhưng có lẽ, vì sống gắn bó với cuộc sống bình dân, hiểu sâu sắc bản chất xã hội nên Xuân Hương trở thành người đầu tiên và duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc, mà đích thực là cô gái bình dân, bình dân từ cốt cánh đến hình hài:

(“Bánh trôi nước”)

Nhân vật bình dân, hình ảnh bình dân và đến cả ngôn ngữ cũng bình dân nốt. Nếu không có cái vốn văn học, dân gian kia thì sao có một Hồ Xuân Hương “dân gian” đến thế. Không sống, không gắn bó mật thiết thì sao có thể đưa vào thơ vào thơ văn những lời ăn tiếng nói dung dị, những hình ảnh nhân vật bình dị nhất? Những cô gái lực lưỡng, thắt đáy lưng ong, hếm thắm hoa hiên, tóc bỏ đuôi gà, cứ trở về trong trang thơ bà chúa Thơ Nôm như dấu ấn vàng tươi của cuộc sống một thuở!

Lưu Trọng Lư trong “Một vài cảm nghĩ về thơ” đã viết: “Thơ là cuộc sống tập trung cao độ, là cái lõi của cuộc sống. Đã đành là ngồi trong phòng không thể nặn ra thơ được, nhưng vào cuộc song, vơ tất cả một bó đem về, cố nhiên đó cũng chưa phải là thơ. Sự sống phải được ủ thành men và bốc lên trong tâm hồn thi sĩ.” Nhà thơ cần đúc rút và chiêm nghiệm thật nhiều từ cuộc sống. Cần đẩy tâm trạng cảm xúc đến một độ điển hình nào đó thì mới có được thơ. Nhà thơ cần đi đến trăm mảnh đời, thu vào lăng kính người nghệ sĩ vạn cuộc sống để kết tinh, để đúc thành tác phẩm văn chương. Cái tâm sức của nhà thơ là “mỗi giọt mật thành đời vạn chuyến ong bay”. Nhà thơ cần sống sâu sắc với đời sóng mới mong có được những câu thơ sâu sắc. Chế Lan Viên đã từng viết về quá trình sáng tạo của nhà thơ:

Quá trình sáng tạo của nhà thơ chính là quá trình tim về với chân dung cuộc sống, là cái lắng tai nghe những nhịp đập của cuộc đời. Chẳng thế mà Xuân Diệu đã từng ca ngân:

Thế Lữ thoát lên trên. Lưu Trọng Lư trốn trong trường tình, Huy Cận trở về nỗi buồn cùng quá khứ, Xuân Diệu là chú ong mật chốn trần gian mê mải. Mê mải quá giữa ngàn thanh âm sắc điệu mời mọc, lả lơi. Xuân Diệu “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”.

Đôi khi hiện thực chính là chất men say thôi thúc lòng nghệ sĩ thành thơ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đã gieo vào lòng những người trực tiếp cầm sung, thật sự xông vào nơi bom đạn viết về mình và đồng động. Giữa lúc đó, Phạm Tiến Duật xuất hiện, đem đến cho nền thơ hiện đại Việt Nam một tiếng nói mới.

Về một phương diện nào đó, có thể nói, chính cuộc đời kháng chiến chống Mỹ và đường Trường Sơn đã sinh ra và nuôi dưỡng thơ Phạm Tiến Duật. Chính Phạm Tiến Duật trong lời tự bạch đã khẳng định: “Nếu không có cuộc sống với những con người đa dạng ồn ào bao quanh với xô bồ chi tiết trôi chảy từng phút, từng giờ, thì hình như tôi không có thơ”. Không khí dữ dội, ác liệt của chiến trường ùa vào những trang thơ nóng bỏng của Phạm Tiến Duật mà sau này những dòng thơ ấy khó trở lại như những nguồn cảm xúc lớn của một thời một đi không trở lại. Không chỉ ngồi để chờ hiện thực đến với mình, các nhà thơ cần tìm hiện thực, đi để lấy tư liệu cho trang viết:

“Nay cành nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ BắcMật ngọt ở đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây”

Trong chuyến đi thực tế tại vùng biển Hạ Long, Huy Cận có “Đoàn thuyền đánh cá”. Nguyễn Thành Long cũng có cho văn chương một “Lặng lẽ Sa Pa”. Khi Chế Lan Viên không có dịp đi lên Tây Bắc nhưng lại có những vần thơ tuyệt hay trong “Tiếng hát con tàu”:

Trong thơ ca cũng có hiện tượng lạ. Nguyễn Chẩn đi viết hay, Bạch Cư Dị không đi viết lại hay hơn. Bài thơ “Con tàu xay” của Ranban được viết khi tác giả chưa đi biển. Ở đây cũng vậy, lúc làm “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên chưa lên Tây Bắc. Phải chăng làm thơ “chính là nói, là viết về cái điều tỏa ra trước thực tế chứ không phải chỉ bằng bản thân thực tế: không có thực tế thì không có cái tỏa ra đó” (Chế Lan Viên). Nhà thơ không những phải gắn quá trình sáng tạo với thực tế mà còn là với trí tưởng tượng càng sâu, càng đượm, càng hay!

Thơ là kết tinh của chủ thể sáng tạo và hiện tượng đời sống, cũng như để có đường mật còn có hai điều kiện: sự cần cù của ong và trăm ngàn bông hoa. Hay để được bài thơ theo nghĩa đích thực thì cần cả tài năng của nhà thơ và hiện thực cuộc sống muôn màu. Viễn Phương cho rằng: “Muốn có thơ hay cần có thơ hay cần có tài năng, lòng nhân ái, cái tâm trong sáng. Ngoài ra cần phải cắm sâu vào cuộc sống và lao động nghệ thuật cần cù…”. Hình ảnh con ong chăm chỉ cần mẫn cũng là hình ảnh lao động nghệ thuật của các nhà thơ. Một bài thơ ra đời là tinh chất của bao chữ, bao nghĩa, bao nhọc nhọc tìm kiếm. Hiện thực đời sống sẽ không nên hương nên sắc nếu nhà thơ lao động sáng tạo bằng chính tài năng và tâm huyết của mình. Có tài năng, có tâm huyết và khổ hạnh “phu chữ” cùng với hiện thực phong phú của đời sống là hai yếu tố làm nên một tác phẩm thơ hay đi vào lòng người đọc.

