Xu Hướng 3/2023 # Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Người Phụ Nữ Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh # Top 6 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Người Phụ Nữ Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Người Phụ Nữ Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý chi tiết a. Mở bài – Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đầy cảm xúc, có sắc thái rất riêng, đậm chất nữ tính của một tâm hồn phụ nữ rất thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương. Sóng được sáng tác năm 1967, là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. – Giới thiệu về luận đề: Bài thơ Sóng là tiếng lòng chân thành, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. b. Thân bài – Giới thiệu hình tượng sóng: là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. Sóng là sự ẩn thân, hóa thân của nhân vật trữ tình “em”. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động những trạng thái, cung bậc tình cảm, tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: nhân hậu, khao khát yêu thương và luôn hướng tới một tình yêu cao thượng, lớn lao. – Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: + Thể hiện tiếng nói của trái tim tuổi trẻ mang khát vọng tình yêu muôn thuở (Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ). + Khao khát khám phá sự bí ẩn của qui luật tình yêu nhưng không tìm thấy câu trả lời (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau). + Bộc lộ một tình yêu sôi nổi, đắm say, nồng nàn, mãnh liệt, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, chiếm lĩnh cả thời gian và không gian (Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước … Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức… ). + Luôn hướng tới một tình yêu thủy chung, son sắt (Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương). + Ước vọng có một tình yêu vĩnh hằng, bất tử để làm đẹp cho cuộc đời (Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ). – Đặc sắc nghệ thuật: ẩn dụ (mượn hình tượng sóng để thể hiện tình yêu một cách sinh động, gợi cảm); thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt, nhịp nhàng gợi âm vang của sóng; ngôn từ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi. – Bàn luận chung: Bài thơ đã thể hiện nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung, trong sáng, cao thượng. Nó vừa mang nét đẹp tình yêu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa có nét táo bạo, chủ động đến với tình yêu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. c. Kết bài: – Đánh giá chung: Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu. – Khẳng định: Giá trị nhân văn của bài thơ chính là sự khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.

Sóng là một bài thơ về tình yêu rất nổi tiếng của nhà thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm đậm chất nữ tính, nhẹ nhàng. Tiến sĩ văn học Trịnh Thu Tuyết sẽ giúp học sinh chuẩn bị thi THPT quốc gia 2016 cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài giảng: “Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh”

Tiến sĩ Văn học Trịnh Thị Tuyết là giáo viên trường THPT Chu Văn An – Hà Nội. Cô đã có trên 30 năm kinh nghiệm luyện thi đại học, cao đẳng môn Ngữ văn và nhiều học sinh đỗ đại học với số điểm cao tại các trường đại học danh tiếng trên cả nước.

Những bài giảng được cô Tuyết sắp xếp mạch lạc, hệ thống theo các luận điểm phù hợp với những yêu cầu của việc đảm bảo tính khoa học, tính thẩm mĩ, tính giáo dục và tính thực tiễn.

Bài văn mẫu tham khảo “Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh”

Đề ra: Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong yêu qua bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh. Từ đó liên hệ tình yêu giới trẻ ngày nay.

