Xu Hướng 5/2023 # Chuyện Kể Về Người Mẹ # Top 10 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Chuyện Kể Về Người Mẹ # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Chuyện Kể Về Người Mẹ được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi :

– Liệu có việc gì không ? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

– Gì thế này ? – Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ :

– Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

– Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

– Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ta đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

– Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

– Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

– Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

– Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

– Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

– Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

– Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

– Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

– Thượng đế chứ ai! – Bà mẹ đáp – Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

– Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

– Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

– Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

– Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Việt Nam, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêu xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.

– Con tôi đây rồi ! Bà reo lên, tay chìa trên một gốc kỵ phù nhỏ bé màu lam, dáng ốm yếu, thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

– Chớ đụng vào hoa. Cứ đứng ở đây. Chắc chắn lát nữa Thần Chết sẽ về. Đừng cho Thần nhổ cây hoa này. Cứ dọa là bà sẽ nhổ hết cây cỏ ở quanh đây, Thần Chết sẽ sợ, vì Thần chịu trách nhiệm trước Thượng Đế về các cây cỏ ở đây; không có lệnh của Người thì không ai được nhổ một cây nào cả.

Ngay lúc đó, nổi lên một cơn gió lạnh buốt. Bà mẹ cảm thấy rằng thần Chết đã đến.

Thần hỏi:

– Sao ngươi lại có thể tìm được đuờng đến tận đây, mà lại đến trước cả ta ?

– Ta là mẹ!

Thần Chết vươn bàn tay dài ngoằng về phía cây hoa mảnh dẻ, nhưng bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy cây, hết sức che chở cho cây không bị nhàu nát một lá nào. Thần Chết hà hơi vào tay bà mẹ; bà cảm thấy lạnh buốt hơn gió bấc làm rụng rời cả đôi tay.

– Ngươi không chống lại được ta đâu – Thần Chết dọa.

Bà mẹ trả lời:

– Nhưng còn có Thượng Đế.

Thần Chết nói:

– Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của Thượng Đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của Người. Ta mang cây cỏ hoa lá ở đây đi cũng chỉ để đem trồng lại vào khu vườn trên Thiên Đàng, còn mọi việc xảy ra trên ấy, hoa cỏ mọc thế nào, ta không được nói với ngươi.

Bà mẹ nức nở van xin:

– Giả con cho tôi.

Đồng thời mỗi tay bà túm lấy một bông hoa gần đấy rồi thét lên :

– Nếu tuyệt vọng tôi sẽ nhổ hết hoa ở đây.

Thần Chết bảo:

– Chớ có đụng vào. Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác đau khổ hay sao?

Người mẹ khác? Bà mẹ đau thương buông hai bông hoa ra.

Thần Chết nói thêm:

– Đây là đôi mắt của ngươi. Thấy chúng lóng lánh sáng ngời dưới đáy hồ ta đã vớt lên. Ta biết đó là đôi mắt của ngươi. Hãy lấy lại đi. Đôi mắt ấy trong sáng hơn trước rất nhiều. Hãy nhìn vào lòng giếng gần đây, ta sẽ cho ngươi biết tên hai bông hoa ngươi vừa định ngắt. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời quá khứ và tương lai của chúng, thấy rất rõ tất cả những gì mà ngươi sắp hủy hoại.

Bà mẹ nhìn xuống lòng giếng. Bà thấy từ một trong hai bông hoa ánh lên một niềm vui đầy hạnh phúc, còn cuộc đời của bông hoa kia chỉ toàn những cảnh trầm luân, khổ ải, nghèo khó, khốn cùng.

Thần Chết nói:

– Kiếp hoa này cũng như kiếp hoa kia, đều do ý của Thượng Đế cả.

Người mẹ nói:

– Thế hoa nào là hoa bất hạnh, hoa nào là hoa diễm phúc?

Thần Chết đáp:

– Ta không thể tiết lộ được thiên cơ. Nhưng ngươi cần biết rằng một trong hai bông hoa đó chính là bông hoa của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ thét lên:

– Hoa nào trong hai bông là hoa của con tôi ? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì xin hãy mang nó đi, mang ngay nó về chốn Thiên Đàng ! Xin hãy quên những dòng nước mắt của tôi, quên những lời tôi đã cầu nguyện, quên cả những lời tôi đã nói và những việc tôi đã làm!

