Xu Hướng 12/2023 # Chùm Thơ Viết Cho Quảng Ninh – Vũ Đan Thành # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Chùm Thơ Viết Cho Quảng Ninh – Vũ Đan Thành được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

(Vịnh Hạ Long – Ảnh st)

1. Vịnh Hạ Long

Vũ Đan Thành

Hạ Long cảnh đẹp xiêu hồn

Rồng tiên lạc bước chập chờn biển mơ

Tuyệt vời hơn những bài thơ

Thiên nhiên kỳ ảo mộng mơ ngọc ngà.

Sao không đẹp bởi lụa là

Để thơ chắp cánh cho tà áo bay

Hạ Long biển biếc bấy nay

Dập dờn sóng vỗ gió lay ngát tình.

Kìa trông cây ngả nghiêng mình

Muôn hình vạn trạng bức hình điểm tô

Mây trời non nước nhấp nhô

Xanh xanh mỏm núi lô xô uốn mình.

Hang Sửng Sốt chốn thiên đình

Lung linh thạch nhũ tạc hình thiên thai

Bồ Nâu, Trinh Nữ cả hai

Thiên Cung, Đầu Gỗ lâu đài là đây. (1)

Đi qua Bãi Cháy mùa này

Thấy con sóng vỗ đêm ngày miên ma

Cảnh tiên tạo hóa trời ban

(1) Tên các hang động nổi tiếng ở Vịnh Hạ Long

2. Đất Quảng Ninh

Vũ Đan Thành

Đất Quảng Ninh màu than đen óng

Như cục nam châm hút bao ngả cuộc đời

Người từ Thái Bình đến sinh cơ lập nghiệp

Những bác quê Nam Hà đến đây từ độ bốn lăm

Bố tôi gửi gần ba mươi năm đằng đẵng

Một mình kiếm kế sinh nhai…

Đất Hải Dương quê tôi đồng chua nước đọng

Cả hai vụ chiêm mùa sao nuôi nổi một đàn con

Mẹ tôi ở nhà với mấy gian nhà gianh dột nát

Một mình bảy đứa con và mâm cơm đầy củ sắn củ khoai

Để cha đi biền biệt Quảng Ninh… .

Đàn con nhỏ có đứa không nhớ nổi cha

Nhiều khi còn ôm chầm người lạ

Thường mỗi năm bố về phép một lần

Đưa cho mẹ chút tiền dành dụm cả năm.

Mấy anh chị em

Lớn bảo bé để mẹ phải ra đồng

Cuộc sống cứ như vậy hàng chục năm dòng

Anh cả lớn lên rồi đi bộ đội

Các chị dần cũng lần lượt lấy chồng. .

Có chị ngày cưới chồng bố cũng không về được

Cái hồi vẫn còn bom rơi đạn lạc

Bố cứ cặm cụi một mình nơi xứ lạ vùng than

Đất Cẩm Phả, phố Minh Khai ngày đó

Màu than đen chạy dài khắp các nẻo phố xa.

Tôi nhớ hồi chừng hơn bẩy tuổi

Mẹ đưa tôi lên đó rồi về

Tôi ở lại trong một căn phòng nhỏ

Nền nhà đen như màu than kíp lê

Bố thường đi làm ca đêm và trở về sáng sớm

Trước khi loa phát thanh đầu phố vang lên. .

Buổi sáng đó không thấy bố về như mọi bận

Một đứa trẻ là tôi đã lần đầu lo lắng

Mãi tới trưa không thấy bố về

Tôi đã dò đường lên mỏ than Thống Nhất

Vừa đi vừa hỏi khách đi qua. .

Đêm hôm trước hình như mưa to lắm

Trên một đoạn đường dài đầy vũng nước mưa

Có lẽ là con đường dài nhất trong đời tôi đã trải

Để gặp bố tôi đang trong cơn sốt nặng mê man.

Tôi còn nhớ đường vào mỏ than

Ngày đó…

Mùi khói than nồng nàn từ khe đá bốc lên

Cả một kỳ hè tôi đã ngủ một mình chờ trời sáng

Đất Quảng Ninh trong tôi còn in đậm màu than.

    Đất Quảng Ninh bão lụt

    Vũ Đan Thành

    Đất Quảng Ninh đang gồng mình trong bão lũ

    Bài thơ tình tôi tạm gác một bên

    Tôi đang nghe

    Những tin vừa bay đến…

    Những căn nhà đổ ụp trong mưa

    Gần hai chục con người đã phải từ giã chia lìa

    Tám mạng người

    Trong một gia đình vừa yên nghỉ. .

    Những con người đang dầm mình gánh tóc tang

    Những phố phường những làng mạc những mỏ than

    Khu Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Vàng Danh, Uông Bí…

    Phường Cao Thắng, phố Minh Khai xưa tôi đã từng ở đó. .

    Những cái tên Thống Nhất, Hà Lầm, Cọc Sáu vẫn thường qua

    Ngày hôm nay vẫn nhấp nhô những căn nhà

    Màu của than đã hòa vào đặc quánh

    Những con người đất Quảng gian nan.

    Cha tôi từng lập nghiệp tại vùng than

    Hơn hai mươi năm trời có lẻ

    Trong nhịp đập của tôi ngày thơ bé

    Có những cơn sóng trào từ một vùng đất mỏ Quảng Ninh.

    Một trận mưa ngập lụt đến kinh hoàng

    Hiện vẫn đang chờ cơn mưa tạnh dứt

    Ở đâu đó bao trái tim đập trong lồng ngực

    Đang hướng về đất Quảng thân yêu…

    (Viết trong đợt mưa lụt lịch sử cuối tháng 7 năm 2023 tại Quảng Ninh)

    4. Con đường cao tốc Vân Đồn

    Vũ Đan Thành .

    Con đường cao tốc Vân Đồn

    Dạo này thiên hạ lồm xồm lắm nha

    Vay ba trăm triệu đô la

    Vân Đồn – Móng Cái người ta luận bàn. .

    Huyện nghèo sóng biển vỗ tràn

    Tài nguyên chả thấy thấy đàn chim bay

    Ai từng qua đó mới hay

    Làm ngay cao tốc tiền vay anh Tàu. .

    Các quan trí tuệ thâm sâu

    Con đường nô dịch ngấm lâu mất rồi

    Ai ơi ra đó mà bơi

    Để nghe tiếng sóng chơi vơi dập dồn.

    Ai ra ngắm biển Vân Đồn

    Có chăng cô gái ngửa sườn ra phơi

    Con đường dẫn đến ăn chơi

    Con đường nối giáo xứ người xứ ta… .

    Quan san vạn dặm sơn hà

    Bốn phương kẻ mạnh làm cha kẻ mù… . 5. Phố biển Hạ Long Vũ Đan Thành Thành phố không còn màu than rơi rắc đầy trên lối Nhà Bảo tàng màu đen nhánh đứng nghiêm trang Cuộc đời người làm than Còn lưu hình trong đó Phố Hạ Long sóng biển vỗ rầm rì.Những con thuyền đêm đêm đi xa biển Ban sáng bồng bềnh Phía chân núi sóng dịu êm Phố biển đêm in hình xa xa bóng núi Cầu Vân Đồn lối này đi lên Móng Cái, Cửa Ông.

    Thành phố biển Hạ Long Con sóng hát ru tình Có ngọn núi biết làm thơ hay lắm Núi Bài Thơ sao sao nghe êm êm lãng mạn đến dịu dàng Là khi anh nắm tay em và nhìn vào đôi mắt.

    Đêm con phố chập chờn lung linh đèm mầu ánh điện Cáp treo dừng lơ lửng mảnh trăng gày Những dãy phố gam màu còn tươi rói Mái màu như ngói đỏ lô xô Đêm Hạ Long đẹp đến không thể hững hờ.

    Những đường nét hình hài cong cong cách điệu Những con đường vòng vòng qua những đồi thông Tôi đi qua đây những ngày hè tháng sáu Biển mênh mông Nắng không quá đỗi nồng nàn và gay gắt.

    Mưa vừa rơi ngắt từng đoạn đêm qua Phố biển nào đâu quá xa hoa Những con người vùng than một thời gian khó Đi trong đêm bên rặng dừa lộng gió Phố biển bồng bềnh Tôi đã gặp nơi đó Hạ Long…

    . 6. Cái cổng lờ Quảng Ninh

    Vũ Đan Thành .

    Có thể mình dân trí Vẫn còn hơi cào cào Gu thẩm mỹ không cao Nên nhức đầu chưa hiểu.

    Biết đâu như cái miếu Ban đầu chẳng có thiêng Sau khéo đắp vây rồng Thiên hạ bàn nhòm ngó.

    Tháp Effell thế đó Kim Tự Tháp cồng kềnh Cả Vạn Lý Trường Thành Mới đầu đâu có đẹp.