BÀI LÀM Xuân Quỳnh được biết đến là một trong những số ít nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ viết về đề tài tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh đặc trưng bởi tâm hồn của người phụ nữ lúc tươi tắn đầy trắc ẩn lúc đằm thắm và khao khát hạnh phúc bình dị đời thường. Tiêu biểu nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh là bài thơ “Sóng”. “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền năm 1967, được in trong tâp “Hoa dọc chiến hào”, bài thơ viết về tình yêu rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Và từ đó, ta có thể cảm nhận được tình yêu của giới trẻ hiện nay cũng rất đẹp và trong sáng. Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả trạng thái của sóng và đồng hành theo đó là tâm trạng người phụ nữ đang yêu với nghệ thuật ẩn dụ đầy độc đáo: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Với nghệ thuật đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, Xuân Quỳnh đã thể hiện một cách chân thực tâm trạng người phụ nữ đối với tình yêu, lúc thì dịu dàng, đằm thắm, khi thì khao khát, mãnh liệt. Điều đó cho thấy trong tận sâu thẳm tâm hồn, người phụ nữ trong tình yêu luôn có những mâu thuẫn, thể hiện nội tâm phong phú và là điều thường tình đối với người con gái đang yêu. Vậy mới thấy họ đáng yêu như thế nào. Xuân Quỳnh rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật nhân hoá: “Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể”. Nếu sông không hiểu được bản thân mình như thế nào thì sóng sẽ không do dự, sẵn sàng từ bỏ sông để tìm ra bể lớn, đến nơi rộng mênh mông, cũng giống như người phụ nữ trong tình yêu, họ sẵn sàng bỏ tất cả những điều nhỏ nhen, ích kỷ, tìm đến với tình yêu lớn lao. Vậy mới thấy quan niệm độc đáo, mới mẻ của Xuân Quỳnh về tình yêu. Khổ thơ thứ hai được Xuân Quỳnh viết nên với niềm bồi hồi đầy sâu lắng: Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sao vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Từ “Ôi” cảm thán được thốt lên như đi sâu vào lòng người đọc. Một từ “Ôi” làm trái tim bao người xốn xang, rộn ràng vì tình yêu, nhất là tuổi trẻ. Lại thêm “ngày xưa”, “ngày sau”, “vẫn thế” như đinh ninh rằng tình yêu vẫn luôn và sẽ tồn tại mãi mãi cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Câu thơ “Nỗi khát vọng tình yêu” thể hiện khao khát mãnh liệt về tình yêu làm bao người trẻ phải “bồi hồi” nơi lòng ngực. Xuân Quỳnh rất thấu hiểu điều ấy, nó như chắc chắn thêm nữa tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu đẹp biết bao. Tiếp đến Xuân Quỳnh thắc mắc nghĩ đến nguồn gốc đầy bí ẩn của tình yêu mà không ai có thể lý giải một cách tường tận: Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên Đứng trước sóng bể bao la, rộn lớn mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên, rồi nghĩ đến em, sau cùng em nghĩ về biển lớn. Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy sự trân trọng của em đối với anh, đối với tình yêu giữa anh và em như thế nào. Đọc những câu thơ ấy, ta không thể phủ nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu, thật trong sáng biết bao. Câu hỏi tu từ cuối khổ “Từ nơi nào sóng lên?” như một nỗi niềm bâng khuâng về ngưồn gốc tình yêu. Và không chờ đợi lâu hơn nữa, Xuân Quỳnh đã tự mình lý giải về nguồn gốc của tình yêu: Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau? Xuân Quỳnh đã tìm được nguồn gốc của sóng “Sóng bắt đầu từ gió”, nhưng lại tiếp tục boăn khoăn khi không thể lý giải được gió bắt đầu từ đâu, em đã “chịu thua” mà thốt nên câu “Em cũng không biết nữa”. Lại tiếp câu thơ “Khi nào ta yêu nhau?” là một câu hỏi không có câu trả lời. Tình yêu thật dịu kỳ biết bao, nó đến mà không biết lúc nào nó đến. Vâng! Có yêu tha thiết thì mới nghĩ nhiều về tình yêu, về nguồn gốc của tình yêu đến thế. Càng tôn nên vẻ đẹp nơi tâm hồn của người con gái khi yêu. Có thể nói khổ thơ thứ năm rất đặc sắc, đó chính là nỗi nhớ nhung da diết em dành cho anh: Con sóng trên mặt nước Con sóng dưới lòng sâu Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Nghệ thuật nhân hoá vô cùng độc đáo, Xuân Quỳnh đã tinh tế khi khắc họa nỗi nhớ của sóng đối với bờ “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – Ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được”, “dưới lòng sâu” rồi lại “trên mặt nước”, từ nỗi nhớ không thể nhìn thấy cho đến nỗi nhớ thấy rõ mồn một, Xuân Quỳnh đã rất thành công về việc thể hiện nỗi nhớ của sóng, nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt và lâu dài tồn tại cả ngày lẫn đêm. Từ nỗi nhớ của sóng đối với bờ, Xuân Quỳnh liên hệ đến nỗi nhớ em dành cgo anh, nỗi nhớ ấy cũng không kém phần mãnh liệt so với nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của em tồn tại trong ý thức, xen lẫn cả vào tiềm thức. Có ai đó đã nói rằng nhớ chính là nhắc nhở mình đang yêu. Phải có yêu thì mới có nhớ, có yêu sâu đậm thì mới nhớ mãnh liệt. Một lần nữa, ta không thể phủ nhận nét đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Truyền thống làm nên nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam chính là lòng thủy chung. Và Xuân Quỳnh đã kgẳng định lòng thủy chung son sắt và sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để đến với tình yêu qua khổ thơ thứ sáu và bảy: Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫn ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dẫu muôn vời cách trở Nghệ thuật điệp cấu trúc rất độc đáo: “Dẫu…Dẫu” đã giúp Xuân Quỳng thể hiện lòng thủy chung của em đối với anh. Hai câu thơ đầu khổ sáu vô cùng đặc biệt “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”, đáng lẽ phải là xuôi Nam, ngược Bắc, nhưng điều đó có gì quan trọng? Khi yêu, dù cho mọi trật tự đều đảo lộn thì em vẫn một mực thủy chung, dù cho em ở bất kỳ nơi nào thì em vẫn luôn hướng về một phương, đó là phương anh. Chính tình yêu mặn nồng tha thiết mà cả trăm ngàn con sóng dù ở xa rất xa bờ nhưng chúng vượt qua tất cả khoảng cách địa lý để tìm đến bờ, đó là lẽ tự nhiên. Ẩn ý đằng sau ấy chính là nói lên em cũng sẽ như sóng kia, dù cho có bao chông gai, trở ngại em sẽ vượt qua tất cả để đến với anh, với tình yêu của đôi ta. Như ca dao có câu: “Thương nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, vạn đèo cũng qua” Người phụ nữ vốn rất nhạy cảm, trong tình yêu lại càng nhạy cảm hơn. Nếu ở hai khổ thơ trước, em rất lạc quan, tự tin vào tình yêu thì ở khổ thơ tiếp theo, em lại lo lăng, trăn trở về cuộc đời Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Xuân Quỳnh ý thức rất rõ về cái hữu hạn của cuộc sống, dẫn cuộc đới có dài đến đâu thì thời gian vẫn