Rồi bà vặn vẹo đôi bàn tay, quỳ xuống và cầu khẩn:

– Cúi xin Thượng Đế đừng nghe lời tôi nếu tôi có cầu khẩn những lời trái với ý Người. Xin người đừng nghe tôi.

Rồi bà gục đầu xuống ngực.

Thế là Thần Chết mang đứa bé tới cái xứ sở xa lạ mà bà mẹ đã nói đến ban nãy.

Quay về trang chủ:

Truyện cổ tích,

Top 10 truyện cổ tích hay nhất mọi thời đại:

Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Trí khôn của ta đây, Cô bé lọ lem, Cô bé bán diêm, Sơn tinh thuỷ tinh, Cô bé quàng khăn đỏ, Nàng tiên cá, Tấm cám, Ăn khế trả vàng, Cóc kiện trời

Truyện xem nhiều nhất

Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất:

Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…

Bạn đang đọc các câu chuyện cổ tích tại website chúng tôi – Kho tàng truyện cổ tích chọn lọc Việt Nam và Thế Giới hay nhất và ý nghĩa cho mọi lứa tuổi dành cho thiếu nhi, tổng hợp trên 3000 câu chuyện cổ tích chọn lọc hay nhất Việt Nam và thế giới. Tại chúng tôi luôn được cập nhật thường xuyên, đầy đủ và chính xác nhất về truyện cổ tích giúp bạn dễ dàng tìm kiếm cho mình câu truyện cổ tích cần tìm.Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất: Truyền thuyết Thánh gióng truyện cổ tích tấm cám , sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,…Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…

Chuyện Kể Cho Bé Về Ngày Giáng Sinh

Có lẽ ít có lễ hội nào trên thế giới lại có nhiều truyền thuyết đẹp như lễ Giáng sinh. Từ sự ra đời của những chiếc bánh khúc cây, cây thông đến hình ảnh những nhân vật huyền thoại như ông già Noel đều gắn liền những câu chuyện thú vị. Nhân dịp Giáng sinh về, Webtretho xin giới thiệu đến độc giả một số truyền thuyết xung quanh ngày lễ đặc biệt này:

Sự Tích Giáng Sinh

Giáng Sinh được tổ chức hằng năm vào ngày 25/12 để kỷ niệm ngày Ðấng Cứu Thế (Jesu Christ) ra đời. Nguồn gốc của ngày lễ cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng nó bắt nguồn từ những nghi lễ cử hành bởi những người Tiền Cơ Ðốc giáo ở Ðức và Âu châu để kỷ niêm ngày Ðông Chí (thường rơi vào ngày 22/12 ở Bắc bán cầu). Lễ hội Giáng Sinh được nhắc tới bắt đầu từ thế kỷ thứ IV bởi những người Cơ Ðốc. Ngoài những nghi thức của bản giáo, lễ hội còn du nhập những tập tục của người ngoại giáo như dùng nhánh cây Holly, cây Mistletoe để trang trí, khúc củi Yule đốt trong đêm và những chén rượu chúc mừng sức khỏe.

Sự tích ông già Noel

Theo một truyền thuyết, đây chính là hình ảnh của một vị Giám mục ở một vùng tuyết phủ Á châu. Ông được phong thánh nhờ giàu lòng nhân từ. Đó chính là Thánh Nicholas. Ông hay vác túi vải chứa đầy các sản phẩm và đồ chơi do chính ông làm, phân phát cho trẻ con các gia đình nghèo khó vào những ngày cuối năm lạnh lẽo.Thủy thủ Hà Lan xưa kia gọi ông Thánh Nicholas là “Sinter Klass”. Trong những chuyến trở về quê hương, họ đem câu chuyện kỳ thú về ông phổ biến khắp nơi. Từ đó, để khuyến khích trẻ con ngoan hơn, hàng năm cứ vào tháng 12, người Hà Lan lại dùng tên ông để gửi quà thưởng cho trẻ em (giả vờ như là do chính ông gửi tới).