Quan niệm trên của Chế Lan Viên như một tuyên ngôn nhằm điều chỉnh lại những cách hiểu phiến diện: hoặc là quá đề cao tài năng nhà thơ, hoặc là quá đề cao hiện thực đời sống. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đã có sự đối lập một thời giữa hai trường phái: nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Một bên quá đề cao những gì thuộc về hình thức, tài năng, còn một bên quá coi trọng về hiện thực đời sống. Quan niệm trên của Chế Lan Viên đã dung hòa được điều đó. “Ong và mật” của Chế Lan Viên đã thực sự nói được mối quan hệ giữa nhà thơ và hiện thực đời sống, nó sâu sắc được quá trình sáng tạo của nhà thơ.

Lời nhận định của Chế Lan Viên đã mở ra hình ảnh công việc “hút mật” của người làm thơ. Mỗi nhà thơ là một chú ong chăm chỉ bay đến mọi vườn hoa trên khắp thế gian này, để mà hút nhụy, để mà làm hương, để nụ hoa này nối tiếp bông hoa kia, khoe sắc hương rực rỡ. Trăm đường ong bay rồi cũng tìm về với hoa, nhà thơ rồi cũng tìm về để sống, rồi ngụp lặn trong làn sữa mát của cuộc đời. Ý kiến của Chế Lan Viên khẳng định công việc đầy cao cả của mỗi nhà thơ: phát hiện ra trăm hoa trong vườn, rông rinh và tôn cao vẻ đẹp ấy lên cho vẻ đẹp ấy rực rỡ và tỏa sáng. Một chú ong mạt hay một nhà thơ đều yêu biết mấy cuộc sống yêu kiều này:

(Chế Lan Viên)

Bài thơ là kết tinh tuyệt diệu giữa “mùa” và “anh”, giữa hiện thực và vai trò của cảm hứng sáng tạo và trí tưởng tượng. Nhà thơ còn phải là người nâng được tâm hồn mình lên đến bậc nhất của những cung điệu trong một trí tưởng tượng khôn cùng. Bài thơ được chấm mực cuộc đời để viết nên bằng trải nghiệm của cả một đời thơ. Nhưng cảm hứng phải được bắt đầu từ hiện thực cuộc sống. Tâm hồn nhà thơ cần được rộng mở để đón gió bốn phương:

Mở rộng để đón mọi vang động của trần gian đập vào trái tim, thương cảm để mà đồng cảm. Nhận định của Chế Lan Viên không chỉ đúng với các nhà thơ mà còn rộng ra là cả với nhà văn, cả những người nghệ sĩ. Nghệ thuật là “để cho cái đẹp của trái đất, lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, niềm vui và tự do, cái cao rộng của tâm hồn người và sức mạnh của tri thức chiến thắng bóng tối như một mặt trời không bao giờ tắt” (C. Pauxtopxki). Chức năng của văn nghệ là nâng con người lên. Thơ ca chính là cách con người vượt lên chính mình (Ý của Bết-sơ). “Ong và mật” không chỉ là nhà thơ và tác phẩm thơ mà còn là nhà văn, nghệ sĩ với tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật ngôn từ. Cần tinh triết đến cô đọng, đến hàm súc để mỗi giọt mật là mỗi bụi quý mà người nghệ sĩ cóp nhặt, đãi cát tìm vàng để tạo nên cho đời này một “bông hồng vàng” vô giá của nghệ thuật. Những “bông hồng vàng” do muôn triệu con ong miệt mài hút ngụy làm hương cho đời!

Thơ ca, nghệ thuật là bao tế vi của cuộc sống góp tạo nên. Sự vi diệu của cuộc sống đã góp phần tạo nên vẻ đẹp vĩnh cửu của văn chương. Chế Lan Viên đã thay mặt cho bao nhiêu nghệ sĩ khác nói lên mối quan hệ giữa nhà thơ và đời sống, mà rộng ra là giữa nhà văn và tác phẩm nghệ thuật cùng quá trình sáng tạo đầy khổ nhọc và gian lao. Con ong kia cứ miệt mài đưa sắc cho đời, không như lũ bướm kia chỉ đem lại bao “sao ngữ”. Nghệ thuật được lên hương lên sắc, dậy ý dậy tình trong sâu thẳm mỗi tâm hồn con người. Cái đèo bòng vất vả ấy của nghệ sĩ khiến ta trân trọng thêm mỗi tác phẩm của họ, trân trọng thêm mỗi con đường đến với nghệ thuật chân chính. Yêu cuộc sống này bao nhiêu lại yêu bài ca về cuộc sống bấy nhiêu. Sâu sắc với mỗi tác phẩm bao nhiêu, lại để biết rằng: trăm đường ong bay mở ra trăm vùng núi non sông và đôi lần thấy cuộc sống đáng để chờ đợi biết bao!

Tả Con Ong Mật Văn Lớp 6

Ong mật sống tự nhiên trong rừng, cũng có thể nuôi trong vườn, trong nhà. Mỗi đàn ong có hàng nghìn con, gồm một ong chúa, vài trăm ong đực và hàng nghìn ong thợ. Ong thợ là ong cái nhưng không có khả năng sinh sản, nó chỉ bay đi lấy mật hoa, nhụy hoa và chăm sóc ong chúa, nuôi ong non. Ong thợ còn canh gác tổ và xây tổ. Tổ ong là một lâu đài bằng sáp có hàng trăm, hàng nghìn căn phòng hình 6 cạnh liền kề nhau.

Ong có bộ cánh kép, mỏng và trong suốt màu vàng mơ. Đầu miệng có lưỡi dài hút mật hoa, có hai râu dài như ra-đa để định hướng, dẫn ong đi tìm hoa và bay vể tổ. Mỗi con ong có ba đôi chân, mọc đều về hai phía. Chân ong có nhiều đốt và có lông. Thân ong có bốn, năm vòng ngang. Đuôi ong có ngòi, đốt rất đau.

Con ong tượng trưng cho đức tính chuyên cần và tích lũy. Con vật nhỏ bé mà có ích. Nó đem lại mật ong, sữa ong chúa và sáp ong. Nó còn giúp nhà nông thụ phấn cho cây trồng, hoa màu được bội thu.

Ong có nhiều loài: ong nghệ, ong gấu, ong bầu, ong đất, ong vò vẽ, ong ruồi, …và ong mật.