trôi đi mà không chờ đợo ai bao giờ, cũng giống như biển dẫu rộng lớn, vô tận thìmây vẫn bay về nơi xa. Chính vì ý thức được sự hữu hạn của cuộc đời nên Xuân Quỳnh khao khát được như sóng, tan vỡ rồi lại “tái sinh”, tồn tại mãi mãi giữa đại dương mênh mông, điều đó thật giống với tình yêu của em, sống mãi với tình yêu rộng lớn của cộng đồng: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàm năm còn vỗ. Xuân Quỳnh đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ năm chữ, dễ đi vào lòng người, lấy hình tượng sóng để diễn tả tâm trạng người phụ nữ, bên cạnh đó còn có các nghệ thuật nhân hoá, đối lập, ẩn dụ…thể hiện vẻ đẹp tinh tế của người phụ nữ trong tình yêu, một tâm hồn nhạy cảm, sâu lắng mà cũng mãnh liệt đầy ý nhị. Tình yêu của sóng và em có lẽ đã kết thúc trong bài thơ, nhưng đó chỉ là mới bắt đầu cho tình yêu của giới trẻ ngày nay. Tình yêu giới trẻ ngày nay rất phong phú, rộng lớn, gồm nhiều khía cạnh. Gần gũi với chúng em chính là tình yêu tuổi học trò. Tình yêu ấy rất trong sáng, nhẹ nhàng, có khi lại rất lãng mạn. Nhiều ngườỉ thường cho rằng yêu ở tuổi học trò sẽ ảnh hưởng đến việc học, sức khoẻ, gia đình…nhưng đó chỉ là quan niệm riêng của họ. Tình yêu tuổi học trò có thể được giới trẻ xem là động lực, là niềm tin để giúp các bạn trở thành đôi bạn cùng tiến, cùng học tập tốt hơn, cùng phấn đấu cho tương lai tươi sáng phía trước. Có những lúc điểm thấp, mâu thuẫn bạn bè hay gặp chuyện đau buồn trong cuộc sống, các bạn động viên, an ủi nhau, thể hiện sự cảm thông để đối phương cảm thấy dễ chịu hơn và sẽ vượt qua tất cả khó khăn để vươn lên sống tốt, học tập tốt. Tình yêu tuổi học trò còn giúp giới trẻ hoàn thiện nhân cách, điều chỉnh hành vi đạo đức cho phù hợp. Các bạn bỏ qua lỗi lầm cho nhau, đặt mình vào trường hợp của đối phương. Vậy mới thấy tính nhỏ nhen, ích kỷ dù ít hay nhiều tồn tại trong mỗi con người đã không còn là trở ngại (nói như vậy không có nghĩa là ai cũng có tính nhỏ nhen, ích kỷ, trong xã hội vẫn có nhiều bạn trẻ sống rất vị tha, bao dung). Bên cạnh đó, tình yêu tuổi học trò có khi còn cảm hoá được những bạn “cứng đấu”, có thể trước khi yêu, các bạn ấy chỉ mãi miết chơi bời, tụ tập đánh nhau, không lo học hành, hay cãi lời gia đình (chỉ một số ít), nhưng khi tình yêu đến, các bạn sẽ vì tình yêu, vì người mình yêu mà từ bỏ những cái vô bổ, sửa đổi bản thân, siêng năng học tập để chứng minh cho tình yêu của mình. Tình yêu như thế thật đáng trân trọng và đẹp biết bao. Thêm một tình yêu có phần đặc biệt, đó chính là tình yêu đồng giới không hiếm gặp trong giới trẻ hiện nay. Đa số mọi người trong xã hội hiện nay có cái nhìn không mấy thiện cảm về tình yêu đồng giới, có người còn cho đó là “bệnh” , là sai trái, là đáng lên án, bên cạnh đó còn có rất nhiều lời nói, những hành động thiếu tôn trọng và thể hiện sự kỳ thì của họ đối với tình yêu đồng giới, với những người đồng tính vì họ cho rằng tình yêu ấy đi ngược lại với quy luật tự nhiên, với truyền thống và thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều có suy nghĩ như vậy, một số ít người vẫn thấu hiểu, cảm thông và ủng hộ tình yêu đồng giới. Tình yêu ấy không có gì khác so với tình yêu khác giới, họ vẫn yêu chân thành, tha thiết bằng cả trái tim, chỉ khác là người họ yêu cũng có giới tính giống họ. Tình yêu đồng giới cũng đẹp và trong sáng như bao tình yêu khác. Họ – những người đồng tính vẫn yêu, vẫn nhớ về người mình yêu, vẫn nghĩ về tình yêu của mình, và họ vẫn luôn ra sức vun vén bồi đắp cho tình yêu. Những người yêu nhau cũng cùng nhau học tập, làm việc để xây đắp tương lai cho nhau, cùng bổ sung những khiếm khuết cho nhau để có thể cùng nhau sống tốt, lo lắng, chăm sóc nhau. Cũng có lúc họ xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhưng sau đó, họ tha thứ cho nhau và dưồng như hiểu và yêu nhau nhiều hơn. Nhiều bạn trẻ còn dành thời gian cùng nhau để làm những việc có ích cho xã hội như thăm và chăm sóc các cụ ở viện dưỡng lão (do Asian Librarys thực hiện), cùng chơi đùa và dạy các em nhỏ học tập…những việc làm của họ tuy nhỏ nhưng đã góp phần nào đó để làm cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Thử hỏi tình yêu như vậy thì có gì là sai trái, là đáng lên án, là không xứng đáng? Một tình yêu to lớn và đáng ca ngợi, đó là tình yêu quê hương, Tổ quốc, gia đình, yêu cả những người dân Việt Nam. Ở nước ta hiện nay, ngày càng nhiều các ban trẻ sẵn sàng gác lại chuyện học tấp để xây dựng tương lai mà lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của Tổ quốc thiêng liêng. Có khi rời đất liền, rời quê nhà thân thuộc, xa gia đình thân thương để đến với nơi hải đảo xa xôi, vùng biên giới, vùng đồi núi hiểm trở để thực hiện nghĩa vụ cao cả – bảo vệ Tổ quốc. Tuy chặng đường ấy đầy khó khăn, gian khổ, nhưng với tình yêu tha thiết của mình, họ – những người bạn trẻ luôn khắc sâu trong tim hai tiếng quê hương – luôn ở tinh thần và tư thế sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để theo đuỗi tình yêu lớn lao. Không những vậy, giới trẻ ấy còn thể hiện truyền thống của dân tộc Việt Nam, đó là tinh thần đoàn kết. Ở nơi quân ngũ, các bạn đến từ rất nhiều nơi, có kẻ Nam người Bắc, tuy khác nhau thứ tiếng, đặc trưng của tứng vùng miền, nhưng đều giống nhau ở chỗ trái tim họ đập chung một nhịp đập, đập vì Tổ quốc thân yêu, gia đình yêu thương, họ sẵn sàng hoà nhập, cùng tập luyện, học tập Đảng, sinh hoạt đoàn… Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận giới trẻ vì tình yêu mà có những hành động thiếu suy nghĩ, gây hại cho mình, cho người (hiện tượng đánh nhau giành người yêu, đánh ghen, nguy hiểm hơn nữa là giết nhau vì tình). Bên cạnh đó, giới trẻ yêu không đúng chuẩn mực làm học tập sa sút, ảnh hưởng gia đình, cha mẹ lo lắng, buồn khổ. Cũng có một bộ phận giới trẻ yêu một cách cuồng dại, non nớt dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về sau (như việc mang thai khi chưa đủ tuổi và chưa chuẩn bị tinh thần gây ảnh hưởng đến sức khoẻ mẹ và bé,…). Và cũng có một số bạn trẻ rất hẹp hồi, ích kỷ trong tình yêu, ghen tuông một cách mù quáng. Tình yêu ấy thật đáng chê trách và đáng suy ngẫm, không nên xảy ra trong xã hội, để xã hội tươi sáng, tốt đẹp hơn. “Sóng” là bài thơ rất hay về tình yêu của Xuân Quỳnh, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Xuân Quỳnh cũng như vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Và cũng rất gần gũi với tình yêu giới trẻ hiện nay, thật đẹp và tinh khiết. Riêng em, tình yêu còn tùy vào “duyên” và yêu sao cho phải đạo, để mọi người không lên án, để gia đình không lo lắng, buồn phiền mà còn cảm thấy vui và tự hào.