    Từ câu chuyện bép xép Mọi người cùng tui đây Lâu chóng có bấy chầy Lại loang đi khắp chốn.

    Cái cổng kia thêm hồn Đống sắt kia mọc cánh Bay lên lưng trời xanh Quảng Ninh thành nổi tiếng.

    Quan sống khôn chết thiêng Về cắt băng chứng giám… .

    7. Thành phố và cơn mưa cuối hạ Vũ Đan Thành

    Thành phố Hạ Long sáng nay cuối mùa hạ cuối Cơn mưa đầm đẫm mưa rơi Bãi Cháy mùa này Du khách cũng đã vơi.

    Biển lưa thưa từng cơn sóng vỗ Thành phố lạ khác quá nhiều một thuở Bãi cát chạy dài Và hàng phi lao gió hoang phiêu Núi Bài Thơ nằm xa tít trong mơ.

    Những dãy nhà Đã lấp đầy xưa mờ cát trắng

    Giờ chỉ còn là bãi biển nhân tạo lạ lẫm những bước chân Cáp treo nghỉ giữa cơn mưa đang treo lơ lửng.

    Khu vui chơi Sun World uốn lượn bóng rồng bay Nét điêu khắc trập trùng giả cổ Mái ngói lô nhô tựa như miền Hội An pha trộn lẫn nét xô bồ (Đêm qua hắt những ánh đèn mờ cạnh đài phun nước tràn ngập những sắc hoa).

    Phố công viên hiện đại vẻ hào hoa Những trò chơi đắt tiền hôm nay ngừng – ngơi nghỉ Nhìn thành phố như một khu đô thị Quán hàng giăng Phố thị giăng ngang.

    Dưới cơn mưa suốt đêm qua Vẫn còn lãng đãng giăng màn Những nhà cao tầng đã ngập tràn từng xưa kia khoảng trống Những con đường, những phố phường như xa lạ Chẳng quen.

    Cả khi những đêm Thành phố đã lên đèn Cả những ngày giữa tuần cũng vậy Bãi Cháy, Hạ Long như xa lạ chẳng thân quen.

    Chỉ còn cơn mưa sáng nay cuối mùa hạ cuối Còn như thấy những ngày xưa nơi ấy Chỉ còn thấy cơn mưa vẫn cũ Là không lạ lẫm cùng tôi… (31 – 7 – 2023)

    8. Biển cồn cào sóng vỗ

    Vũ Đan Thành

    Biết là biển vẫn còn mơ

    Thế nên sóng mãi lửng lơ dập dờn

    Những khi từng lúc bồn chồn

    Sóng anh sao cứ xô cồn cào thôi

    Biển trào dâng ngập chơi vơi

    Là khi em phía xa xôi xa vời

    Biển làm tiếng sóng thay lời

    Nói yêu nhau vẫn rối bời lời yêu. .

    Sóng xanh chẳng biết mỹ miều

    Chỉ xô bờ cát liêu xiêu mãi hoài

    Có bao giờ sóng mệt nhoài

    Có bao giờ sóng nhớ ai thế này. .

    Biển là biển biếc chiều nay

    Cơn mưa cứ muốn gợn bay thử lòng

    Cồn cào từng đợt nhớ mong

    Vỗ về em đó mênh mông bến bờ…

    . 9. Bãi Cháy

    Vũ Đan Thành

    Gần chục năm trời quay lại

    Nhận ra được mỗi cơn mưa

    Bãi xưa ngập tràn đô thị

    Trảng dài cát trắng còn đâu.

    Chỉ còn cơn mưa là cũ

    Biển kia sóng đã bạc đầu

    Những ngả đường ven đồi vắng

    Nhà cao tầng vút lên cao. .

    Một vùng bãi biển nao nao

    Ngả dài gọi tên Bãi Cháy

    Ngày xưa cát trắng mê hồn

    Biển giờ đã thành chật chội. .

    Mường Thanh, Sunshine, Vingroup

    FLC – hàng ngang biệt thự

    Làm cho biển hóa hoang tàn

    Không còn con sò, nghêu, ốc. .

    Con ngao, con ngán trốn đâu

    Nước xanh dù vẫn một màu

    Dưới chân biển là nhân tạo

    Hàng dừa gầy guộc leo teo.

    Biển xưa chập chờn trắng xóa

    Giờ bê tông hóa tầng cao

    Ánh đèn đêm đêm chói lóa

    Khơi xa vật vã từng hồi.

    Bước chân con đường chật chội

    Chẳng còn tiếng sóng xôn xao

    Đu quay, cáp treo, tàu lượn

    Vui chơi náo nhiệt quay cuồng.

    Nếu một ngày rồi biển động

    Những con sóng cả… rùng mình…

    (Bãi Cháy – một bãi tắm nổi tiếng bên bờ Vịnh Hạ Long đã thay đổi thành một khu vui chơi khá sầm uất giờ đây)

    Cùng chia sẻ bài viết này

    Facebook

    Chùm Thơ Viết Về Quảng Ninh Hay, Thơ Ngắn Ca Ngợi Quảng Ninh Quê Hương

    QUẢNG NINH QUÊ TÔI – Thơ: Lệ Thủy

    Mời một lần bạn đến thăm quê tôiTỉnh Quảng Ninh nơi địa đầu Tổ quốc Dọc hành trình dài theo chều đất nước Đến tận cùng đầu chữ S thân yêu!

    Quê hương mình biển đẹp lắm bạn ơi! Vịnh Hạ Long một kỳ quan thế giới Nước xanh trong dập dờn nghìn đảo biếc Lớn nhỏ quây quần tạo thế đứng rồng bay!

    Đất mỏ quê mình vọng tiếng than reo Từ lòng đất nguồn vàng đen vô tận Bến cảng rộn ràng, tàu bè xuôi ngược Tiếng còi tằm náo nức giục vào ca!

    Người quê mình yêu lắm mỗi địa danh Bạch Đằng Giang đã bao lần dậy sóng Cửa ải Vân Đồn vùi thây bao xác giặc Vẫn mượt mà như câu hát dân ca!

    Đến quê mình cuộc sống thật bình yên Khi dừng chân ngồi thiền nơi cõi Phật Đỉnh non thiêng phù vân Yên Tử Giữa mây ngàn thông, trúc ngát màu xanh…

    Về quê mình bạn sẽ thấy đắm say Hình đất nước bốn mùa thu nhỏ lại Nơi cảm hứng của thi, ca, nhạc, hoạ Mãi mãi thăng hoa, da diết đến tận cùng…

    Đến đây rồi… Bạn chẳng muốn dời chân!!!

    QUẢNG NINH CÓ CÒN EM – Thơ: Nguyễn Nhật

    Vùng đất mỏ chiều nay tôi trở lại Vẫn Hạ Long con sóng hát đêm ngày Em gái nhỏ về đâu ta kiếm mãi Gió biển làm đôi mắt chợt cay cay

    Về đất Phật linh thiêng Yên Tử ấy Gửi hồn mình nhẹ bước cõi hư vô Mong dập lửa tình đau âm ỉ cháy Để tâm an giữa cuộc sống xô bồ

    Đêm lắng tiếng ì ầm con nước vỗ Giữa tỉnh mê ta chợt thấy bàng hoàng Sông xanh ấy ngỡ như vừa thắm đỏ Bởi ba lần dậy sóng Bạch Đằng Giang

    Trong giấc mộng người xưa về thấp thoáng Vẫn thướt tha trong dáng dấp trang đài Miền hư ảo níu ta vào dĩ vãng Quảng Ninh còn giữ lại bóng hình ai?

    MỜI BẠN ĐẾN VỚI QUẢNG NINH – Thơ: Bằng Lăng Tím

    Mời bạn đến Quảng Ninh tươi đẹp Biển bao la… đất thép thành đồng Sử vàng ghi những chiến công Quảng trường lịch sử nắng hồng chiều vương

    Cầu nối nhịp con đường gần lại Ta cùng về thăm bãi cát mơ Tuần Châu chờ đón từng giờ Bạn về ngắm cảnh nên thơ tuyệt vời

    Hoàng bôn ngả nắng rơi đáy nước Từng đoàn thuyền xuôi ngược vui sao Cá tôm hải sản ngọt ngào Tình người đất Mỏ ta trao ấm nồng

    Đây cửa Lục nơi sông gặp biển Đêm ngàn sao ẩn hiện cuối trời Từng đàn cá mực nhẹ bơi Ánh trăng soi sáng ta ngồi cắm câu

    Quảng Ninh đẹp lại giầu bạn hỡi Than vừa ra đang đợi xuất hàng Còi tàu hú gọi ngân vang Những cô thợ trẻ dịu dàng áo xanh.