Ong mật có thể sống tự nhiên trong rừng, nhiều nhất là các rừng tràm vùng U Minh. Ong mật cũng có thể nuôi trong vườn nhà.

Ong mật sống theo đàn, mỗi đàn đông đến hàng ngàng con. Mỗi đàn ong có một ông chúa, hàng trăm con ong đực và hàng ngàn con ong thợ. Ong chúa như một nữ hoàng, chuyên đẻ trứng phát triển đàn ong. Ong thợ để xây tổ, lấy mật hoa và gây mật.

Mỗi con ong có cặp cánh mỏng, vàng thẫm, trong suốt, có 6 chân chia đều thành hai phía. Đầu ong có hai cái vòi nhỏ và đài. Miệng ong có lưỡi như một mũi kim.

Ong thợ có luwoix dài để hút mật hoa, chân có giỏ đựng phấn hoa, đầu có hạch sinh sữa chúa để nuôi ấu trùng. Tuyến nước bọt ở ngực có chất luyện mật hoa thành mật ong; bụng có hạch tiết ra chất sáp làm nguyên liệu để xây tổ.

Mùa xuân, mùa hè có nhiều hoa cũng là mùa đàn ong phát triển. Nơi nào có hoa là ong bay đến tìm mật hoa, nhụy hoa. Ong có thể bay rât xa nhưng không bao giờ lạc đường về tổ; cứ chuyên cần đi đi, về về mang mật, mang nhụy hoa về tổ.

Con ong nhỏ bé nhưng rất có ích. Nó cho ta mật ong, sữa ong chúa, sáp ong. Nó thụ phấn làm tăng sản lượng cây trồng. Nó là biểu tượng của đặc tính chuyên cần, tích lũy, kết đoàn.

Nhà em có nuôi hai tổ ong mật. Tiếng ong rù rì từ sáng đến tối, nghe thật vui tai. Tháng hai, tháng ba, cây cam, cây chanh, cây bưởi ra nhiều hoa, em thường ra vườn ngắm ong hút mật và lấy nhụy hoa.

Là một loài côn trùng bé nhỏ nhưng ong rất chăm chỉ và có ích cho đời.

Hàng ngày, ong bay đi khắp mọi nơi để kiếm phấn hoa về làm thành mật ngọt giúp ích cho đời. Với thân hình bé nhỏ chỉ bằng ngón tay út, chúng có thể đậu lên những bông hoa nhỏ nhắn, nếu không cũng có thể dùng chiếc ống hút mật dài và nhỏ như đầu kim đâm sâu vào trong nhụy hoa và thậm chí chui tọt vào trong bông hoa và thoả sức hút mật. Ong có tới hàng nghìn con mắt nhỏ tí xíu xếp lại với nhau thành hai con mắt lớn chiếm hết diện tích hai bên đầu. Những con mắt xếp dày như lưới mắt cáo này giúp ong có thể xác định vị trí và màu sắc của các loại hoa mà chúng cần tìm đến. Thân hình của các giống ong không hoàn toàn giống nhau. Ong thợ khá eo ót trong khi ong mật lại béo múp míp, mình tròn trùng trục nổi rõ những vằn đen trên thân. Tuy thân hình béo gầy khác nhau nhưng đôi cánh mà chúng sở hữu lại giống nhau như đúc. Chúng đều mỏng tang, trong suốt và dường như rất yếu ớt. Vậy mà đôi cánh ấy lại giúp những chú ong di chuyển rất nhanh trong không khí, quả thật kì diệu.

Ong không chỉ là một người thợ làm mật chuyên nghiệp, nó còn là nhà thụ phấn tài ba. Nhờ những chiếc lông tơ nhỏ tí xíu trên thân và trên chân, ong đã mang phấn từ hoa đực sang hoa cái giúp cây có quả, tiếp tục phát triển giống nòi.

Chính vì ong rất có ích nên ngày nay, nước ta đã có những trang trại nuôi ong để lấy mật và góp phần thụ phấn cho cây.

Loài ong thông thường có nhiều loài khác nhau đó chính là ong nghệ, ong gấu, ong bầu, ong đất, ong thợ, ong vò vẽ, ong ruồi, …và trong đó em thích nhất là những chú ong thợ chăm chỉ, cần mẫn.

Ong thợ có thể sống theo đàn của minh lên đến hàng ngàng con. Mẹ em bảo rằng trong mỗi đàn ong có một ông chúa, hàng trăm con ong đực và phải có hàng ngàn con ong thợ. Trong tổ lúc này thì con ong chúa như một nữ hoàng, chuyên đẻ trứng phát triển đàn ong. Ong thợ lại đảm nhiệm chức năng đó chính là xây tổ, lấy mật hoa và gây mật để cho tổ ong lớn hơn nữa. Những sự chăm chỉ và cần mẫn của của bầu ong thợ luôn luôn để cho em học hỏi để có thể cố gắng hơn nữa trong học tập.

Mỗi con ong thợ em quan sát được chúng dường như lại có được những cặp cánh mỏng, vàng thẫm, trong suốt và thật là đẹp đẽ. Em như thấy được những chú ong lại như có 6 chân chia đều thành hai phía. Đầu của con ong thợ dường như lại có hai cái vòi nhỏ và đài. Miệng ong lúc này đây dường như lại có lưỡi như một mũi kim vậy. Hễ ai mà xâm phạm tổ chúng là cả đàn sẽ lao vào tấn công. Chúng thà chết để bảo vệ chính cái tổ cũng như các thành viên trong ngôi nhà chung của chính nó.

Ong thợ có được một biệt tài đó chính là có một chiếc vòi thật dài để hút mật hoa, chân có giỏ đựng phấn hoa, hơn nữa thì đầu chính có hạch sinh sữa chúa để nuôi ấu trùng. Khi được học và tìm hiểu về loài ông em như phát hiện được thấy tuyến nước bọt ở ngực có chất luyện mật hoa thành mật ong. Còn chiếc bụng có hạch tiết ra chất sáp làm nguyên liệu để xây tổ.

Khi cứ vào mùa xuân, mùa hè thì đây là thời điểm mà có nhiều hoa cũng là mùa đàn ong phát triển. Khi mà nơi nào có hoa là ong bay đến tìm mật hoa, nhụy hoa. Những chú ong thợ có thể đi rất xa nhưng lại không bao giờ quên được đường về tổ của mình.Con ong như thật cần mẫn và đáng yêu biết bao nhiêu.