Vẻ Đẹp Nữ Tính Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh

          Trong đời sống văn học, có một số nhà văn nhà thơ nữ rất được độc giả nữ mến mộ, thậm chí đến mức cuồng nhiệt, nhưng lại không “được lòng” nam giới. Tôi nghĩ một phần có lẽ do tiếng nói đấu tranh cho nữ quyền trong văn thơ của họ mạnh mẽ quá chăng? Mạnh mẽ đến mức khiến nam giới phải chợn, phải e ngại, thậm chí… hậm hực! Nhưng với Xuân Quỳnh, tiếng thơ của chị có một sức hấp dẫn đắm say đối với cả độc giả nam lẫn nữ. Tôi cho rằng, đó là vì vẻ đẹp nữ tính thật đậm đà trong thơ của chị. Bài thơ Sóng là một ví dụ.

          Mỗi lần nhìn tấm ảnh Xuân Quỳnh với gương mặt phúc hậu, với ánh mắt đằm thắm và nụ cười tươi tắn, tôi luôn hình dung đến trái tim đàn bà ấm áp của chị. Xuân Quỳnh đã đến với thơ ca bằng con người thành thực nhất của mình. Chị sống trong đời như thế nào thì cất tiếng trong thơ như thế ấy. Một Xuân Quỳnh khát khao tình cảm từ những ngày thơ bé, khi chị sống xa cha và mất mẹ, nên có một Xuân Quỳnh trong thơ luôn tha thiết yêu thương. Một Xuân Quỳnh từng đi qua đổ vỡ, mất mát nên có một Xuân Quỳnh trong thơ luôn ao ước sự trọn vẹn, vững bền. Một Xuân Quỳnh tận tụy và bao dung trong tình yêu nên có một Xuân Quỳnh trong thơ luôn nồng nàn với nguyện ước dâng hiến. Xuân Quỳnh ở ngoài đời hay Xuân Quỳnh ở trong thơ, bao giờ cũng là một trái tim đàn bà dịu dàng mà say đắm. Người đàn bà ấy, mãnh liệt vì yêu mà cũng khiêm nhường vì yêu. Sóng chính là lời tỏ bày vừa mãnh liệt vừa khiêm nhường ấy.