Về sau, di dân Hà Lan đem theo truyền thuyết này qua Mỹ, nơi họ đã lập ra vùng “New Amsterdam” (thành phố “New York” ngày nay). Về sau, “ông già Noel” từ tên Hà Lan là “Sinter Klass” dần dần được gọi trại ra thành “Santa Claus”.“Santa Claus” từ Mỹ đã theo chân những người Anh hồi hương, vượt Đại Tây Dương đến với Anh Quốc. Ở đây ông được gọi là “Father Christmas”.Khi nói tới Santa Claus thì người ta nghĩ ngay tới xe trượt tuyết và những con tuần lộc (hươu tuyết) bởi đây chính là những phương tiện ông luôn dùng để đi lại, giao phát quà.Một trong những cây chuyện về “Thánh Nicholas” kể rằng “ông đã đổ vàng xuống ống khói của nhà một gia đình nghèo khó và những thỏi vàng này đã rơi lọt vào những chiếc bít-tất (vớ) đan phơi trên lò sưởi”. Từ đó mới có hình ảnh trong tâm trí trẻ thơ: ông già Noel chui xuống ống khói các nhà để phân phát quà cho trẻ con, bằng cách bỏ các phần quà vào trong những chiếc tất treo ở cuối giường hay ở bệ lò sưởi.

Cây thông Noel Không ai biết chính xác việc trang hoàng cây Giáng Sinh được bắt đầu như thế nào, nhưng có không ít truyền thuyết về nó. Một truyền thuyết kể rằng thánh Boniface, một thầy tu người Anh, người đã sáng lập ra nhà thờ đạo Cơ Ðốc ở Pháp và Ðức, một hôm trên đường hành hương tình cờ bắt gặp một nhóm những kẻ dị giáo đang tập trung quanh một cây sồi lớn. Họ dùng một đứa trẻ để tế thần. Ðể dừng buổi tế thần và cứu đứa trẻ, Boniface đã hạ gục cây sồi chỉ bằng một quả đấm! Tại nơi đó đã mọc lên một cây thông nhỏ. Vị thánh nói với những kẻ dị giáo rằng cây thông nhỏ là cây của sự sống và nó tượng trưng cho cuộc sống vĩnh hằng của Chúa cứu thế. Theo một câu chuyện khác, một lần thánh Martin Luther, người sáng lập đạo Tin Lành dạo bước qua những cánh rừng vào một đêm Noel khoảng năm 1500. Trời quang và lạnh. Hàng triệu vì sao sáng lấp lánh qua kẽ lá. Ngài thực sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của một loài cây nhỏ, trên cành cây tuyết trắng phủ đầy, lung linh dưới ánh trăng. Cảnh vật hôm đó đã làm Luther thực sự rung động. Vì thế, khi trở về ngài đã đặt một cây thông nhỏ trong nhà và kể lại câu chuyện này với trẻ con. Ðể tái tạo ánh sáng lấp lánh của muôn ngàn ánh sao, ngài đã treo nến lên cành cây thông và thắp sáng những ngọn nến ấy với lòng tôn kính ngày Chúa giáng sinh. Lại có một truyền thuyết kể rằng, vào một đêm Noel, có một người tiều phu nghèo khổ đang trên đường trở về nhà thì gặp một đứa trẻ bị lạc và sắp lả đi vì đói. Mặc dù nghèo khó nhưng người tiều phu đã chia cho đứa trẻ chút thức ăn ít ỏi của mình và che chở cho nó yên giấc qua đêm. Buổi sáng, khi thức dậy, ông nhìn thấy một cái cây đẹp lộng lẫy ngoài cửa. Hoá ra đứa trẻ đói khát tối hôm trước chính là Chúa cải trang. Chúa đã thưởng cho lòng nhân đức của người tiều phu tốt bụng bằng cây thông Giáng sinh đó. Nguồn gốc thực của cây Giáng sinh có thể gắn liền với những vở kịch thiên đường. Vào thời Trung cổ, những vở kịch giảng dạy đạo đức được biểu diễn khắp Châu Âu. Thông qua các vở kịch ấy các nhà truyền giáo truyền bá các bài Kinh thánh. Những vở kịch nói về nguồn gốc của loài người và sự dại dột của Adam và Eve ở vườn Eden thường được diễn vào ngày 24 tháng 12 hàng năm. Cây táo là một đạo cụ trong vở kịch, nhưng vì các vở kịch được diễn vào mùa đông, các loài cây đều chưa kết trái nên các diễn viên phải treo những quả táo giả lên cành cây.Phong tục cây Giáng sinh bắt đầu phổ biến ở Ðức vào thế kỷ XVI. Chẳng bao lâu sau, việc trnag hoàng cây Giáng sinh đã trở thành một phong tục ở các nước Châu Âu. Vào giữa thế kỷ XIX, hoàng tử Albert đã đưa phong tục cây Giáng sinh vào nước Anh. Khi cây Giáng sinh trở thành thời thượng ở Anh thì những gia đình giàu có đã dùng tất cả những đồ vật quý giá để trang trí cho nó. Từ Anh việc trang hoàng cây Noel trong dịp lễ Giáng sinh cũng lan rộng trên khắp các vùng thuộc địa của đế chế Anh, tới cả những vùng đất mới như Canada.Cây Giáng sinh lần đầu tiên được dân chúng ở Mỹ biết đến là vào những năm 1830. Khi hầu hết người dân Mỹ còn coi cây Giáng sinh là một điều kỳ cục thì những người Ðức nhập cư ở Pennsylvania thường trang hoàng cây Giáng sinh vào các buổi biểu diễn nhằm tăng tiền quyên góp cho nhà thờ. Vào những năm 1890 nhiều đồ trang trí bắt đầu được nhập từ Ðức vào và tục lệ về cây Giáng sinh đã trở nên phổ biến tại Canada và Mỹ. Có một sự khác biệt lớn giữa cây Giáng sinh của Châu Âu và Bắc Mỹ, cây của Châu Âu nhỏ, hiếm khi cao hơn một mét rưỡi, chỉ khoảng 4 hoặc 5 feet trong khi cây của Bắc Mỹ cao tới trần nhà.