Em yêu những chú ong vì chúng đã tạo ra mật ngọt và khiến cho hoa có thể ra quả. Em cũng sẽ học tập tính kiên trì và cần mẫn của chú ong.

Em được biết rằng loài ong mật sống tự nhiên trong rừng, và cũng có khi là chính con người nuôi trong vườn, trong nhà. Ông mật thường là chú ong chăm chỉ cho nên em rất thích những chú ong mật này.

Trong mỗi đàn ong thì luôn luôn có hàng nghìn con, gồm một ong chúa, vài trăm ong đực và quan trọng hơn đó chính là có hàng nghìn ong thợ. Ong thợ cũng là ong mật được xem là những con ong cái nhưng chúng lại không có khả năng sinh sản. Ong thợ lúc này thì chỉ biết bay đi lấy mật hoa, nhụy hoa và quan trọng hơn tất cả việc chúng là để có thể chăm sóc ong chúa, nuôi ong non. Những con ong thợ dường như còn canh gác tổ và xây tổ. Tổ ong được xây dựng như là một tòa lâu đài bằng sáp có hàng trăm, hàng nghìn căn phòng có các hình 6 cạnh liền kề nhau nhìn thật đẹp mắt biết bao nhiêu.

Con ong thợ chăm chỉ lại có bộ cánh kép, mỏng và trong suốt màu vàng mơ thật là đẹp đẽ biết bao nhiêu. Thế rồi quan trọng hơn đó chính là ở đầu miệng có lưỡi dài hút mật hoa. Mỗi chú ong thợ chăm chỉ lại có hai râu dài. Chiếc râu dài này dường như để định hướng, dẫn ong đi tìm hoa và bay vể tổ cho chính xác nhất. Mỗi con ong có ba đôi chân, mọc đều về hai phía. Những chiếc chân của con ong thợ lại có nhiều đốt và có lông. Thân ong thợ lại như có bốn, năm vòng ngang. Đuôi ong có ngòi, đốt rất đau và ai ai cũng phải sợ.

Ong mật luôn luôn sống theo đàn. Và theo tìm hiểu em thấy được rằng hành trình của con ong dài hàng trăm dặm. Dường như cứ mỗi ngày ong bay đi bay về tìm mật hoa, nhụy hoa đem về tổ, chuyên cần từ tinh mơ đến chiều tối.

Con ong thợ chính là một tượng trưng cho đức tính chuyên cần và tích lũy. Con vật nhỏ bé mà có ích chính vì thế mà em rất thích những chú ong thợ chăm chỉ.

Tố Hữu: Làm Thơ Và Yêu Thương

Viết xong bài “Theo chân Bác”, anh tâm sự với tôi:

-“Anh có hai niềm vui, một là khỏi bệnh, hai là viết được một trường ca về Bác. Những tưởng lần này ra đi theo Bác, thế mà lại làm được một việc có ích”

Trong nhà tôi, những chỗ trang trọng nhất anh đều treo ảnh Bác: trên tường phòng khách, phòng làm việc, cả dưới mặt kính bàn giấy của anh. Hình ảnh Bác ngồi đọc báo ngoài vườn, Bác hút thuốc lá, Bác ra mặt trận, Bác tiếp văn nghệ sỹ và anh hùng chiến sỹ, v.v… đâu đâu anh cũng như thấy được ở bên Bác.

Dưới ảnh Bác là ảnh đồng chí Lê Duẩn cũng được trang trọng treo trong phòng làm việc của anh.

Anh Tố Hữu thường nói với tôi:

– Đồng chí Lê Duẩn là người đầu tiên đưa anh vào con đường cách mạng. Anh là một cán bộ lão thành từng trải từ lúc mới thành lập Đảng. Anh am hiểu phong trào và cán bộ của cả ba miền Đất nước. Không những thế, anh là một nhà chiến lược thông tuệ và tài năng của Đảng. Nhân cách cao đẹp của người cộng sản kiên trung như Anh đáng cho ta học tập noi theo.

Nhớ đến anh Lê Duẩn, anh Tố Hữu thường gợi lại câu tâm huyết giáo dục đạo đức cán bộ đảng viên: “Mỗi ngày ta nên vào Đảng một lần”.

Khi anh Lê Duẩn mất, anh đã viết tặng một bài thơ dài “Nhớ về Anh”. Nhưng không hiểu sao bài thơ đưa in ở Hà Nội rất khó khăn, anh phải đem in ở nhà xuất bản Đà Nẵng hàng vạn bản và gửi tặng nhiều nơi. Trong bài thơ “Mười tám thôn Vườn Trầu”, anh viết sau khi đi thăm huyện Hóc Môn, nơi địch đã giết năm đồng chí Trung ương ủy viên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, anh nhắc đến anh Lê Duẩn, người đã đến Hóc Môn lúc đó để họp: “Lê Duẩn ẩn thiên tài”…

Nhiều lần được nghe nói chuyện, đôi lần được tiếp xúc với anh Lê Duẩn tôi nhận ra giữa anh Lê Duẩn và anh Tố Hữu thật sự có một sự đồng điệu về lối suy nghĩ linh hoạt, khả năng nhậy bén khi đánh giá tình hình, tính quyết đoán trong công việc, và cả tính tình nhân hậu của người cộng sản.

Một người nữa mà anh Tố Hữu thương yêu, trân trọng là anh Nguyễn Chí Thanh. Hai anh cùng chung một quê là xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà hai anh ở hai làng sát gần nhau, anh Thành ở Niêm Phò, anh Tố Hữu ở Phù Lai, cách nhau một cái cầu đá nhỏ vắt qua một nhánh hẹp của con sông Bồ. Một thời gian sau giải phóng, dân xã đã xây dựng lại cây cầu đá thành cầu xi măng và đặt tên là cầu Thành Hữu.

Tình bạn của hai anh bắt đầu cũng thật ngộ nghĩnh. Khi mới được giác ngộ, có lần về làng, nghe đồn có anh nông dân tên Vịnh khí khái, dám đấu tranh với cường hào, anh Tố Hữu nảy ra ý định sang tuyên truyền cách mạng. Thấy anh Tố Hữu là một thanh niên học sinh thành phố còn trẻ măng, anh Thanh chưa tin, liền trả lời bâng quơ: “Mình có làm chi mô. Chỉ thấy người làng ta than sưu cao thuế nặng thì mình cũng đi theo đòi giảm sưu thuế thôi”.