          Bài thơ lựa chọn một ẩn dụ quen thuộc cho tình yêu: sóng. Đó là một ẩn dụ có màu sắc trẻ trung, sôi nổi, mãnh liệt. Bởi thế mà khi viết Biển, Xuân Diệu đã mượn sóng để thể hiện sự cuồng nhiệt và khao khát: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt. Nhưng với Xuân Quỳnh, sóng là: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ. Có dữ dội, có ồn ào như ai cũng biết, ai cũng thấy, nhưng Xuân Quỳnh còn nhìn thấy một vẻ khác của sóng, đó là dịu êm và lặng lẽ. Bên cạnh cái mãnh liệt nồng nàn, là cái dịu dàng và sâu lắng, làm nên vẻ đẹp nữ tính của hình tượng sóng. Và như thế, sóng nhất định phải là ẩn dụ cho trái tim tình yêu của người phụ nữ.

          Phụ nữ bao giờ cũng thế, đến với tình yêu là mang theo ước mong hiểu và được hiểu. Được thấu hiểu, với người phụ nữ, là hạnh phúc, và chỉ cần như thế, họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn trái tim và cuộc đời mình, không toan tính thiệt hơn. Xuân Quỳnh đã thành thực giãi bày khát vọng ấy của mình: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể. Hành trình từ sông ra bể ấy, theo tôi, chính là tiếng lòng thành thực nhất của người phụ nữ: dám khát khao, dám kiếm tìm, dám quyết liệt, dám theo đuổi đến cùng, chỉ để mong cầu một chữ: “hiểu”. Phải là biển cả mênh mông, khoáng đạt, ẩn dụ cho một tình yêu lớn, tình yêu đích thực, mới xứng đáng với hành trình mạnh mẽ ấy. Chỉ ở trong một tình yêu lớn lao, đích thực, trái tim người phụ nữ mới được hiểu, được trọn vẹn hiến dâng. Chẳng phải nữ thi sĩ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng đã từng trăn trở và ao ước điều đó hay sao: Trời ơi/ Làm sao có một cuộc đời/ Để tôi ném cuộc đời mình vào đó/ mà không hề cân nhắc đắn đo/ Rằng cuộc đời ấy vẫn còn chưa đủ. Và tôi nghĩ, trong cuộc đời Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ chính là tình yêu lớn đó, nơi chị hiểu và được hiểu, nơi chị có thể tận tụy và bao dung, có thể hết lòng hy sinh bằng một trái tim chân thành và tha thiết nhất. Nơi tình yêu ấy, chị có thể, bằng bàn tay vốn in hằn tất cả những cay đắng vất vả của đời người, thật dịu dàng chăm chút cho tình yêu: Trong tay anh tay của em đây/ Biết lặng lẽ vun trồng gìn giữ/ Trời mưa lạnh tay em khép cửa/ Tay phơi mền, vá áo cho anh/ Tay cắm hoa, tay để treo tranh/ tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc. Hiểu trái tim đàn bà tha thiết với hạnh phúc đời thường của Xuân Quỳnh, mới thật hiểu cái ước ao chân thành ẩn sau cái hành trình tưởng như vô cùng quyết liệt và dứt khoát ấy: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.

          Cũng là đi tìm khởi nguồn của tình yêu, cũng là mong muốn cắt nghĩa tình yêu, nhưng cái lắc đầu bối rối của Xuân Quỳnh, mới thật dịu dàng, mới thật nữ tính: Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau. Có lẽ bắt nguồn từ mong muốn hiểu và được hiểu mà khi yêu, người con gái thường đặt ra muôn vàn câu hỏi: Vì sao, khi nào ta yêu nhau? Nhưng câu hỏi của Xuân Quỳnh chẳng làm rối lòng người, bởi lẽ Xuân Quỳnh đã tự biết khiêm nhường: Em cũng không biết nữa. Nó không phải là một sự chất vấn, nó chỉ là nỗi băn khoăn của một trái tim mà tình yêu đang chiếm lĩnh toàn phần. Đọc câu thơ này, không hiểu sao tôi cứ liên tưởng đến câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi miêu tả sông Hương: dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Có lẽ bởi cái chất nữ tính dịu dàng, kín đáo thấm vào trong dáng điệu của người con gái, cứ làm ta thấy mềm lòng đi.

          Ngay cả nỗi nhớ, vốn được coi là quy luật của tình yêu, không phải là đặc quyền của riêng giới nào, thì Xuân Quỳnh vẫn có cách biểu tỏ rất riêng, như một trạng thái chỉ thuộc về trái tim phụ nữ: Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức. Nỗi nhớ khiến trái tim cồn cào không thể ngủ, ở đó chỉ có hình ảnh anh ngự trị. Tôi nghĩ rằng, nỗi thao thức đêm trường ấy, là thuộc tính của phụ nữ. Chẳng phải ca dao, chỉ khi nói đến nỗi nhớ của người con gái, mới diễn tả nỗi thao thức ấy sao: Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt/ Mắt thương nhớ ai/ Mắt ngủ không yên.