Ngôi sao Giáng Sinh

Tương truyền, lúc Đức Chúa vừa chào đời tại Bê-lem thuộc xứ Giuđa thì trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao tỏa ánh sáng rực rỡ trải dài mấy trăm dặm.Ở các vùng phía đông xa xôi có ba vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ.Ba vị đi theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bê-lem nơi Chúa đã ra đời. Đến nơi, họ quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Người các lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.

Về sau, ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo ở chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường như một sự nhắc nhở về sự tích trên. Ngôi sao còn mang ý nghĩa tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.Bánh Bûche de Noël (Bánh khúc cây)Đây là một loại bánh được sử dụng trong dịp lễ hội Giáng sinh theo truyền thống Pháp. Chiếc bánh này thường được chuẩn bị và trang hoàng như là một khúc củi dùng để đốt trong lò sưởi. Chiếc bánh bûche truyền thống được làm từ bánh nướng xốp, cuộn lại thành hình trụ tròn sau đó được phủ kem bề mặt và xung quanh.

Theo tục lệ, trong đêm trước Giáng sinh, người ta hay chặt một khúc cây lớn và đem vào nhà để làm lễ. Khúc cây sẽ được đặt trên lò sưởi, người chủ nhà làm lễ dâng rượu bằng cách rắc lên khúc cây một ít dầu, muối, rượu nóng và đọc lên những lời cầu nguyện. Trong một vài gia đình, người con gái trẻ trong gia đình sẽ nhóm lửa đốt khúc cây bằng một ít gỗ vụn mà họ đã chuẩn bị và cất giữ từ năm trước. Ở một số gia đình khác thì người mẹ được ưu tiên thực hiện động tác này. Tương truyền rằng những bột than có từ khúc cây đã cháy này sẽ bảo vệ cho ngôi nhà khỏi thiên tai và sự xâm nhập của ma quỷ. Những chọn lựa về các loại gỗ khác nhau, cách đốt khúc cây và khoảng thời gian để làm nghi thức này thay đổi tùy theo những vùng khác nhau.Từ thế kỷ thứ XII tục lệ này được áp dụng ở hầu hết các quốc gia tại Châu âu, đặc biệt tại Pháp và Italia. Tục lệ này vẫn còn được duy trì ở đếnnhững năm cuối thế kỷ 19. Sau đó nó dần biến mất khi những lò sưởi đá lớn được thay thế bởi những lò sưởi hiện đại bằng kim loại. Những khúc cây lớn được thay thế bởi những khúc cây nhỏ hơn, được trang trí xung quanh bằng những ngọn nến và cây cỏ, đặt giữa bàn như là một vật trang trí.Ngày nay, bánh khúc cây Giáng sinh đã trở thành một món bánh ngọt truyền thống, được phủ bởi kem cà phê hoặc sô-cô-la và trang trí đẹp mắt.