Anh Tố Hữu buồn thất vọng ra về. Đến năm 1939, khi anh Tố Hữu bị bắt vào lao Thừa Phủ, gặp lại anh Thanh và được tổ chức bên ngoài giới thiệu anh Thanh là Bí thư tỉnh ủy, mới vỡ lẽ ra anh Thanh trước kia đã là cán bộ cốt cán của Đảng bộ Thừa Thiên rồi. Từ trong lao Thừa Phủ hai anh gắn bó với nhau, anh Thanh làm Bí thư, anh Tố Hữu làm Phó bí thư chi bộ nhà tù.

Trong tù, mỗi lần đấu tranh chống khủng bố, tù nhân (như vụ chống giết hại cụ Tiết, vụ hành hạ anh Lê Chưởng), địch đem dùi cui đến đánh đập, và xịt vòi rồng xối nước dữ dội vào người tù, thì anh Thanh lại đứng ra và động viên những đồng chí to lớn khỏe mạnh đứng hàng đầu che chở cho những đồng chí yếu ớt như anh Tố Hữu. Trong khám Thừa phủ, nhớ đồng quê, nhớ quê hương anh đã viết tặng anh Thanh (tên thật là Vịnh) bài “Nhớ đồng”.

Sau mỗi lần tranh đấu, địch chia rẽ, phân tán tù nhân đi các nhà tù khác, không hiểu sao hai anh vẫn được đi với nhau. Đến khi cách mạng thắng lợi, anh Thanh ra tù, hai anh trở về Thừa Thiên, lại cùng ở trong xứ ủy Trung kỳ, anh Thanh là Bí thư xứ ủy, anh Tố Hữu là Phó. Rồi các anh cùng hoạt động với nhau ở khu bốn, ở Trung ương tại Việt Bắc, tại Hà Nội, một “quan võ”, một “quan văn” nhưng thực sự là một đôi bạn tâm giao thân thiết. Những dịp gặp nhau, hai anh trao đổi không chỉ chuyện công tác mà còn chuyện quê hương, chuyện nhân tình thế thái. Anh Thanh cũng là người rất yêu thơ Tố Hữu và là một trong những nhà phê bình “thơ” chân thành của anh.

Năm 1963 khi anh Nguyễn Chí Thanh được Trung ương cử vào Nam phụ trách Trung ương Cục, anh Tố Hữu làm bài thơ “Tiễn đưa” tặng anh Thanh:

“Đã hay đâu cũng say tiền tuyến Mà vẫn bâng khuâng, mộng chiến trường Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ Hơn ngàn trang giấy luận văn chương…”

Những câu thơ đó cũng chính là nguyện vọng của anh muốn trực tiếp được vào Nam công tác.

Năm 1967, khi ở miền Nam ra báo cáo với Bộ Chính trị, để chuẩn bị cho chiến dịch 1968 anh Thanh đến thăm chúng tôi. Anh vỗ vai anh Tố Hữu:

– Mi làm nhiều thơ hay vào, ở rừng chiến khu, nằm võng nghe Châu Loan ngâm thơ Tố Hữu, tau mát ruột lắm.

Nhà thơ Tố Hữu cùng vợ khi còn trẻ. (Ảnh chụp lại từ tư liệu của gia đình. Thành Trung).

Trước hôm trở về Nam, anh Thanh đến thăm anh Tố Hữu và tâm sự rất lâu. Ai ngờ ba giờ sáng hôm sau, điện thoại réo, báo tin anh Nguyễn Chí Thanh bị nhồi máu cơ tim khó cứu chữa. Anh Tố Hữu tức tốc chạy vào bệnh viện thì anh Thanh đã được đưa vào phòng mổ tim và không biết gì nữa. Anh Thanh ra đi, với anh Tố Hữu có lẽ đau đớn như mất một người anh ruột. Anh viết bài thơ viếng “Một con người”:

“Cứ nghĩ như anh vẫn sống hoài Mặt hiền như ruộng lúa, nương khoai Hai con mắt đỏ bừng như lửa Cái miệng cười tươi sáng dặm dài… Ở đâu nghèo đói gọi xung phong Lon nước mo cơm lội khắp đồng Ở đâu tiền tuyến kêu anh đến Vượt núi băng rừng, lại tiến công!

Ôi! Sống như Anh, sống trọn đời Sáng trong như ngọc, một Con Người! Thanh ơi! Anh mất rồi chăng đấy? Cứ thấy như Anh nở miệng cười!”

Còn biết bao nhiêu “tâm hồn đẹp” đã vào thơ anh. Không chỉ những đồng chí lãnh tụ tiêu biểu, tài năng, đức độ mà anh quý trọng, anh còn viết nhiều về những con người anh hùng trong quần chúng nhân dân. Để viết về những con người đẹp nhất đó, anh có thói quen, nói đúng hơn là một nguyên tắc, là phải tiếp cận nhân vật. Anh nói: “Thơ bằng hành động điển hình, tránh trừu tượng; làm sao cho thơ được quần chúng hiểu, yêu mến”. Anh luôn tìm cách gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe tâm tư mỗi con người.

Những tấm gương anh hùng của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Thị Lý, mẹ Suốt, mẹ Diệm, Hồ Giáo, đội nữ dân quân Hàm Rồng, đơn vị pháo cao xạ nữ Quảng Bình… đều là nguồn cảm hứng cho thơ sau khi anh được gặp. Năm 1962, sau khi đi làm việc với Tỉnh ủy Hưng Yên anh về thăm quê anh hùng thủy lợi Phạm Thị Vách, mắt thấy tai nghe về nỗi khổ “sống ngâm da, chết ngâm xương”, quanh năm thiếu đói của người nông dân vùng chiêm trũng, anh đã viết bài “Giữa ngày xuân”. Anh ghi trong sổ tay công tác: “Hãy chân thật như mảnh đất, như những con người bình thường mà vĩ đại này. Để những đau khổ, dũng cảm của con người tự nói lên. Chớ kêu gào thêm. Chớ thêm son phấn. Hãy giản dị, rất giản dị, như tất cả những sự thật vĩ đại, như nhân dân lao động vĩ đại. Nhưng đừng tầm thường, dễ dãi trong cảm xúc nghệ thuật. Và hãy tươi, tươi như sự sống, không chút cứng nhắc. Qua tất cả, trong tất cả, hãy toát lên lòng yêu cuộc sống, yêu con người, yêu Đất nước Việt Nam đẹp đẽ của ta. Làm sao cho thấm vào lòng người, chói sáng trước mắt mọi người hình ảnh lớn lao của người con gái anh hùng…”

Khi đi công tác tại vùng mỏ Quảng Ninh về, anh ghi trong nhật ký: “Đời sống của công nhân đầy gian khổ, anh dũng, phải sống trong đó mà sáng tạo. Đó là công bằng. Đó là nhân phẩm”. Nhiều ý thơ, câu thơ về người thợ mỏ còn dang dở sau đó. Nhưng có lẽ anh không có thì giờ viết tiếp bởi công tác khẩn cấp hàng ngày kéo anh đi.