          Có lẽ không một người đàn ông nào không mềm lòng, khi nghe hai chữ phương anh tha thiết đến nhường này: Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương. Cuộc đời đầy biến động, không gian thật mênh mông, kiếp người là hữu hạn, đó là ý thức thường trực trong thơ Xuân Quỳnh. Nhưng với chị, có một thứ bền bỉ vượt lên tất cả, là tình yêu – một tình yêu chung thủy, như nhất, trọn vẹn và trường cửu. Tình yêu ấy đủ sức xác lập một phương mới trong lòng người phụ nữ: phương anh. Hai chữ phương anh ấy, đủ để làm bất kì người đàn ông nào cũng cảm thấy tự hào và hạnh phúc, khi thấy mình được vinh danh, được độc tôn trong lòng người phụ nữ. Và người phụ nữ, cũng đẹp lên trong chính sự khiêm nhường ấy, bởi khiêm nhường trong tình yêu cũng là một cách để tôn vinh chính tình yêu của họ.

          Tình yêu cần sự mãnh liệt đắm say, nhưng cái dịu dàng sâu lắng thì mới làm nên sức hấp dẫn muôn đời của phái nữ. Cho nên, dẫu sóng là một hình tượng không xa lạ trong thơ ca viết về tình yêu, nhưng con sóng dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ thì mãi mãi thuộc về riêng Xuân Quỳnh, thuộc về trái tim nữ thi sĩ của hạnh phúc đời thường.

( Những ngày cuối năm 2020)

NGUYỄN THỊ MINH TÂM

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Bác Qua Bài Ngắm Trăng

Đọc xong bài thơ Ngắm trăng em hãy nêu lên cảm nhận về vẻ đẹp trong tâm hồn của Bác Hồ trong bài thơ Ngắm trăng. Hãy nêu ngắn gọn và đầy đủ những ý chính để người đọc hiểu được vẻ đẹp của những người chiến sĩ ngay trong hoàn cảnh khó khăn nhất.

Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài Ngắm trăng

Ngắm trăng là bài thơ được trích trong tập Nhật kí trong tù, đây là thời gian bác ngồi trong tù và sáng tác nên những vần thơ rất hay.

Bài thơ được Bác viết trong một đêm trăng đẹp, nhìn qua khe cửa sổ thưởng thức một đêm trắng với khung cảnh trong tù nhưng vẫn ung dung, tự tại.

Qua bài thơ vẻ đẹp tâm hồn của Bác được thể hiện rất rõ nét:

– Vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn trong ngục tù Bác vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng, thưởng thức một đêm trăng đẹp đúng nghĩa. Điều đó thể hiện tâm hồn cao đẹp, giao hòa cùng thiên nhiên của một người nghệ sĩ chân chính.

– Bài thơ ngắm trăng cũng nói lên tinh thần thép của Bác, vượt qua mọi gian khổ khó khăn bị giam cầm trong ngục tù nhưng Bác vẫn yêu và hướng đến cái đẹp, hướng đến bầu trời tự do nơi có những ánh sáng lung linh của đêm trăng đẹp. Đó cũng là tinh thần vượt lên mọi khó khăn vươn đến những điều tốt đẹp hơn của những người chiến sĩ cách mạng kiên cường, không khuất phục số phận.

Bài thơ Ngắm trăng được viết trong hoàn cảnh không như những bài thơ ngắm trăng thông thường khi Bác đang ở hoàn cảnh ngặt nghèo của xiềng xích kẻ thù giam cầm. So với bài thơ “Rằm tháng giêng” hay là “Tin thắng trận” hoàn cảnh sáng tác và thưởng thức đêm trăng có khác nhau nhưng đều toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Bác, đó là vẻ đẹp chung của những người chiến sĩ cách mạng.

Lớp 8 –

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Bác Qua Bài Thơ Ngắm Trăng (Dàn Ý + 5 Mẫu)

Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng (Dàn ý + 5 Mẫu), Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng gồm dàn ý chi tiết cùng 5 bài văn

Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng gồm dàn ý chi tiết cùng 5 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 8 trau dồi vốn từ, rèn luyện kỹ năng viết văn cho mình. Nhờ đó sẽ chuẩn bị tốt cho các bài kiểm tra, bài thi học kì 2 sắp tới. 

Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng

1. Mở bài: Giới thiệu chung

2. Thân bài

* Khái quát hoàn cảnh của Bác trong bài thơ: bị giam cầm trong cảnh tù ngục, thiếu thốn về vật chất và tinh thần,…

* Vẻ đẹp tâm hồn Bác

– Tâm hồn giàu chất nghệ sĩ, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết:

+ Tình yêu thiên nhiên: yêu cái đẹp luôn thường trực trong trái tim Bác, bởi Bác là nhà thơ, là người nghệ sĩ biết trân trọng và sáng tạo cái đẹp. Vẻ đẹp đêm trăng đã khiến Bác băn khoăn, bối rối

+ Trước vẻ đẹp đêm trăng, tâm hồn Bác đã thăng hoa và trở thành một thi gia giao hòa, giao cảm đặc biệt với trăng

– Tâm hồn nghệ sĩ với phong thái ung dung tự tại, lạc quan cách mạng và khát khao tự do cháy bỏng.

+ Vượt lên trên mọi gian khổ, giam cầm, tra tấn của nơi lao tù, Bác không hề bi quan, ngược lại vẫn thanh thản, ung dung, tự tại, hướng tới vẻ đẹp vầng trăng.

+ Song sắt nhà tù không giam hãm được khát khao tự do mãnh liệt của Bác, Bác đã vượt ngục tinh thần bằng thơ.