    BẠN ƠI VỀ VỚI QUẢNG NINH – Thơ: Mai Yên

    Bạn ơi về với Quảng Ninh Dừng chân ngắm cổng tỉnh mình nguy nga Sừng sững, lộng lẫy, kiêu sa Hiên ngang hoành tráng chở ta tháng ngày

    Ai về lòng thiết tha đầyQuảng Ninh nay đã đổi thay từng giờ Hạ Long cảnh đẹp lên thơ Vàng đen vùng mỏ… Vui mùa khắp nơi

    Đồng quê tiếng máy reo vui Yên tử lễ hội đông vui rộn ràng Phố phường điện sáng … phong quang Theo lời đảng, Bác… huy hoàng tương lai

    Cổng cao vươn đẹp trang đài Ẩn trong sâu lắng tình người, tình quê Ai đi ,ai đến ,ai về Đem theo hồn cổng… miền quê Đông Triều…

    VỀ QUẢNG NINH – Thơ: Duyên Nguyễn

    Ai đã từng ngắm Hạ Long về đêm Đảo lớn nhỏ mặt nước êm nhẹ sóng Ở nơi đó có rất nhiều hang động Như Thiên Cung, Trinh Nữ rất tuyệt vời

    Một bức tranh nhìn đẹp lắm người ơi Hang Sững Sốt, động Tam Cung, Đầu Gỗ Trời ban tặng một địa danh đồ sộ Thế gian này chỉ có ở đây thôi

    Bãi Cháy kia sát bờ Vịnh được bồi Nửa ngàn mét ..rộng thời hơn trăm thước Nguyên Mông đó..Trương Văn Hồ xâm lược Trần Khánh Dư đuổi đốt hết tàu thuyền

    Xã Yên Công Uông Bí một khuôn viên Núi Yên Tử nhiều chùa chiền di tích Sương bao phủ màn đêm rất tĩnh mịch Ngọn Bạch Vân nơi ấy có Chùa Đồng

    Vùng Tuần Châu phía Tây Nam Hạ Long Đảo đất rộng duy nhất lưu phiến thạch Thảm cát trắng mịn ..nước trong xanh ngắt Rừng thông reo đàn chim hát vẫy chào

    VỀ VỚI QUẢNG NINH – Thơ: Tạ Thăng Hùng

    Anh về thăm thành phố biển mùa thuQuảng Ninh quê em mùa này đẹp quá Hạ Long ơi biển trời xanh êm ả Thăm thẳm trăng thanh gió hát ngọt ngào.

    Thị xã Hòn Gai nỗi nhớ cồn cào Nay trở lại ngẩn ngơ cầu Bãi Cháy Lòng tha thiết muốn cùng em ở lại Ngắm mùa thu rơi xuống những con tàu.

    Những mẻ than đầu hối hả về đâu Mà bến cảng xôn xao tàu qua lại Khi nắng sớm bình minh vừa thức dậy Hạ Long xanh tàu cá rủ nhau về.

    Bãi Cháy, Tuần Châu du khách mải mê Tận hưởng mùa thu nồng nàn gió biển Thăm thắng cảnh Vịnh Hạ Long nổi tiếng Trên con tàu rẻ sóng trắng lao xao.

    Đêm mọc lên trên biển những vì sao Là tàu anh, là tàu em rực sáng Đi bên nhau giữa biển trời bát ngát Thả tâm hồn nghe câu hát quê hương.

    Muốn ở thật lâu thăm đảo thân thương Thăm Cẩm Phả, Quảng Yên và Móng Cái Thăm Hoành Bồ một thời ta ở lại Với màu xanh áo bộ đội năm nào.

    Mỗi lần về lòng cứ thấy nao nao Quảng Ninh ơi, Quảng Ninh thơ mộng quá Mùa thu đến biển chiều rơi rụng lá Níu bước chân du khách chẳng muốn về…

    Chiều nay tôi ghé Quảng Ninh Đi xem phong cảnh hữu tình nơi đây Ba Vàng quện dưới trời mây Vãng lai cầu nguyện những ngày cuối thu.

    MIỀN QUÊ QUYẾN RŨ – Thơ: Phạm Quang Tuấn

    Quảng Ninh giàu đẹp, nghĩa tình Trai thì hào phóng, gái xinh miễn bàn Đã yêu thì rất nồng nàn Đã chơi thì khó ai can…hết tầm

    Quảng Ninh người rất thật tâm Trước sau như một, rộng lòng, chỉnh chu Ghét ai thì cũng chẳng thù Quý ai dẫu phải… vay Bu cũng chiều

    Quảng Ninh nổi tiếng lãng phiêu Tâm hồn nghệ sĩ, rất nhiều tài hoa Bắc- Nam rạng tiếng danh ca Đến đâu cũng được mặn mà đón chân

    Quảng Ninh được tiếng là dân Thông minh, tài giỏi, canh tân, dám làm Dẫn đầu cải cách Việt Nam Đàn ông mạnh mẽ, đảm đang

    Quảng Ninh ai đã ghé qua Luyến lưu chẳng muốn dời xa ra về Đàn bà ước được làm thê Đàn ông dẫu bắt làm hề cũng vui

    Quảng Ninh mảnh đất quê tôi Ai chưa ghé đến phí đời thanh xuân Dẫu đi khắp chốn tiên trần Chẳng bằng một phút được gần Quảng Ninh.

    KỲ QUAN NƠI QUẢNG NINH Thơ: Phạm Quang Tuấn

    “Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”

    “Ao nhà” hùng vĩ núi non Cỏ hoa ôm ấp, mây vờn nên thơ Ao nhà gương biếc thiên thu Dạt dào sóng hát hời ru đắm lòng

    Ao nhà thẳm nước xanh trong Hoàng hôn sóng sánh ánh vàng nắng soi Ao nhà sương trắng buông lơi Mây trôi ngụp lặn giữa trời thanh thiên

    Ao nhà lộng gió thoả thuyền Căng buồm mát mái lướt trên sóng ngàn Ao nhà cá lội kín đàn Ngân vang rộn tiếng dô khoan lưới đầy

    Ao nhà ai hát mê say Khúc ca hò biển ngất ngây ấm lòng Ao nhà mỗi lúc đêm rằm Cuội, Hằng lặn xuống đáy dòng mẩn mê

    Ao nhà cuốn hút bạn bè Năm Châu háo hức tìm về ngất ngây Ao nhà khiến khắp đó đây Vinh danh tuyệt tác trên đời kỳ quan

    Ao nhà xưa ấy Phượng, Loan Rồng thiêng sà xuống hân hoan đắm mình Ao nhà ấy đất Quảng Ninh Ai chưa được đến thực tình tiếc ghê

    Quảng Ninh mong đón bạn về Thăm quan ngắm cảnh hồn quê- đất, người Chia tay chắc chẳng muốn dời Ước sao gắn mãi kiếp đời nơi đây

    Quảng Ninh giờ rất đổi thay Đã vươn chắc cánh vút bay đại ngàn Quảng Ninh hội tụ, toả lan Văn minh, tình nghĩa, nồng nàn, đáng yêu

    Quảng Ninh trải thảm sẵn chiều Đón chào bạn đến thả diều ước mơ Quảng Ninh mảnh đất nên thơ Đến rồi sẽ thoả khát chờ ngàn năm

    Nào còn gì nữa sao ko Về đây thoả ngắm Hạ Long diệu kì Quê tôi ai đã lần về Con tim yêu dấu khắc ghi suốt đời.CHIỀU THU QUẢNG NINH Thơ: Đức Triển

    Ta về thăm đất Quảng Ninh Biển xanh mây trắng lung linh sắc trời Tuần Châu du lịch vui chơi Hạ Long vãng cảnh biển khơi sóng chiều

    Ngày thu nắng trải phiêu diêu Hồn thơ lắng đọng giữa chiều sang thu..!QUẢNG NINH QUÊ HƯƠNG Thơ: Danh Tử

    Bình minh ngả nơi đầu ngọn gió Để chồi non thảm cỏ tươi mầu Biển vờn với cánh hải âu Hạ Long vẫy gọi đoàn tầu ra khơi

    Làn nước biếc xanh ngời cá lội Cảng Vân Đồn sóng nổi từ xa Bên bờ cát trắng hiền hoà Tưng bừng vũ điệu lời ca chẳng ngừng

    Chùa Yên Tử không ngưng nắng trải Suối Giải Oan vọng lại tiếng chờ Chung lòng dệt mộng ý thơ Đường Tùng nâng gót sương mờ uốn quanh

    Chiều biên giới ngọt lành Móng Cái Dòng Ka Long vẫn mãi dịu êm Đung đưa mái tóc suôn mềm Rượu tình ta uống say thêm đất trời.VẺ ĐẸP QUẢNG NINH Thơ: Phạm Quang Tuấn

    Ai về mà ngắm quê tôi Ngắm nơi Rồng hạ, ngắm trời Phật tu Ngắm Vua lưu bút- Bài Thơ Ngắm Moong Cẩm Phả sững sờ vàng đen

    Ngắm cầu Bãi Cháy- đàn then Ngắm mênh mông biển sao đêm ánh đèn Chưa đi nghe thấy đã thèm Đi rồi mãn thoả hoá nghiền tương tư

    Dẫu tu có hoá thành sư Cũng mong phá giới thiên thu phàm trần.TỈNH QUẢNG NINH Thơ: Tấn Khoa Nguyễn

    Tỉnh ven biển nằm thuộc vùng Đông Bắc Nhiều danh lam thật đặc sắc QUẢNG NINH Giáp Trung Hoa phía Đông Bắc biển khơi Tỉnh có cả đồng bằng, đồi núi, đảo.