Như thế đấy, những số phận chìm nổi của con người, những tình huống thăng trầm của Đất nước, những tấm gương chiến đấu hy sinh cho sự tồn vong của Tổ quốc đều là những nguồn cảm hứng vô tận của thơ anh.

Chuyện “đời thường” cũng làm anh xao xuyến. Những số phận éo le của con người, nỗi buồn của sự nhớ thương cô quạnh cũng gợi ra những cảm hứng thi ca mà tôi rất yêu thích ở anh. Chỉ khác một điều là cái buồn, cái nhớ đó không dẫn đến bi lụy, chán nản, mà thấm sâu vào lòng trắc ẩn để thúc giục ý chí đấu tranh, xây dựng cho cuộc đời tươi đẹp hơn.

Khi cùng anh trên chuyến phà qua sông Hậu, gặp một tài tử mù hát rong, gảy đàn, anh đến ngồi gần và lặng nghe chăm chú. Khi vào một vườn cam ở một vùng quê heo hút miền Tây, anh chạnh lòng thương thân phận cô chủ vườn quá thì lỡ lứa. Đi thuyền trên sông, anh chỉ cho tôi để ý bóng áo tím của một cô lái đò, gợi nhớ nét thân quen xứ Huế quê anh. Ở thành phố Hậu Giang, gặp đoàn nữ sinh phấp phới đồng phục áo dài trắng, anh nháy mắt nhìn tôi: “Cô Thanh nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa đấy”. Tôi nhớ lại những đêm khuya anh chong đèn, miệng huýt sáo lấy âm điệu khi làm thơ. Anh dịch bài thơ “Long Thành Cầm giả ca” của Nguyễn Du bởi cảm thông với xúc động của Nguyễn Du với cô kỹ nữ vốn nổi danh trẻ đẹp, hát hay đàn giỏi một thời, nay gặp lại đã tàn phai và bị đời quên lãng…

Năm 1969, khi nghi bị bệnh máu trắng, phải nằm viện hơn một tháng tại khu cách ly rất vắng vẻ ở Moskva, anh đã hối hả viết xong bản trường ca “Theo chân Bác”. Cảnh mùa đông Nga hình như cũng gợi để anh dãi bày tâm tư. Thí dụ như bài “Nửa đêm:

“Nửa đêm tỉnh giấc rừng yên lặng Biết mình xa nước, vắng quê hương Ngoài trời tuyết lạnh, rơi đêm trắng Mà cháy lòng ta những nhớ thương.” Hay bài “Không ngủ”: “Không ngủ đêm nằm nghe tuyết tan Bâng khuâng nhớ nước tiết thu tàn Mưa rơi dồn dập nghe tim đập Tưởng bước hành quân bỗng nóng ran.”

Còn một lĩnh vực chiếm một góc khá quan trọng trong tâm hồn anh là thiên nhiên. Và gắn với mỗi cảnh vật ở từng lúc, từng nơi, thường là một tâm trạng. Anh thuộc địa lý, lịch sử, biết nhiều chuyện dã sử nên đi đến đâu cũng có bài học cho chúng tôi.

Vợ chồng nhà thơ Tố Hữu và các con.

Khi còn ở Việt Bắc, đôi lúc đi trong rừng tôi thấy anh thật sự sung sướng được chìm ngập trong cảnh rừng cây hoang dã, những con suối nước trong veo, dưới đáy sỏi trắng lô xô, lắng nghe tiếng róc rách của nước chảy qua ghềnh đá. Khi tôi với anh về thăm di tích lịch sử Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, anh mơ màng ngắm nhìn màu sương lam chiều bảng lảng trên những dãy núi hùng vĩ. Anh bảo tôi:” Những dãy núi hiểm trở này đã từng là nơi che dấu rất tốt chiến khu Hòa Ninh Thanh” (anh từng tham gia xây dựng chiến khu này cùng các anh: Văn Tiến Dũng, Trần Kiên, vào khoảng những năm 1942-1944). Đi công tác về địa phương với anh, anh ngắm không biết chán màu xanh ngắt của đồng lúa, nương ngô, ruộng mía. Gặp những cánh đồng lúa chín vàng rộm, bông nặng trĩu, anh sung sướng hít thở hương lúa mới. Có lần anh ngoái lại nói với tôi:” thật tuyệt vời, vừa đẹp, vừa no bụng rồi !”.

Về làng Hanh Cù, huyện Hậu Lộc, thăm gia đình mẹ Tơm, ngắm bãi biển cát trắng mênh mông, anh bùi ngùi nhớ lại cảnh mẹ và các con trai của bà hàng ngày bươn trải kiếm ăn nuôi anh và các đồng chí Tỉnh ủy những ngày đói khổ năm 1945.

Về công tác ở Quảng Ninh, khi Tỉnh ủy chiêu đãi ở khách sạn nổi “Biển mơ” trên vịnh Hạ Long tuyệt đẹp, anh không vui: “Bao giờ người thợ mỏ mới được hưởng cảnh này …”

Anh đặc biệt yêu chim, nhưng là những con chim tự do bay lượn. Anh không thích chim bị nhốt trong lồng, dù chúng đẹp và quý tới đâu. Anh bảo tôi: “Anh cứ ân hận mãi việc ấp ủ một con chim sâu nhỏ tình cờ lạc vào xà lim của anh. Anh đã cố dành chút cơm tù cho nó, nhưng không có không gian, nó vẫn chết”. Có lẽ vì bị giam hãm trong cảnh tù đày và sống trốn tránh lúc hoạt động bí mật nhiều năm, anh luôn ước ao mình được tự do như con chim chăng?