Theo Webtretho

Kể Lại Câu Chuyện Bếp Lửa Với Vai Người Cháu Ở Phương Xa

Kể lại câu chuyện Bếp Lửa với vai người cháu ở phương xa

Mở bài:

Nhận được thư nhà tôi vui sướng vô cùng. Ngồi bên lò sưởi, giở đọc bức thư, lòng tôi lại nhớ đến quê hương tha thiết. Mùa đông châu Âu giá rét căm căm. Căn lò sưởi lửa cháy bừng bừng nhưng vẫn không đủ ấm. Ánh sáng chói gắt và hơi ấm phả vào mặt khiến tôi chợt nhớ về bếp lửa hắt hui và hình bóng bà tôi năm xưa. Nỗi nhớ ngập tràn chiếm lĩnh hồn tôi, bâng khuân đến lạ. Hình ảnh bếp lửa hiu hắt, chờn vờn trong sương sớm và người bà hiền hậu, tảo tần sớm hôm hiện về trong trí nhớ xa mờ.

Thân bài:

Tôi sinh ra giữa thời đói khổ cùng cực. Chính sách bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp khiến cho đất nước kiệt quệ, người nông dân khốn khổ không sao kể xiết. Đất nước rơi vào bóng tối của cuộc khủng hoảng. Cuộc sống trở nên bế tắc. Một cảnh sống bức bối, ngột ngạt phủ khắp mặt đất.

Tôi không còn nhớ rõ tôi đã lớn lên như thế nào. Kí ức xa xăm và rõ ràng nhất là năm tôi lên bốn tuổi. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi. Hết thiên tai, hạn hán lại đến đại dịch, sản xuất liên tục bị mất mùa, thất thu. Cái đói như bóng ma lạnh lùng len lỏi trong mọi gia đình. Đâu đó xung quanh, thỉnh thoảng vẳng nghe tiếng khóc tiễn người đi. Khói rấm um lên khắp cả làng, phủ trùm một không khí thương tang.

Bố đi đánh xe khô rạc cả ngựa gầy. Có khi bố đi nhiều ngày mới về. Còn mẹ tảo tần trên đồng dưới ruộng, sớm đi tối về để lo cuộc sống mưu sinh. Bà tôi tuổi già sức yếu ở nhà chăm nom tôi. Quẩn quanh chỉ có tôi và bà. Bà đi đâu tôi theo đấy. Bà làm gì, tôi cũng đứng cạnh. Tôi sợ hãi với những thứ có ở xung quanh. Bởi nó điêu tàn và im lặng đáng sợ.

Nhớ nhất là những lần cùng bà nhóm lửa, những làn cùng bà ngồi bên bếp lửa ấm. Khói bếp cuộn cay xè cả hai con mắt, cứ chớp lia lịa, rồi thở, nước mắt, nước mũi ròng ròng chảy. Cho đến bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn còn thấy cay cay trên sống mũi.

Không chịu được kiếp đời nô lệ lầm than, sớm giác ngộ lí tưởng Cách mạng, bố mẹ tôi thoát li đi kháng chiến, quyết chiến đấu tiêu diệt kẻ thù giành lại đất nước. Ở nhà vẫn chỉ còn lại tôi và bà tôi. Bao nhiêu năm thức dậy cùng bà là bấy nhiêu yêu thương, thấu hiểu. Hết mùa hạ, đến mùa thu, rồi đông tới, xuân sang, thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Đằng đẵng bao năm bố mẹ không ở nhà. Tôi cũng dần lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của bà.