    Vùng du lịch nổi danh tầm thế giới VỊNH HẠ LONG đều muốn tới tận nơi Cảnh hài hoà đá, nước với bầu trời Nằm xem kẽ động, hang rồi bãi tắm.

    Với BÃI CHÁY điểm vui chơi tuyệt lắm Bãi biển dài nhìn say đắm tuyệt thay HỒ YÊN TRUNG đồi thông với rừng cây Nơi mát mẻ của những ngày nắng nóng.

    ĐẢO QUAN LẠN một màu xanh thông thoáng Biển đẹp xinh bờ cát mịn trải dài Với VÂN ĐỒN biển đảo tuyệt mê say LÀNG CỬU VẠN cảnh tràn đầy tuyệt mỹ.

    Đến BÃI TẮM TUẦN CHÂU nơi giải trí ĐỘNG KIM QUY truyền thuyết sử Vua Lê ĐỘNG THIÊN CUNG những nhủ đá say mê Rất nhiều Động đẹp trăm bề thưởng thức.

    Với YÊN ĐỨC nơi hợp thành 5 núi Vẫn con lưu bài thơ cổ khắc ghi ĐẢO ĐẦU BÊ, ĐẢO ĐẦU GỖ diệu kỳ Những thắng cảnh QUẢNG NINH là quá tuyệt..!TÂM LINH QUẢNG NINH Thơ: Nguyễn Hữu Lân

    Ai ra đất mỏ Quảng Ninh Ghé thăm bao chốn tâm linh lâu đời Ngọa Vân đỉnh núi mây trời Hòa chung tuyến cáp tuyệt vời lên non

    Chùa Đồng Yên Tử lối mòn Bước chân lên đỉnh đá hòn chênh vênh Hàng Tùng cổ thụ lênh khênh Ngàn năm còn đó bồng bềnh tán xanh

    Hoa Yên, Một Mái đất lành Vua Trần thư thái tu hành chân kinh Một vùng đất phật tâm linh Chùa Lân thiền viện sư sinh tới thiền

    Ba Vàng mái uốn cảnh tiên Đầu năm phật tử khắp miền về thăm Chùa Lôi thông đẹp quanh năm Vi vu thông hát bao quanh mặt hồ

    Linh thiêng với các tín đồ Cửa Ông đền cổ tiếng hô diệt thù Tướng Trần vang vọng ngàn thu Đánh tan giặc bắc, lời ru thanh bình

    Cái Bầu thờ các chiến bình Trấn ải đông bắc coi khinh quân thù Xã Tắc đền cổ ngoại ô Vùng đất Móng Cái bên bờ Ka Long

    Tựa như cột mốc dân trồng Trấn yên biên ải coi trông nước nhà Chùa gần cho đến đền xa Mỗi nơi một vẻ đều là linh thiêng

    Đầu xuân sắp xếp việc riêng Đi chùa vãn cảnh tổ tiên anh hùng.QUẢNG NINH Thơ: Nguyễn Hữu Lân

    Ta lại đi về với Quảng Ninh Non sông gấm vóc đẹp thanh bình Đằng giang dậy sóng thù run hãi Bãi cọc chôn ngầm giặc thất kinh Yên tử linh thiêng là đất phật Thiên cung hoành tráng tựa cung đình Kìa ai ngắm cảnh say sưa thế Hay nhớ du thuyền lượn trắng tinh.SÓNG NƯỚC HẠ LONG Thơ: Bình An Linh Chi

    Em về với đất Quảng Ninh Hạ Long non nước hữu tình anh ơi Xanh xanh một dải chân trời Nước trong soi bóng rạng ngời sắc hoa Cười tươi đẹp nét ngọc ngà Hữu tình non nước để mà…Nhớ nhau..!

    Các Bài Viết Về Thành Cổ Quảng Trị

    Người thành cổ Quảng trị

    Thành cổ nằm ngay trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía đông và cách dòng sông Thạch Hãn khoảng 500m về phía nam.

    Ban đầu Thành cổ được đắp bằng đất, đến năm 1827 được vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có hình vuông, chu vi tường thành 2.000m, cao 9,4m, bao quanh có hệ thống hào, có bốn cửa Đông Tây Nam Bắc. Sau này Thành cổ vừa là công trình quân sự, vừa là trụ sở chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị (1909-1945). Năm 1972, trải qua 81 ngày đêm Thành cổ như một túi bom của kẻ thù. 81 ngày đêm, từng giờ từng phút trôi đi là biết bao mất mát, biết bao máu xương trộn lẫn với từng nắm đất nơi đây Thành cổ bị san bằng, chỉ còn sót lại một cửa phía đông.

    Đến nay, trên những bức tường thành vẫn còn chi chít mảnh bom đạn. Qua một chiếc cầu bắc qua con sông nhỏ dẫn chúng tôi đến cổng thành vào bên trong. Khác với tưởng tượng của tôi, Thành cổ không có một ngôi mộ riêng nào cả. Sừng sững trước mắt tôi là một đài tưởng niệm duy nhất giữa bốn bề cỏ non và cây xanh mơn mởn.

    Tượng đài được xây dựng khá cao, hình tròn tượng trưng nấm mồ chung cho những người con đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Bước lên đài tưởng niệm, du khách có thể nhìn được toàn cảnh Thành cổ. Tượng đài tạo ra một thế lưỡng nghi, trên là phần dương, dưới là phần âm. Phần dương có một lỗ thông từ dương xuống âm và hai nửa vầng trăng khuyết. Nó như diễn tả triết lý kinh Dịch: Trong âm có dương và trong dương có âm.

    Phía bên dưới là phần âm, bên trong phần âm có đặt hành trang người lính (mũ và balô). Phần dương hướng lên trời với một cây Thiên mệnh. Nó có ý nghĩa đưa linh hồn các chiến sĩ đến sự siêu thoát trên thiên đường. Cây thiên mệnh đó xuyên qua ba áng mây tượng trưng cho: thiên, địa, nhân.

    Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến, tượng trưng cho ánh hào quang tỏa sáng nơi nơi. Và cũng là để nhắc nhở thế hệ sau luôn nhớ đến công lao trời biển của cha ông mình. Dưới tầng mây cuối cùng có hình tượng trưng cho ba bát cơm cúng người đã khuất. Điều đặc biệt là ngoài vòng tròn có gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt giữ Thành cổ của quân giải phóng.

    Từng đoàn người bước lên dâng hương, hoa tưởng niệm. Khúc mặc niệm vang lên là lúc thiêng liêng nhất, không ai cầm nổi nước mắt.

    Khi cô hướng dẫn viên đưa chúng tôi đến Bảo tàng Thành cổ, tôi không khỏi xúc động trước những di vật còn lại nơi đây. Là thế hệ trẻ, chưa một lần biết đến khói lửa chiến trường. Nơi đây còn minh chứng cho quá khứ hào hùng của dân tộc.

    Những lá thư nặng lòng của người con gửi về quê mẹ, tinh thần lạc quan của các chiến sĩ trẻ với những nụ cười ngời lên trong bom đạn… Những dòng nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Kỳ Sơn viết trước lúc hi sinh khoảng một tuần: “19-8-1972: Ngày mai tôi giáp trận. Ác liệt, đấy là một điều tất nhiên của chiến trận. Rất có thể rồi đây tôi sẽ ngã xuống.

    Không can gì, đấu tranh là phải đổ máu. Có máu mới có màu đỏ, có chiến thắng. Không sợ chết, không sợ hi sinh, gian khổ. Cái chủ yếu là phải sống. Cuộc sống đẹp nhất là sống trong chiến trận. Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời được tôi rèn”. Thiết nghĩ trong thời bình hôm nay, đó vẫn là lý tưởng sống mà tuổi trẻ hôm nay nên noi theo: “Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời được tôi rèn”.

    Nhìn làn khói hương nghi ngút lan tỏa ở đài tưởng niệm, tôi chợt nhớ đến những câu thơ của cựu chiến binh Lê Bá Dương, khi ông trở lại chiến trường xưa rải những bông hoa trắng xuống dòng Thạch Hãn:

    “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ

    Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

    Những tuổi đôi mươi thành sóng nước

    Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm…”.