Lúc ngồi bên mộ Mạ trên núi Thiên Thai ở Huế, nghe chim cu cườm gáy, anh lại nhớ tiếng ru của Mạ năm xưa. Nhớ về những người yêu thương khi ở xa, anh muốn biến thành chim dõi theo để “tim đỡ buồn”. Khi ở ngoài vườn, anh thích ngắm nhìn những con chim sẻ, chim chích chuyền cành hót líu lo. Đôi lúc anh huýt sáo họa lại, rủ chúng lại gần cho ăn. . .

Biết anh yêu thiên nhiên, có lần anh Đào Tùng (giám đốc Thông tấn xã Việt Nam) tặng anh một máy ảnh nhỏ. Đi đâu anh cũng mang theo. Trong những cuốn album của gia đình còn rất nhiều “tác phẩm” của anh.

Sống với anh, tôi luôn được chứng kiến, được chia xẻ những cảm xúc thi ca như vậy. Nhưng có người không hiểu anh đã nói: “anh chỉ biết công việc”. Giá như lòng anh được thảnh thơi hơn, anh đủ thì giờ hơn để viết thì hay biết bao! Anh luôn ân hận không viết được nhiều như mong ước, mặc dầu anh rất cố dành thời gian cho sáng tác. Anh viết đều đặn, bền bỉ cho đến cuối đời, song song với công việc cụ thể hàng ngày của một người lãnh đạo.

Trong “kho tàng” thơ anh, nhiều bạn băn khoăn ít được đọc thơ tình (tình yêu đôi lứa), nhất là đối với một thi sỹ trữ tình như anh. Tất nhiên tôi lại càng mong ước điều đó hơn ai hết. Cả các anh Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Lưu Trọng Lư… cũng nói với anh ý muốn ấy. Anh đã trả lời: “đúng là tôi ít làm thơ tình, tôi không toàn tâm toàn ý dành thời gian cho mảng đề tài này. Tôi ít viết những bài thơ tình một cách cụ thể, một cách trực tiếp. Đây không phải là điểm mạnh của tôi. Hơn nữa, trong hoàn cảnh chiến tranh, biết bao thanh niên ra trận đã phải gác tình cảm riêng lại. Nếu ta nói nhiều về tình yêu đôi lứa thì không nên”. Quan niệm đó anh phát biểu một cách gián tiếp khi mượn câu của La Bruyère: “Người ta cảm thấy một cái gì như là sự xấu hổ khi thấy mình được hạnh phúc giữa những bất hạnh của người khác”.

Tuy nhiên anh là một thi sỹ, và trước hết là một người rất nhậy cảm (sensible). Dù như anh tự nhận những bài thơ tình chiếm một vị trí khiêm tốn trong sự nghiệp sáng tác của anh, nhưng như giáo sư Hà Minh Đức đã có lần nhận xét: “Có một mảng riêng thầm lặng mà đằm thắm, tuy không được mở rộng, nhưng chỉ với đơn vị nhỏ bé ấy cũng bộc lộ phần thẳm sâu khó đoán định, phần tình cảm riêng tư nhất của tác giả. Đó là giây phút bồi hồi xao xuyến bên người thân yêu”.

Cái mạch ngầm đó anh đã bộc bạch khi nói về ngôn ngữ tình yêu: “ngôn ngữ của tôi chỉ có thể hiểu được giữa những người bạn chí thân. Đó là những bài thơ tình của tôi, viết theo cách của tôi…Tôi yêu đất nước tôi, dân tộc tôi và tôi nói về họ như về một người tình…Tôi muốn ôm hôn tất cả và muốn ôm tất cả thường phải dùng những biểu hiện tình cảm rộng hơn. Trong những bài thơ của tôi có thể tìm thấy rất nhiều từ em hay mình. Từ đó không hoàn toàn cụ thể, nhưng cũng không hoàn toàn trừu tượng. Điều đó nói về một người và cũng về nhiều người khác nữa.”

Mạch ngầm đó còn là “sự im lặng giữa những từ”: …Nhiều điều không phải bao giờ cũng sáng tỏ…Thông thường người ta cảm nhận được điều mà người ta không cắt nghĩa được. Không dễ dàng gì thể hiện nó ra. Nếu tìm cách đặt những đường nét, những ranh giới, những giới hạn quá rõ rệt thì sẽ thất bại. Điều quan trọng là vấn đề chỗ dừng giữa các từ, các dòng. Thơ là như vậy: sự im lặng giữa các từ. Nếu ta chú ý lắng nghe sự im lặng đó, nó sẽ có những tiếng vang vọng rất đa dạng và rất phức tạp…Thơ là như vậy: mơ trong thực, cái không thấy được trong cái thấy được, màu sắc trong màu trắng. Đó là cái mà người ta gọi là sự tế nhị của ngôn ngữ và của tâm hồn. Những mầu sắc lờ mờ: không sáng, không tối, mơ hồ nhưng lại rõ rệt, sự rõ ràng của sự mơ hồ, sự mơ hồ rõ ràng. Tất cả những điều đó nói lên khi người ta là thi sĩ…”.

Lắng nghe sự “Im lặng” đó trong thơ anh, tôi cũng cảm thụ được một phần nét nhạc thầm kín rung động trái tim anh. Có khi là những điều rất riêng tư, xen kẽ với muôn nỗi buồn vui chung của đất nước

Dù anh viết tặng riêng cho tôi không nhiều, nhưng những bài thơ được anh tặng thật sự làm tôi cảm động.

Trong những bài thơ đã in và chưa in anh tặng, tôi thích nhất ba bài: “Mưa rơi”, “Sợ” và “Anh cùng em”. Hai bài đầu là kỷ niệm của những ngày đầu chúng tôi sống bên nhau và bài cuối khi cả hai chúng tôi đều ngoài bẩy mươi, đã cùng nhau trải qua mọi thăng trầm của cuộc đời. Anh viết bài thơ “Anh cùng em” sau chuyến anh cùng tôi về thăm lại Huế năm 1992. Bài thơ như để khẳng định một lần nữa tình yêu của chúng tôi: vẫn tươi mát như buổi đầu gặp gỡ và đằm thắm sau gần sáu mươi năm chung sống.