3. Kết bài: Tổng kết vấn đề

Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng

Bài văn mẫu 1

Trăng từ lâu đã trở thành một thứ ánh sáng vô cùng linh lung huyền ảo mà quen thuộc trong thi ca. Dường thi thi sĩ nào cũng yêu thích người bạn trăng của mình mà “phát lời” ra ngôn ngữ những bóng trăng đổ tràn trên trang giấy. Có lẽ cũng xuất phát từ một tâm hồn yêu trăng như thế mà ngay trong cảnh ngục tù tối tăm, Bác vẫn có những vần thơ về trăng thật sinh động, dạt dào.

Chân dung của Bác hiện lên với một hoàn cảnh không hề thơ mộng:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

(Trong tù không rượu cũng không hoa,Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ mở đầu là sự diễn tả hoàn cảnh mà Bác đang mang, đó là trong ngục, mà trong ngục tối thì “không rượu, không hoa”. Câu thơ hiển nhiên được nói với một ngữ điệu thản nhiên như không. Trong tù, điều kiện không có, đến nước cũng phải thay phiên để uống hay rửa mặt thì làm sao lại có thể có rượu, có hoa. Thế nhưng khi “đối” diện với cảnh đẹp thiên nhiên thì “khó hững hờ”. Có lẽ rằng những thiếu thốn về mặt vật chất trong tù không làm cho tâm trạng trước cảnh đẹp thiên nhiên của người tù giảm đi hay cảnh thiên nhiên đêm ấy đẹp tới mức những thiếu thốn kia bị lu mờ cả? Thiên nhiên tươi sáng mời gọi con người cùng chung vui khiến cho không một tâm hồn nào có thể “hững hờ” với nó đặc biệt, Bác có một tâm hồn thi sĩ vô cùng nhạy cảm lại càng không thể cảm thấy rạo rực hứng cảm trước một cảnh đêm đẹp. Và ta có chút tò mò rằng vì đâu mà đêm ấy có vẻ đẹp mê hồn đến vậy, thì ra là do có sự xuất hiện của vầng trăng:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,Nguyệt tòng song khích khán thi gia

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Khi xưa, các tao nhân mặc khách có thú vui tao nhã là uống rượu, thưởng nguyệt, làm thơ. Bác lúc này với hoàn cảnh không có rượu nhưng vẫn thưởng nguyệt, làm thơ hết sức say sưa. Hai câu thơ cuối tạo sự đăng đối cho ý thơ. Người thì từ trong nhà lao tăm tối, “hướng” đôi mắt cùng tâm hồn dễ rung cảm của mình lên bầu trời cao rộng bên ngoài qua khung cửa sắt nhỏ để ngắm vẻ đẹp của ánh sáng vầng trăng, còn vầng trăng thì được nhân hóa như một con người biết suy nghĩ, biết ghé vào song sắt để ngắm nhìn thi gia. Đến đây ta có cảm giác trăng và người tuy hai mà một, như những người bạn tri âm tri kỉ tuy có khoảng cách về địa lí nhưng tâm hồn họ lại có thể tìm đến với nhau dễ dàng. Song sắt nhà tù kia chẳng qua chỉ có thể giam giữ, tách biệt thân thể Người với thế giới bên ngoài bằng hình thức chứ không thể giam giữ được tâm hồn Người. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng vẫn tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, có lẽ chính vì niềm tin yêu ấy mà đến ánh trăng cũng muốn tìm đến soi rọi vào góc tối tăm của nhà tù để ở đó, sáng ngời lên hình ảnh của một thi nhân chân chính. Khi này, Người không phải là một tù nhân nữa mà trở thành “thi gia”. Bài thơ chính là vẻ đẹp của một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu trăng, một tâm hồn thi gia vô cùng tinh tế, nhạy cảm.

Thơ điệu hồn của cảm xúc, là tiếng nói của tâm hồn, bài thơ là sự phản ánh rõ nét tâm hồn Bác với sự lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên và đặc biệt là với trăng.

Bài văn mẫu 2

Bài thơ “Ngắm trăng” được trích trong tập “Nhật kí trong tù”. Tập thơ được viết trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi Bác Hồ từ Pác Bó bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Đến thị trấn Túc Vinh, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị đày đọa hơn một năm trời mới được thả tự do. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh, vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vừa chứng minh cho tinh thần lạc quan yêu đời của Bác trong hoàn cảnh tù đày.

Đọc bài thơ, ta không khỏi cảm phục tinh thần và ý chí nghị lực của Bác trong hoàn cảnh khắc nghiệt gian khó. Chốn lao tù ngỡ chỉ có tối tăm và lạnh lẽo, vậy mà tâm hồn Bác vẫn vượt lên trên những thứ đen tối đó để hướng ra ngoài, đến một thế giới tươi đẹp có thiên nhiên bầu bạn:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoaĐối thử lương tiêu nại nhược hà?”