    (K9 ĐH Văn hóa Hà Nội)/ chúng tôi

    Ngày 1.5.1972, tỉnh Quảng Trị được giải phóng hoàn toàn. Quảng Trị là một địa danh được thế giới biết đến bởi nơi đây từng là mảnh đất ác liệt nhất, mang nhiều “dấu tích” của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.

    Những cái tên: Thành cổ, địa đạo Vịnh Mốc, nhà tù Lao Bảo, hàng rào điện tử McNamara, căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu… trở thành điểm đến của khách du lịch trong nước và quốc tế.

    Sau giải phóng, tượng đài tưởng niệm liệt sĩ hy sinh ở thành cổ được xây dựng. Tượng đài hình tròn tượng trưng nấm mồ cho những người đã mất. Tượng đài tạo ra một thế lưỡng nghi, trên là phần dương, dưới là phần âm. Phần dương có một lỗ thông từ dương đến âm và hai nửa vầng trăng khuyết, thể hiện dương có âm và âm có dương.

    Trong phần âm có đặt hành trang người lính (mũ và balô), phần âm hướng lên trời, một cây thiên mệnh với ý nghĩa đưa linh hồn các liệt sĩ lên chốn thiên đường. Cây thiên mệnh xuyên qua ba áng mây thể hiện: Thiên (trời), địa (đất) và nhân (người).

    Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến tượng trưng ánh hào quang toả sáng, dưới tầng mây cuối cùng có gắn hình tượng chung cho ba bát cơm cúng người đã khuất. Ngoài vòng tròn có gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt giữ thành cổ của các chiến sĩ quân giải phóng. Phía dưới tượng đài làm theo hình bát quái.

    Nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị, Ngân hàng Công thương VN đã hỗ trợ kinh phí để xây dựng tháp chuông (quả chuông nặng trên 7 tấn, trị giá gần 4 tỉ đồng).

    Tháp chuông được đặt tại quảng trường từ thành cổ đến bờ sông Thạch Hãn, được khánh thành vào sáng ngày 29.4.2007; để đến ngày lễ, ngày rằm, tiếng chuông vang lên, siêu thoát linh hồn các liệt sĩ đã hy sinh.

    Quảng trường đã nối liền không gian giữa thành cổ và dòng sông Thạch Hãn – dòng sông nghĩa trang. Dòng sông này là nơi yên nghỉ của không biết bao nhiêu chiến sĩ từ bờ bắc vượt sông vào thành cổ để chiến đấu.

    Hàng năm, cứ đến ngày 30.4 hay ngày 27.7, nhân dân ở đây lại thả những bó hoa xuống dòng sông để tưởng nhớ các liệt sĩ. Tưởng nhớ đồng đội đã không trở về, một người lính chiến đấu bảo vệ thành cổ đến bên dòng sông, thả hoa, rót chút rượu xuống dòng nước và viết: Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Những tuổi đôi mươi thành sóng nước/ Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.

    Người trở về từ Thành Cổ Quảng Trị

    TP- Một sáng mùa hè năm 2005, sau ba mươi tư năm, kể từ ngày những sinh viên trẻ măng rời Hà Nội vào chiến trường máu lửa, có một người cựu chiến binh – thương binh đến trồng bên mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hai cây bạch đàn.

    Đây loài cây mà Nguyễn Văn Thạc yêu thích, được nhắc tới nhiều lần trong những trang nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi. Anh là đồng đội, nhập ngũ cùng ngày với Nguyễn Văn Thạc (6/9/1971), nhưng may mắn hơn, anh đã có cơ hội đi tiếp vào “chảo lửa” Quảng Trị, có mặt trong 81 ngày đêm khốc liệt và bi tráng của Thành Cổ trong mùa hè đỏ lửa năm 1972.

    Người cựu chiến binh đó là ông Nguyễn Quốc Triệu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.

    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đấu tranh thống nhất đất nước, Quảng Trị là chảo lửa tiếp tuyến giữa hai miền Nam – Bắc, nơi đụng độ quyết liệt giữa ta và địch. Người ta ước tính rằng, cứ mỗi mét vuông đất ở Quảng trị phải hứng chịu 250 kg bom pháo. Số lượng đạn bom của kẻ thù dội xuống Quảng Trị có sức công phá bằng 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945.

    Tính riêng ở Thành Cổ, trung bình một chiến sĩ giải phóng phải hứng chịu 100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Có ngày địch xả vào Thành Cổ 5.000 quả đại bác, vài chục lượt B52 quần đảo.

    Cho đến nay, chưa có con số thống kê chính xác bao nhiêu người lính đã nằm lại Thành Cổ Quảng Trị. Có tài liệu ghi hơn một vạn, có tài liệu ghi hơn một vạn rưỡi, nhưng tại nghĩa trang Thành Cổ chỉ quy tập được chưa đầy một ngàn nấm mộ, hầu hết là vô danh.

    Biết bao chiến sĩ trẻ vừa rời giảng đường đại học đã mãi mãi nằm lại trong đống đổ nát của Thành Cổ và cả dưới dòng sông Thạch Hãn. Lê Bá Dương đã viết những câu thơ yêu thương máu ứa: “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.

    Máu xương của hơn một vạn người lính đã nằm xuống Thành Cổ ngày ấy đã góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris 1973 và Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Nhiều người trong lớp sinh viên vào tuyến lửa năm ấy may mắn được trở về cứ mãi đau đáu với nghĩa tình đồng đội, lao vào cuộc chiến đấu mới trong công cuộc xây dựng đất nước, gánh cả phần việc của những đồng đội đã hy sinh.

    Cùng với ông Nguyễn Quốc Triệu, đồng đội năm ấy nhiều người hôm nay cũng đang nắm giữ các trọng trách khác nhau như ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Biên tập báo Nhân dân và hàng ngàn kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ, nhà khoa học, nhà văn hoá… hoạt động trên nhiều lĩnh vực công tác.

    Ông Nguyễn Trọng Bường, một cựu chiến binh Thành Cổ người Quảng Trị đã rưng rưng hồi tưởng lại trong lễ trao Kỉ niệm chương bảo vệ thị xã Thành Cổ ngày 22/12/2006 tại Hà Nội: “Hồi đó, thấy mấy anh từ Bắc vô, anh nào cũng trắng trẻo, thư sinh, đẹp trai, nhìn mấy anh tụi tui thấy tiếc, cứ nghĩ những người như mấy anh phải đi học, phải là bác sĩ, kỹ sư để xây dựng đất nước chứ răng lại vô đây cầm súng chiến đấu?”.

    Vậy đó, chính lớp chiến sĩ – sinh viên ấy đã làm nên trang sử hào hoa trong khúc ca bi tráng của Thành Cổ Quảng Trị. Đúng như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi nói về những người lính Thành Cổ đã viết: “Những người chết không phải vì để trở thành anh hùng mà chính là để đằng sau họ những người khác được tiếp tục sống trong tự do và hoà bình, chết cho nhân loại sống còn và thức tỉnh”.

    Không có may mắn đi hết cuộc chiến tranh, không được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, nhưng trong những thời khắc máu lửa, trong những giờ phút đối mặt với cái chết, đối mặt với thử thách khốc liệt ấy, người lính trẻ Nguyễn Quốc Triệu cùng đồng đội Trương Xuân Hương đã vinh dự được kết nạp Đảng tại trận (ngày 25/8/1972). Đó là 2 chiến sĩ tiêu biểu của cả Đại đội quân y, được chọn lựa sau thử thách một chiến dịch ác liệt.

    Lễ kết nạp Đảng tổ chức ngay trong một căn hầm dã chiến ở thôn An Khê, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Giờ phút thiêng liêng trước Đảng kỳ năm đó mãi in sâu trong tâm trí ông: “Đồng đội ơi, sao đồng đội không về/ Vinh dự thế mà lòng son máu ứa/ Trên nóc hầm vẫn gầm gào đạn nổ/ Ôm súng xông lên sau phút thiêng này”(thơ Lê Cảnh Nhạc).

    Về cuộc pháo kích dữ dội khiến ông Nguyễn Quốc Triệu bị thương năm ấy, ông Ngô Thản – nguyên Chủ nhiệm hậu cần Trung đoàn18 chiến đấu ở phía Nam Thành Cổ Quảng Trị và ông Dung- nguyên là chiến sĩ y tá, quê Thái Bình kể lại: Đó là một ngày khốc liệt. Khi C24 vừa được điều động đến địa điểm tập kết thì địch nã pháo dồn dập vào trúng đội hình đại đội quân y. Căn hầm chữ A của ông Triệu và một đồng đội khác bị quả đạn pháo gần kề cắt đứt nóc.