Có bài anh viết tặng tôi nhưng không cho đăng. Có bài đang viết dở dang như bài “Vì sao?” cũng có tên là “Rắc rối”. Thường anh hay thể hiện tình cảm riêng trong nhiều liên tưởng ở những bài thơ khác, có khi là một khổ thơ, có khi một vài câu, như trong: “Bài ca mùa xuân 1961”, “Từ CuBa”, “Chiếc áo xanh”. . . Ở đấy, cái chung và cái riêng xen kẽ nhau, hòa chung vào nhau. Khi anh đọc lần đầu cho tôi nghe, tôi nhận ra ngay những cảm xúc, tình huống đời thường của chúng tôi được anh nhắc trong những câu thơ mới. Đôi khi, anh dịch tặng tôi những bài thơ nước ngoài mà anh thích, trong đó có bài của nhà thơ Xôviết, Stepan Schipachev:

“Anh yêu em nên lòng anh cháy lửa Muốn đi lên đứng ở hàng đầu Cho người yêu, cho người vợ anh yêu Có thể được, vì anh kiêu hãnh”

Khi anh tặng tôi bài thơ “Một tiếng đờn” vừa làm xong, tôi hiểu đây là tâm sự của anh gửi riêng tôi. Nhưng cũng có thể hiểu là tâm trạng ngổn ngang của anh trước thời cuộc chung:

Em ơi, giữ thủy chung một tấm lòng trong sáng . . . “Một kiếp trăm năm được mấy ngày Trời cao không gợn bóng mây bay Thủy chung dòng nước trong xanh chảy . . . “Vĩnh viễn tình yêu mỗi phút giây Có khổ đau nào đau khổ hơn Trái tim tự xát muối ghen hờn Hãy tin cuộc sống từng say đắm Hoa lá qua mưa lại thắm vườn” . . . “Một tiếng thơ say đắm bên em Thương lắm lòng anh một tiếng đờn” … “Em ơi nghe đó trong đêm lạnh Đằm thắm bên em một tiếng đờn”.

Giờ đây, khi anh đã đi xa, tôi không còn được những giây phút hân hoan đọc những câu thơ, những bài thơ anh tặng. Nhưng dầu sao tôi cũng cảm ơn duyên phận trời định cho tôi được sống cùng anh.

Có lẽ có gì đó băn khoăn về hạnh phúc của một gia đình thi sĩ nên một người bạn có lần đã hỏi tôi: “Thanh có vừa lòng với hạnh phúc của mình không, và có lúc nào buồn không?” Tôi hơi ngạc nhiên về sự “thẳng thắn” trong cách đặt vấn đề của bạn. Nhưng tôi thấy cần nói rõ lòng mình một cách chân thành. Tôi trả lời bạn:

– “Được làm vợ anh mình rất hạnh phúc. Bên cạnh việc làm bổn phận của một người vợ, mình còn có may mắn được làm một người bạn, một độc giả yêu anh và yêu thơ anh”.

Đã nhiều lần anh nói với tôi: “Gia đình ta là một gia đình đẹp”. Tôi nghĩ anh đã chân thật khi nói lên điều đó. Anh rất coi trọng giữ gìn cái đẹp của sự thủy chung. Đôi khi có người phụ nữ yêu thơ anh đến với anh. Cũng có lúc anh không tránh khỏi có những cảm xúc bột phát. Song chính tình cảm gắn bó chặt chẽ giữa anh và gia đình, lòng tự trọng, đạo đức cách mạng luôn được rèn luyện, đã giúp anh vượt qua những cảm xúc đột xuất, thường tình của một thi sĩ, tránh được sự sa đà không đáng có. Những lúc ấy, tuy tôi thông cảm với cốt cách thi nhân” của anh, nhưng đôi khi cũng không khỏi chạnh lòng. Anh luôn tinh ý nhận ra ngay và chủ động làm lành. Và mọi nỗi giận hờn đều qua, không thể làm lu mờ tình yêu sâu đậm, dựa trên sự thông cảm, tin cậy giữa chúng tôi.

Sống với anh, càng ngày tôi càng cảm nhận rõ anh khao khát làm thơ như thế nào! Thơ là máu thịt của anh. Những lo toan rất cụ thể của công việc hàng ngày trong quản lý kinh tế xã hội của một Trưởng ban Tuyên huấn-khoa giáo và sau này của một Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, không làm cho anh bị phân tâm, khô cứng mà vẫn giữ được cảm xúc nồng hậu trong sáng cho thơ. Ngược lại chính những yêu cầu bức xúc của công việc cách mạng hàng ngày đã đem lại sắc thái và nguồn cảm hứng dồi dào thôi thúc anh làm thơ. Nhưng anh có rất ít thời gian dành cho thơ. Anh phải tranh thủ ban đêm để sáng tác. Sau những chuyến đi công tác, những lúc gặp gỡ quần chúng, anh thường ghi lại những cảm xúc, những tứ thơ chợt đến. Vì thế trong sổ tay công tác, xen giữa những dòng ghi công việc, có rất nhiều những câu thơ dở dang của những bài thơ đang ấp ủ.

Làm bạn với anh, tôi có may mắn được biết nhiều cảnh ngộ của con người, nhiều nhân cách, nhiều gương anh hùng chiến sỹ. Điều đó vừa có lợi cho công tác giáo dục tư tưởng của tôi, vừa làm bài học cho cuộc sống của tôi và gia đình.

Tôi còn có diễm phúc là người độc giả đầu tiên, là người phê bình thơ chân thành của anh.

Anh có thói quen khi đang làm, hoặc làm xong một bài thơ là đọc cho những người xung quanh nghe, mà tôi là người được “vinh dự” nghe trước tiên. Nhiều đêm đang ngủ say, anh cũng lay dậy để đọc cho nghe.

Tôi thường là người chia sẻ với anh từ những câu thơ đầu tiên. Nhiều khi tôi chưa ưng lắm, nhưng chưa dám góp ý ngay để anh khỏi mất hứng. Song anh dễ dàng nhận thấy ngay. Đến lúc tứ thơ đã hình thành, bài thơ đã xong, tôi mới góp ý một cách thẳng thắn. Tôi yêu thơ văn từ nhỏ, nhưng trình độ hiểu biết của tôi có hạn, nên có lẽ vai trò thật sự của tôi chỉ là nghe anh. Nhưng bao giờ những ý kiến của tôi cũng được anh chú ý. Chỉ thế thôi tôi đã cảm thấy hạnh phúc rồi!..

Cập nhật thông tin chi tiết về Con Ong Làm Mật Yêu Hoa – Câu Thơ Xuất Sắc Trong Bài Thơ Tiếng Ru Tố Hữu trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!