Tôi thương bà tảo tần khổ nhọc, bàn tay làm lụng không khi nào ngơi nghỉ. Việc đồng, việc nhà đều do một tay bà lo liệu cả. Mỗi sớm bà thức dậy, tôi cũng dậy theo bà. Bà nhóm lửa, tôi ngồi cạnh xem. Rồi tôi phụ bà nhóm bếp để bà đi vo gạo.

Ôi! Có giúp bà nhóm bếp mới thương bà cam chịu khổ nhọc đắng cay. Mùa khô nhóm lửa không khó. Nhưng vào mùa mưa và mùa đông lạnh thì đó là một việc làm kì công. Cái cúi rơm ẩm ướt thổi mãi mà không chịu cháy, cứ khói um lên mịt mù. Càng thổi mạnh, càng khói dữ hơn. Cái cúi rơm cứ lầm lì, bướng bỉnh và đáng ghét ấy. Nhiều lúc bực quá, tôi dập cho nó tắt rồi mồi lửa lại. Bà nhìn và cười bảo để bà nhóm cho.

Bố mẹ công tác không về được. Thỉnh thoảng, tôi thấy có người đến nhắn gửi cái gì đó. Biết là bố mẹ nhắn lời hỏi thăm. Bà tôi cũng dặn gửi mấy lời. Thương bà, tôi cũng ngoan lắm, luôn nghe lời bà và không nghịch ngợm bao giờ. Bà thường dạy tôi làm mọi việc, bảo rằng sau này lớn len còn biết mà làm. Bà tuổi già sức yếu, không biết sống được bao lâu, bố mẹ lại ở xa, cuộc chiến chưa biết khi nào kết thúc. Mỗi khi nhắc đến điều đó, khóe mắt bà rưng rưng muốn khóc.

Bà còn dạy tôi học. Bà nào biết chữ nên cũng không thể dạy tôi viết chữ. Bà dạy tôi đạo lí ở đời qua những câu chuyện kể. Có lẽ, cố tôi ngày xưa đã dạy bà những điều đó. Bà thuộc trong lòng và dạy lại cho cháu con. Mãi sau này, các anh chị quân giải phóng về làng và dạy tôi viết chữ, tôi mới biết viết, biết đọc.

Đêm đêm, bà ôm tôi vào lòng, kể chuyện cho tôi nghe. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. Rồi những chuyện ngày xửa, ngày xưa… Những câu chuyện cổ tích kì diệu đưa tôi vào thế giới thần tiên, có cái thiện và cái ác. Những câu chuyện ngụ ngôn nhắc nhở tôi phải biết sống tốt đẹp, thảo hiền. Ôi, những năm tháng thần tiên có bà là những tháng năm đầy mơ mộng và niềm vui. Tôi ước có một thần tiên nào đó đến đây ban cho bà thật nhiều điều ước. Và tôi chỉ ước là làm sao đất nước thái bình, để cho đời bà bớt khổ là tôi an lòng rồi.

Thế nhưng, đó chỉ là mơ ước thôi. Cuộc đời bà vẫn còn nhiều kham khổ. Mỗi buổi trưa hè, cái nắng hừng hực đốt lửa trên những cánh đồng khô khốc, trơ trọi, tiếng tu hú kêu khan khiến tôi không khỏi nao lòng. Tiếng tu hú khắc khoải u buồn vang lên từng nhịp. Mùa này tu hú kêu có cái gì đó khác lạ. Có phải vì đói quá mà lang thang tìm đến chốn này chăng?

Tiếng tu hú ảo não vọng về từ những lùm cây bụi rậm trên cánh đồng xa vật vờ đáng sợ. Tiếng tu hú vang lên trong buổi chiều tắt nắng, trên nghĩa địa tiêu ma mỗi khi có người chết vừa chôn cất. Âm thanh ấy ám ảnh trong tôi như một kí ức không thể phai mờ. Phải chăng nó cũng đang tìm một chỗ trú ngụ nhưng chưa tìm thấy? Nhiều lúc, tôi nghĩ sao nó chẳng đến ở cùng bà, kêu quanh vườn bà cho bớt cô đơn.