    Cả “cái mũ” chữ A bay đi. Ngớt tiếng bom pháo, ông Ngô Thản cùng Đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn đi kiểm tra thì thấy ông Triệu bị thương nặng ở ổ bụng, máu tuôn trào. Đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn và y tá Trương Xuân Hương cõng ông Triệu xuống xuồng máy, cho chở ngay ra bệnh viện mặt trận ở Cam Lộ. Xuồng chở ông Triệu đi được nửa chừng thì chết máy.

    Tình hình hết sức nguy cấp. Vết thương ở ổ bụng càng ra máu nhiều, nếu không nhanh thì tính mạng khó qua khỏi. Vậy là các chiến sĩ quân y phải bỏ xuồng máy, khiêng ông Triệu và các đồng chí thương binh chạy bộ 3 cây số mới tới bệnh viện mặt trận đặt tại Cùa. Hôm đó may mắn là bệnh viện vừa được tăng cường đội điều trị của quân y viện 103 từ miền Bắc nên anh Triệu đã được cứu sống…

    Đã ba mươi sáu năm trôi qua, trang sử bi tráng của 81 ngày đêm máu lửa ở Thành Cổ Quảng Trị vẫn trào dậy trong kí ức những Cựu chiến binh- Người lính – Sinh viên hào hoa mà trung kiên năm ấy. Hằng năm, cứ đến ngày 6/9 – ngày lớp sinh viên trẻ rời giảng đường đại học vào tuyến lửa, các anh Nguyễn Quốc Triệu, Đinh Thế Huynh, Trịnh Quân Huấn, Trương Xuân Hương, Đỗ Hán, Dương Cao Tường, Nguyễn Văn Khanh, Trần Sỹ Lập, Hoàng Văn Dung … và nhiều đồng đội cũ lại gặp nhau để ôn lại những kỷ niệm chiến trường, gắng làm điều gì đó cho đồng đội, cho những người đã hy sinh.

    Mãi ba mươi lăm năm sau, ông Nguyễn Quốc Triệu mới tìm lại được đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn của mình, cũng là người giới thiệu ông vào Đảng, hiện đang công tác ở Hội Chữ thập đỏ Cần Thơ. Ông Bộ trưởng tóc hoa râm khiêm nhường chào Thủ trưởng như đang đứng giữa hàng quân ba mươi lăm năm về trước.

    Người đại đội trưởng năm nào nay tóc mây mướt gió, tâm hồn nghệ sĩ, thấp thoáng bóng dáng của tài tử hào hoa, sống chan hòa vào cỏ cây hoa trái của bình dị đời thường. Họ đều trở về từ Thành Cổ Quảng Trị, mỗi người một vị trí khác nhau nhưng cùng có một điểm chung, đó là tuổi tác và thời gian không thể xoá nhòa được dư âm hào sảng của năm tháng chiến trường gắn bó bên nhau, vào sinh ra tử, với tâm hồn trong sáng, vô tư và tình yêu cuộc sống thiết tha của một thời Sinh viên – Chiến sĩ.

    Thành cổ Quảng Trị – Du ký mùa thu

    Quảng Trị: một thời khói lữa – Du ký mùa thu

    Nhưng nhắc đến Quảng Trị, có lẽ người ta nhớ nhiều hơn về những khía cạnh lịch sữ đã được ghi vào vùng đất này. Đây chính là vùng đất chia cắt 2 miền Nam – Bắc của Việt Nam tại vỹ tuyến 17. Cho đến nay, cây cầu Hiền Lương ở vỹ tuyến 17 vẫn còn hiện diện như là chứng nhân lịch sữ của một thời kỳ binh đao khói lữa.

    Chính vì vị trí đặc biệt như vậy, Quảng Trị đã trở thành một khu vực tranh chấp hết sức quyết liệt giữa hai phía Bắc – Nam . Là chiến trường của những trận đánh khốc liệt mà mỗi bước tiến công đều phải trả giá bằng sự ngã xuống của hàng ngàn chiến sĩ của cả hai phía. Cũng bởi vì vậy, cả hai nghĩa trang liệt sĩ to nhất nước đều tập trung ở vùng này: Nghĩa Trang Liệt Sĩ Trường Sơn và Nghĩa Trang Thành Cổ Quảng Trị. Và đây cũng chính là nơi đã diễn ra rất nhiều các đại lễ trai đàn cầu siêu cho các oan hồn đã khuất.

    Trận đánh lớn nhất ở khu vực này chính là Chiến dịch Xuân hè 1972 (còn gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa). Đây là cuộc tổng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng của quân đội nhân dân Việt Nam (Bắc Việt), tiến công sâu hệ thống phòng ngự của quân đội Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt). Chiến sự ác liệt nhất diễn ra ở khu vực Trị Thiên (Quảng Trị và Thừa Thiên Huế) với thương vong rất nhiều dành cho cả hai phía.

    Thành Cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.

    Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành – Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là phường 2 thị xã Quảng Trị).

    Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành Cổ Quảng Trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3 trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo, đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt thành.

    Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính … Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây, hoa, lá… Đây là nơi để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm.

    Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành Cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn… Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.

    Thành Cổ Quảng Trị còn được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu tranh anh dũng để bảo vệ Thành Cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị

    Hai phần ba tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào đầu năm 1972 là sự quyết định thắng lợi tại bàn Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy, để làm thay đổi hội nghị, Mỹ – ngụy đã âm mưu huy động tối đa lực lượng và phương tiện nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị mà trong đó mục tiêu đánh phá hàng đầu là Thành Cổ.

    Tại thị xã nhỏ bé chưa đầy 2Km2 này, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 – 170 lần máy bay phản lực, 70 – 90 lần máy bay B52, 12 – 16 tàu khu trục, tuần dương hạm, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn…

    Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ- ngụy đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945. Riêng ngày 25/7, chúng xả vào Thành Cổ hơn 5000 quả đại bác.

    Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông (các đơn vị của sư 320, 308, 325 là chủ yếu) song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần chiến đấu kiên cường đã đánh địch bật ra khỏi Thành Cổ và cả thị xã mà có khi “mỗi mét vuông đất là cả một mét máu”.

    Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hi sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng.

    Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng tiền, hậu…

    Từ năm 1993 – 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.

    Hiện nay Thành Cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:

    – Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom… Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.

    – Khu phục dựng Thành Cổ nguyên sinh: ở phía Đông bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.

    – Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi,…

    Thành Cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế

    Theo www.dostquangtri.gov.vn

    Chùm Thơ Hay Viết Về Quê Hương Quảng Ngãi

    Tuyển chọn những bài thơ hay viết về vẻ đẹp, cuộc sống, con người vùng đất Quảng Ngãi. Đó là những vần thơ ca ngợi quê hương Quảng Ngãi hay nhất!

    CHÙM THƠ LIÊN QUAN: ♥ Chùm thơ nỗi nhớ cha mẹ của người con xa xứ thật hay ♥ Chùm thơ nhớ nhà, nhớ quê của người tha phương

    BÀI THƠ: QUẢNG NGÃI

    Tác giả: Tấn Bảo Huỳnh

    Câu ca núi Ấn sông Trà là đây

    Màu xanh mạ mới ngất ngay hương đồng

    Sa Quỳnh cát mịn ong ong ánh vàng

    Khơi xa tôm cá đầy khoang

    Vụ mùa thắng lợi xóm làng rộn vui

    Lòng người trìu mến, ngọt bùi, thiết tha

    Chùa Hang chuông vọng trời xa

    Hồn thiêng sông núi âm ba cõi lòng.