Thắm thoắt thời gian trôi đi. Cuộc chiến ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù tràn đến làng. Đi đến đâu chúng cướp sạch, đốt sạch đến đó. Không những cướp của con người nguồn sống, chúng còn muốn hủy diệt luôn nguồn sống của con người. Chúng là ác quỷ. Chúng không có trái tim. Bởi thế, chúng cũng không có lòng thương xót. Chúng hung hăng và cuồng bạo tràn đến gieo rắc tai họa.

Năm ấy, cả ngôi làng yên bình bỗng rực sáng. Mọi nóc nhà bao năm kiên cường trước mưa bão đều hóa thành tro. Công sức mấy mươi năm gây dựng của con người phút chốc trở thành cát bụi. Sau cuộc khủng bố ấy, mọi người trở về làng. Không đầu hàng, họ lại quyết tâm làm lại, quyết tâm gây dựng cuộc sống mới. Kẻ thù có tàn bạo, có hủy diệt bao lần đi chăng nữa cũng không thể khuất phục được họ. Bếp lửa tắt rồi lại cháy lên tin tưởng và mạnh mẽ.

Bà con xung quanh lại giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh trên nền đất cũ. Lúc chạy giặc chẳng mang theo được thứ gì. Bà lại tay đan thúng, tay dựng lều, sửa lại cái kiềng cho thẳng, kê lại mấy cái kệ ngồi. Một không gian ấp lại hiện lên. Bếp lửa đêm ấy lại sáng. Hai bà cháu trông chờ nồi cháo chín. Một nỗi lo âu đeo đẳng trong lòng, không biết ròi mai nay sẽ ra sao?

Tuy khổ nhọc đến thế nhưng bà vẫn vững lòng, đinh ninh dặn dò tôi tha thiết rằng có viết thư cho bố thì chớ có kể chuyện nhà. Cứ bảo là nhà mình vẫn bình an, bà vẫn mạnh khỏe. Ôi, đến lúc này mà bà vẫn nghĩ cho đất nước. Dù có đâu khổ đến thế nào bà vẫn một lòng nghĩ về cuộc chiến đấu. Kẻ thù càng hung bạo thì lòng căm thù và quyết tâm đánh thắng kẻ thù trong bà càng lớn. Tôi thấu hiểu lòng bà nên “dạ” một tiếng thật rõ to.

Rồi sớm rồi chiều, bếp lửa từ đôi tay bà bừng cháy lên. Một ngọn lửa từ trong lòng bà luôn ủ sẵn. Nó cháy lên mọi lúc. Nó dai dẳng cháy mãi như niềm tin bất diệt của bà. Bà đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, đốt lên trong tôi một ngọn lửa ấm áp. Đó là ngọn lửa yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng đến tương lai.

Chiến tranh đi qua. Hòa bình lại đến. Niềm tin tưởng của bà đã được đền đáp. Bố mẹ tôi trở về quê hương. Ngày đoàn tụ xúc động vô cùng. Dù đã cố giấu đi giọt nước mắt hạnh phúc nhưng khóe mắt bà cứ rưng rưng. Bà lại đi nhóm lửa, nấu một cái gì đó để đãi cả nhà, ăn mừng ngày vui.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa, kham khổ đã nhiều, đau thương cũng không ít. Vậy mà mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lên bếp lửa nồng ấm yêu thương. Đâu phải tuổi già mất ngủ. Ấy là do bà muốn giữ ấm quá khứ đau thương mà nghĩa tình đấy thôi. Bà muốn được tận tay bà nhóm lên những niềm vui, làm nên những bữa khoai sắn ngọt bùi, cùng xóm láng giềng gần chung vui lúa mới để nhắc nhở về những tháng ngày lầm lụi xưa kia mà thêm trân trọng và mến yêu.