    BÀI THƠ: QUẢNG NGÃI QUÊ TÔI

    Tác giả: Hoang Than

    Giữa Miền Trung mưa dầm nắng dãi

    Đất Quảng Ngãi vẫn mãi tươi xinh

    Một vùng nhân kiệt địa linh

    Quê hương tôi đấy trung trinh nghĩa tình

    Bến Tam Thương còn vương vấn đợi

    Nước Sông Trà, bống gợi hương quê

    Long Đầu Hý Thuỷ chiều về

    Phê Vân Thiên Bút mấy bề mây sa

    Triện Thiên Ấn Niêm Hà ngỏ ý

    Tự bao đời thi sĩ mộng mơ

    Sương giăng mây xoã lững lờ

    Tiếng chuông đêm vắng đôi bờ ngân nga

    Rặng Thạch Bích chiều tà soi bóng

    Biển Mỹ Khê gió đọng tiếng dương

    Trà Bồng cây quế ngát hương

    Thu Xà đậu phụng kẹo gương ngọt lành

    Dòng Sông Vệ nước thanh gió mát

    Lắng phù sa mía ngọt lúa xanh

    Đồng quê hoạ khéo tựa tranh

    Con don, bánh tráng, ui sành, lời rao

    Bên Cổ Luỹ nao nao cánh nhạn

    Hoàng hôn về bảng lảng trời mây

    Cô thôn, Chiếu Cói nơi nầy …

    Đá xây thành cổ, dừa dương dịu dàng

    Chiều Sơn Hải Sa Bàn biển nắng

    Mùa gió nồm cát trắng vun mâm

    Xóm Câu, Cây Mắm triều ngâm

    Hình Nhân đá dựng rì rầm sóng xô

    Mõm An Vĩnh nhấp nhô ghềnh đá

    Cảng Sa Kỳ nước khỏa buâng khuâng

    Thạch Cơ Điếu Tấu buông cần khoan thai

    Đảo Lý Sơn hình hài núi lửa

    Tỏi mồ côi nhớ cửa Chùa Hang

    Đêm trăng Thới Lới rực vàng

    Hải Đăng tỏ ngọn soi đàng hùng binh

    Nền văn hoá Sa Huỳnh xưa cổ

    Lắng bờ nghe sóng vỗ miên man

    Biển xanh, muối trắng, cát vàng

    Châu Me ghềnh đá ngỡ ngàng chiều phân

    Trời Minh Long mây vần Thác Trắng

    Giữa Trường Sơn gió nắng hoan ca

    Rừng xanh, vạt nước khảm hoa

    Cá niên, rượu ché cùng ta thi cầm

    Làng Teng dệt thổ cầm vang tiếng

    Vọng bao đời truyền thuyết Ba Tơ

    Hồn thiêng sông núi, cõi bờ hiển linh

    Quảng Ngãi ơi! Người xinh xinh lắm

    Ta yêu Người tình thắm duyên quê

    Ngàn sau nguyên vẹn câu thề

    Bến xưa vẫn đợi ta về bên ta.

    BÀI THƠ: VỀ THĂM QUẢNG NGÃI

    Tác giả: Phạm Đình Dũng

    Anh đưa em về thăm Quảng Ngãi

    Thăm bờ xe nước bến sông Trà

    Thăm đồng lúa mới quê Mộ Đức

    Chiều về Thiên Ấn ngắm chân mây

    Dòng nước Trà Giang bên Thiên Ấn

    Ghi dấu Niêm Hà, Trời hạ ban

    Lặng lẽ trôi về nơi cửa Đại

    Tô thắm đôi bờ Cổ Lũy thôn

    Long Đầu Hý Thủy chiều in bóng

    Nhớ mãi chuyện xưa thấy chạnh lòng

    Hà Nhai Vãn Độ mờ sương khói

    Đò chờ đưa khách vội sang sông

    Nhìn lên Thiên Bút màu xanh thẳm

    Ngọn bút trời Nam viết mây vàng

    Ngàn năm thiên cổ còn lưu lại

    La Hà Thạch Trận dấu chân qua

    Thạch Bích Tà Dương chiều in nắng

    Ngày về lá rụng biết thu sang

    Đường lên đỉnh núi mây giăng lối

    Thơ thẫn đường về bóng nhạn sa

    Vân Phong Túc Vũ mây và gió

    Đưa nước về nguồn tắm suối mơ

    Đỉnh núi Vu Sơn xanh màu cỏ

    Hưu về đoàn tụ thỏa mong chờ

    Liên Chiểu ao sen vui sum họp

    Liên Trì Dục Nguyệt đón trăng thơ

    Thuyền ai thấp thoáng bên bờ nguyệt

    Xin chở sen hồng đến bến mơ

    An Hải Sa Bàn trên bờ cát

    Gió đi còn đó dấu châu sa

    Mâm cát vàng kia ai để lại

    Muôn đời cô độc nhìn trăng qua

    Thạch Ky Điếu Tẩu ai ngồi đó

    Mây trắng giăng ngang đường chân trời

    Ta về dừng chân nơi góc biển

    Chân trời ta đến đón duyên tơ

    Mười hai cảnh đẹp quê Quảng Ngãi

    Tô thắm non sông thắm tình người

    Anh đưa em về thăm Quảng Ngãi

    Vui tình Đất nước đẹp tình ta.

    QUẢNG NGÃI TA VỀ

    Tác giả: Bằng Lăng Tím

    Miền quê đẹp yên bình Quảng Ngãi

    Trai anh hùng con gái đảm đang

    Chung tay xây dựng xóm làng

    Chiến công lừng lẫy vẻ vang một thời

    Cánh đồng mía ngút trời xanh mát

    Nhà máy đường ngào ngạt hương bay

    Phù sa nước ngọt tràn đầy

    Con sông xuôi chảy trái cây trĩu cành

    Làn gió biển trong lành thổi mát

    Muối Sa Huỳnh từng hạt trắng tinh

    Long Môn cảnh đẹp hữu tình

    Đèo Vi Ô Lắc uốn mình non xanh

    Từng dãy núi giăng thành chiến lũy

    Trường Sơn Đông hùng vĩ đại ngàn

    Chim rừng cất tiếng ca vang

    Cô em gái nhỏ dịu dàng váy hoa

    Đây Quảng Ngãi quê ta đổi mới

    Nhà cao tầng phấn khởi lòng dân

    Đường xa cũng thấy như gần

    QUẢNG NGÃI QUÊ MÌNH Tác giả: Nguyễn Duy Luân

    Bạn hãy đến quê mình quảng Ngãi

    Mảnh đất cằn trai gái hiên ngang

    Núi sâu cho đến đồng làng

    Căn cứ cách mạng rạng vang một thời

    Dọc Trà Khúc nước xuôi tượi mát

    nghe đâu đây thơm ngát hương bay

    Ngày xưa đồng bãi nay xây phố phường

    Kìa biển rộng gió nồm man mát

    Kìa kéo dài bờ cát trắng tinh

    Đất xưa Tư Nghĩa hữu tình

    Vùng căn cứ cũ của mình đã xanh

    Vùng Đá Vách đá xây thành lũy

    Đất Trà Bồng dũng khí hiên ngang

    Tiếng reo đồng khởi vang vang

    Mở đầu cho cả Miền Nam chống thù

    Thuở “Chín Năm Tự Do” phơi phới

    Đất “Ba Tơ vùng cội” giành dân

    Phổ Nhơn, Hành Tín Rất gần

    Quê Ta Quảng Ngãi, đất xuân vạn đời.

    Đan Áo Cho Chồng & Bài Thơ Cuối Cùng

    Chị ơi ! Nếu chị đã yêu Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương, Đã xa hẳn quãng đường hương, Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng.

    Biết chăng chị mỗi chiều đông Đáng thương những kẻ có chồng như em, Vẫn còn giá lạnh trong tim Đan đi đan lại áo len cho chồng

    Con chim ai nhốt trong lồng, Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ. Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ, Hay đâu gió đã sang bờ ly tan…

    Tháng ngày miễn cưỡng em đan, Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng. Như con chim nhốt trong lồng, Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao !

    Ngoài trời hoa nắng xôn xao, Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ? Ai đem lễ giáo giam em ? Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời …

    Lòng em khổ lắm chị ơi ! Trong bao nờ vực với lời mỉa mai Quang cảnh lạ, tháng năm dài, Đêm đêm nằm tuởng ngày mai giật mình !”

    Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì tòa báo Tiểu thuyết thứ bảy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa: Bài thơ cuối cùng. Đúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn.

    Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác gỉa chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững chãi trong nền văn học VN.

    Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ? Một mùa thu cũ, một lòng đau.. Ba năm ví biết anh còn nhớ, Em đã câm lời, có nói đâu!

    Đã lỡ, thôi rồi! chuyện biệt ly, Càng khơi càng thấy lụy từng khi Trách ai mang cánh “TiGôn” ấy, Mà viết tình em, được ích gì?

    Chỉ có ba người đã đọc riêng, Bài thơ “đan áo” của chồng em. Bài thơ “đan áo” nay rao bán, Cho khắp người đời thóc mách xem…

    Là giết đời nhau đấy, biết không? Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung, Giận anh, em viết dòng dư lệ, Là chút dư hương: điệu cuối cùng

    Từ đây, anh hãy bán thơ anh, Còn để yên tôi với một mình, Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

    Ngang trái đời hoa đã úa rồi, Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp, Đi nhớ người không muốn nhớ lời

    Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây, Tôi run sợ viết, bởi rồi đây Nếu không yên được thì tôi chết Đêm hỡi, Làm sao tối thế này?

    Năm lại năm qua cứ muốn yên Mà phương ngoài gió chẳng làm quên Và người vỡ lỡ duyên thầm kín, Lại chính là anh, anh của em

    Tôi biết làm sao được hỡi trời Giận anh không nỡ, nhớ không thôi Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt Sợ quá đi, anh… có một người!…

    Chùm Thơ Hay Viết Về Sài Gòn Thành Phố Tôi Yêu

    Tuyển chọn những bài thơ hay viết về Sài Gòn, đó là những vần thơ ca ngợi vẻ đẹp, cuộc sống, con người, những điểm đến du lịch đầy lý thú ở SG – thành phố Hồ Chí Minh.

    CHÙM THƠ LIÊN QUAN: ♥ Những bài thơ ca ngợi Sài Gòn thân yêu hay nhất ♥ Những bài thơ Sài Gòn về đêm hay nhất

    BÀI THƠ: YÊU QUÁ SÀI GÒN

    Tác giả: Trung Hưng

    Sài Gòn nơi này đẹp đến nỗi say mê

    Cái đẹp của bàn tay con người sáng tạo

    Đêm Sài Gòn, đêm lung linh huyền ảo

    Ánh điện rực trời, nhấp nháy khắp mọi nơi..

    Chẳng bao giờ Sài Gòn thấy nghỉ ngơi

    Như sức trẻ luôn tràn trề nhựa sống

    Người Sài Gòn những con người năng động

    Hừng hực đầu tàu kéo cả nước đi lên..

    Người Sài Gòn lòng nhân ái có dư

    Gặp kẻ khó khăn chẳng ngần ngừ giúp đỡ

    Dẫu có bị lừa cũng chỉ cười vỡ lỡ

    Chẳng toan tính nhiều chẳng nghĩ chuyện hơn thua..

    Sài Gòn muôn đời ngự trị trái tim tôi

    Rừng rực dạt dào hôn Sài Gòn nóng bỏng

    Vòng tay ôm chẳng bao giờ nới lỏng

    Yêu quá Sài Gòn…Yêu chết mất đi thôi!…

    BÀI THƠ: CHIỀU SÀI GÒN

    Tác giả: Đặng Minh Mai

    Bước bên em chiều Sài Gòn ngập nắng

    Hàng me xanh, xanh thắm biếc một màu

    Khúc khích cười gió tình tự cùng nhau

    Rồi ùa chạy hôn lên đầu ngọn lá

    Bến Nhà Rồng đang nghiêng mình đẹp quá

    Chính nơi đây Bác đã bước lên đường

    Theo Cách mạng, Người giải phóng quê hương

    Cho đất nước mãi trường tồn hưng thịnh

    Chợ Bến Thành người nói cười rả rích

    Nào bán mua trông rất thích, rộn ràng

    Khách đến rồi lòng xao xuyến, mênh mang

    Những toà nhà cao ngập tràn phố thị

    Chuông nhà thờ ngân tiếng xa huyền bí

    Đức Bà ơi! Nét kỳ vĩ vô cùng

    Tà áo dài bóng thiếu nữ bay tung

    Chiều dịu dàng em bước chung cùng gió.

    BÀI THƠ: SÀI GÒN THẬT ĐÁNG YÊU

    Tác giả: Toàn Tâm Hòa

    Em thấy không Sài Gòn thật đáng yêu !?

    Thành phố trẻ với rất nhiều thay đổi

    Sông Sài Gòn trườn mình trong nắng mới

    Bến Nhà Rồng cờ phất phới tung bay

    Em thấy không Sài Gòn buổi sáng nay !?

    Bao nhịp sống vương đầy từng con phố

    Đường Nguyễn Huệ tấp nập người đi bộ

    Từng con đường xe cộ dập dìu qua

    Sài Gòn ơi như một khúc tình ca

    Bao âm thanh cùng ngân nga buổi sáng

    Bên quán cóc ngồi thả hồn tản mạn

    Chuông Nhà thờ Đức Bà vọng mênh mang

    Anh cùng em nắm tay bước lang thang

    Chợ Bến Thành nét nghiêm trang , cổ kính

    Bao dấu ấn của Sài Gòn – Gia Định

    Như con rồng thức giấc chuyển mình bay.

    THƠ LỤC BÁT: SÀI GÒN ƠI

    Tác giả: Duy Sơn

    Ở gần chẳng bén duyên thơ

    Xa rồi mới thấy thẫn thờ chơi vơi

    Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi

    Bao năm ta sống bên người đó thôi

    Hồn nhiên như hít khí trời

    Nắng mưa ta cứ thảnh thơi đi về

    Cơ quan, xí nghiệp, bạn bè…

    Tinh mơ đã tấp bên hè – cà phê

    Cùng em qua chợ hả hê sắm đồ

    Dẫu nghèo cũng thể cá cua

    Cọng hành, quả khế… cay chua đủ đầy

    Trạm xăng tiếp sức hàng ngày

    Yếu đau thân hữu thăm ngay chật nhà

    Cuối tuần rủ bạn la cà

    Rượu bia như thác đổ ra suối nguồn

    Ra đường cứ nghĩ mà thương

    Chật như nêm vẫn nhịn nhường nhau đi

    Suốt ngày inh ỏi còi xe

    Sục sôi như thể tiếng ve gọi bầy

    Gặp em vẫn dáng thơ ngây thuở nào

    Chưa cười ánh mắt đã trao

    Con tim ta lại xôn xao thẫn thờ

    Đi trong đời, đi trong mơ

    Tới đâu cũng thấy ngẩn ngơ sắc màu

    Bây giờ bay tít trên cao

    Nhìn quanh chỉ thấy trời sao mịt mùng

    Càng xa em càng lạnh lùng

    Càng thương nhớ những ngày cùng bên nhau

    Sài Gòn ơi! Hẹn ngày sau

    Ta về nối lại nhịp cầu yêu thương.

    BÀI THƠ: SÀI GÒN HOA LỆ

    Tác giả: Nguyễn Nhật

    Ta đứng giữa Sài Gòn hoa lệ ấy

    Phố thân quen cứ lạ lẫm làm sao

    Những toà nhà mỗi bửa mọc thêm cao

    Đường ngang dọc nối dài chi chít lắm

    Dinh Độc Lập…cuộc trường chinh vạn dặm

    Kết thúc thời bom đạn mấy mươi năm

    Là chứng nhân bao sóng gió thăng trầm

    Những triều đại đã đi vào lịch sữ

    Nhà Hát Lớn thu mình vô quá khứ

    Còn lại gì khi khép bức màn nhung

    Những vở tuồng, son phấn, phím tơ chùng

    Đời nghệ sĩ là hào quang ảo mộng

    Chiều trên Bến Bạch Đằng vươn nhẹ sóng

    Kẻ yêu nhau hóng gió gửi tình bay

    Mấy con tàu chậm rãi hú còi dài

    Trời xanh biếc lũ chim hoài uốn lượn

    Nhà thờ Đức Bà vươn đôi tháp đứng

    Chuông giáo đường lay động những hàng me

    Bài thánh ca cũng cất tiếng theo bè

    Bên góc nhỏ tình nhân quì ước thệ

    Mùa xuân dạo chợ Hoa đường Nguyễn Huệ

    Những sắc màu làm rạo rực hồn ta

    Vạn mùi hương quyện theo gió giao hòa

    Như muốn gọi tình xuân về lảng vảng

    Lướt qua Chợ Bến Thành tìm bóng dáng

    Cố nhân còn bận bịu nữa hay không

    Mối tình xưa chắc cũng đã xuôi dòng

    Vào vòng xoáy một Sài Thành tất bật

    Ôi Hòn Ngọc Viễn Đông tình quá đắt

    Đánh đỗi bằng đêm thức trắng đi hoang

    Hắt hiu buồn đại lộ cúi đèn vàng

    Nhìn nhân thế bán mua đời rẻ mạt

    Trên phố vắng vang đâu đây tiếng hát

    Bản tình ca uẩn khúc Trịnh Công Sơn

    Kẻ thất tình nghe hết dỗi rồi hờn

    Xin mượn rượu đêm Sài Gòn cạn chén !

    BÀI THƠ: KÝ ỨC SÀI GÒN Tác giả: Đồng Thanh Huyền

    Tôi trở về từ đô thị phồn hoa

    Nơi bạn bè tôi tối ngày vội vã

    Nơi người thân tôi miệt mài hối hả

    Giữa dòng đời tất tả với mưu sinh.

    Tôi trở về từ đô thị lung linh

    Nơi cầu Ánh Sao nghiêng mình soi bóng

    Nơi bến Nhà Rồng chúng con vẫn ngóng

    Chờ đón Bác về thỏa nỗi chờ mong .

    Tôi trở về từ nơi ấy biết chăng

    Lũ bạn tôi cũng dăm thằng mươi đứa

    Hối hả bon chen nỗi niềm chất chứa

    Cơm áo gạo tiền mấy đứa thảnh thơi.

    Tôi trở về từ nơi ấy xa xôi

    Nơi cách quê tôi cả ngàn cây số

    Vẫn thấy thân quen bởi tấm lòng rộng mở

    Của những người luôn hớn hở với tình quê

    Tôi trở về đem theo nỗi đam mê

    Của lũ bạn vẫn hướng về quê cũ

    Vội vã gặp nhau bao giờ thấy đủ

    Chia tay rồi vẫn thủ thỉ nhớ không ?

    Cập nhật thông tin chi tiết về Chùm Thơ Viết Cho Quảng Ninh – Vũ Đan Thành trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!