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Nó kì lạ bởi không bao giờ tắt. Có tắt đi rồi lại mạnh mẽ cháy lên. Nó cháy lên trong cả những tháng ngày mưa bão hay giá rét. Nó lại cháy sau mỗi lần kẻ thù đến và cố hủy dệt nó. Từ đôi bàn tay cằn cõi của bà lại làm cháy lên ngọn lửa ấm diệu kì. Thiêng liêng là bởi nó gắn chặt với hình bóng và tình cảm nồng ấm của bà tôi đã dành cho tôi tất cả.

Giờ tôi đã đi xa, cách tổ quốc trăm núi nghìn sông. Cuộc sống lầm than, đói khổ đã qua rồi. Cuộc sống mới hân hoan khắp mọi nơi. Thế nhưng, chẳng bao giờ tôi thôi nhớ về bếp lửa quê hương và người bà hiền hậu; chẳng bao giờ tôi quên nhắc nhở về bổn phận và trách nhiệm của tôi đối với bà tôi, đối với quê hương, đất nước tôi.

Kết bài:

Cha ông ta đã sống kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng này. Trách nhiệm của thế hệ chúng tôi hôm nay là bảo vệ thành quả lớn lao ấy và làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Tôi dặn lòng mình nhớ lấy điều ấy và tiếp tục truyền ngọn lửa kì lạ và thiêng liêng ấy đến với mọi thế hệ mai sau.

Nghe Kể Chuyện Cổ Tích

Ngày xưa có một ông vua và một bà hoàng hậu ngày nào cũng nói: “Ước gì mình có đứa con!” mà mãi vẫn không có. Một hôm hoàng hậu đang tắm thì có con ếch ở dưới nước nhảy lên nói:

– Điều bà mong ước bấy lâu sẽ thành sự thực. Hết năm nay bà sẽ sinh con gái.

Lời ếch tiên tri quả đúng thật. Hoàng hậu sinh con gái đẹp tuyệt trần.Vua thích lắm, mở hội lớn ăn mừng. Vua mời họ hàng thân thuộc, bạn bè, lại mời cả các bà mụ đến để họ tận tâm chăm sóc, thương yêu con mình.

Trong nước có mười ba bà mụ. Nhưng vua chỉ có mười hai cái đĩa vàng để mời ăn, do đó mời thiếu một bà. Hội hè linh đình. Lúc tiệc sắp tàn, các bà mụ niệm chú mừng đứa bé những điều kỳ lạ: bà đầu chúc đức hạnh, bà thứ hai chúc sắc đẹp, bà thứ ba của cải… cứ như vậy chúc tất cả các điều có thể mơ ước được ở trần gian. Mười một bà vừa dứt lời chúc tụng thì bỗng bà mụ thứ mười ba bước vào. Bà muốn trả thù vì không được mời dự tiệc. Bà xăm xăm bước thẳng vào chẳng thèm nhìn ai, chào ai. Bà hét lên:

– Công chúa đến năm mười lăm tuổi sẽ bị mũi quay sợi đâm phải mà chết.

Rồi bà chẳng nói thêm nửa lời, bỏ đi. Mọi người chưa hết kinh ngạc thì bà thứ mười hai bước lên. Bà tuy chưa niệm chú chúc tụng nhưng cũng không giải được lời chú độc, mà chỉ làm nhẹ đi được thôi. Bà nói:

– Công chúa sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc dài trăm năm thôi.

Vua muốn tránh cho con khỏi bị nạn ra lệnh cấm kéo sợi trong cả nước. Tất cả những lời chúc của các bà mụ đều thành sự thực: công chúa đẹp, đức hạnh, nhã nhặn, thông minh, ai thấy cũng phải yêu.

Năm ấy, công chúa vừa đúng mười lăm tuổi. Một hôm, vua và hoàng hậu đi vắng, nàng ở nhà một mình. Nàng đi khắp cung điện để xem tất cả các buồng, thích đâu tạt vào đó. Sau cùng nàng tới một lầu cao. Nàng trèo lên chiếc thang xoáy ốc chật hẹp, tới một cửa nhỏ. Ổ khóa có cắm một chiếc chìa đã gỉ, nàng cầm chìa quay thì cửa mở tung ra. Trong buồng có một bà già ngồi trên tấm ghế nhỏ đang chăm chú kéo sợi…

Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyện Kể Về Người Mẹ trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!