(Trong tù không rượu cũng không hoaCảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ mở ra một hoàn cảnh khắc nghiệt: trong tù không có rượu cũng chẳng có hoa. Điệp từ “vô” (không) lặp lại hai lần càng nhấn mạnh cái hiện thực nghiệt ngã ấy. Uống rượu và thưởng hoa vốn là hai thú vui tao nhã của thi nhân xưa, cũng là chất xúc tác tạo cảm hứng để thi sĩ sáng tác nên những áng thơ trữ tình. Trái ngược với thực tế trốn nhà lao, câu thơ thứ hai vang lên đầy bất ngờ:

“Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Theo câu thơ chữ Hán, ba chữ “nại nhược hà”- biết làm sao đây vang lên chất chứa bao băn khoăn và nỗi niềm tâm sự. Bác đối diện với trăng khi không có rượu cũng chẳng có hoa, chỉ có một tâm hồn cao đẹp đang bị kìm hãm tự do sau song sắt nhà tù. Thế nhưng, điều đó không ảnh hưởng đến việc Bác tìm đến thiên nhiên tươi đẹp, hòa mình vào với thiên nhiên đất trời. Vượt lên trên tất cả, Bác đã có một cuộc vượt ngục bằng tinh thần đầy độc đáo: “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”.

Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ làm sáng lên phẩm chất của người tù cách mạng: mặc cho hoàn cảnh hiện tại khắc nghiệt gian khổ, Bác vẫn ung dung, tự tại, lạc quan, yêu đời:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệtNguyệt tòng song khích khán thi gia.”

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Bác lặng lẽ ngắm vầng trăng qua song sắt của nhà giam. Bức tường nhà lao chật hẹp không thể ngăn cản tâm hồn lãng mạn của Bác tìm đến với vầng trăng xinh đẹp, gửi theo đó khát vọng tự do. Và như để lại tấm chân tình của Bác, vầng trăng đáp lại bằng cách “khán thi gia” qua khung cửa sổ nhỏ. Trăng và Bác đã thực sự trở thành tri âm tri kỉ. Thi sĩ đã không còn lẻ loi giữa đêm khuya thanh vắng ở chốn lao tù lạnh lẽo. Tâm hồn lãng mạng và phong thái ung dung, tinh thần lạc quan ấy cũng thể hiện chất thép trong thơ Hồ Chí Minh: không bao giờ khuất phục thực tại mà luôn tìm cách vượt lên trên thực tại. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn, một nhân cách lớn vừa có sự tài hoa lãng mạn của thi sĩ, vừa có cái phi thường của người chí sĩ cách mạng.

Vẻ đẹp tâm hồn của Bác dù ở trong hoàn cảnh nào cũng ngời sáng lên những phẩm chất cao cả của một con người vĩ đại. Chính tâm hồn lãng mạn cùng tinh thần lạc quan đã tạo nên sức mạnh giúp Bác vượt qua hết khó khăn này đến khó khăn khác, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.

Bài văn mẫu 3

“Thơ Bác tràn đầy ánh trăng” – câu nói này quả thật không sai. Bác đã ngắm trăng và viết nhiều bài thơ trăng. Bác có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng, tập thơ của Bác tràn ánh trăng: “trăng lồng cổ thụ”, “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Trăng xuất hiện nhiều trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc với những bài thơ trăng của mình. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết của Người :

Trong tù không rượu cũng không hoa,Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Cảm hứng thơ ca được bắt nguồn từ rượu và hoa. Thi nhân gặp cảnh trăng đẹp, thường ngồi thưởng thức rượu và hoa. Nhưng nhà thơ ở trong tù làm sao có rượu và hoa để thưởng thức. Chỉ có nhà thơ và trăng, một người một cảnh ngắm nhau, tạo nên vẻ đẹp nên thơ, hữu tình. Với lòng yêu thiên nhiên tha thiết, với phong thái ung dung, mặc dù không rượu không hoa và cảnh tù ngục khắc nghiệt, người tù vẫn thả hồn tự do, ung dung tận hưởng vẻ đẹp của trăng. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Người vẫn có sự rung động mãnh liệt trước đêm trăng. Đêm trăng đẹp như vậy, với Bác thật là “khó hững hờ”. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối trước trăng, một cảm xúc rạo rực xao xuyến.

Sang 2 câu thơ tiếp theo, nhà thơ vẽ ra trước mắt ta bức tranh về 2 người bạn tri âm đang trò chuyện với nhau: Người tù và Trăng. Mặc dù giữa Bác và trăng có sự ngăn cách bởi bức tường của nhà lao, hiểu theo nghĩa ẩn dụ, đó là sự ngăn cách tàn bạo và lạnh lùng của chế độ áp bức bóc lột với người tù Cách mạng. Nhưng cũng nhờ đó, cho thấy tình yêu thiên nhiên đến say đắm và phong thái ung dung của Bác Hồ. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái.

Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”. Bác yêu trăng và đối diện đàm tâm với trăng. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do.Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng. Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác: Bác yêu thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên, ở Bác là kết tinh của tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ.

Ngắm trăng là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Bài thơ thật là một kiệt tác vĩ đại của bậc vĩ nhân.

Bài văn mẫu 4

Nhớ đến Bác Hồ chúng ta không chỉ nhớ đến một vị lãnh tụ dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng mà chúng ta còn nhớ đến phong thái ung dung, lạc quan của Người. Điều ấy được thể hiện qua một loạt các sáng tác của Bác, nhất là ở tập “Nhật kí trong tù”, tiêu biểu là bài thơ “Ngắm trăng” được Bác viết vào tháng 8 năm 1942:

“Trong tù không rượu cũng không hoa,Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Trong suốt thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giải đi gần ba mươi nhà giam của tỉnh Quảng Tây, Bác đã viết tập thơ “Nhật kí trong tù” với mục đích “ngâm ngợi cho khuây”. Có lẽ trong hoàn cảnh bị giam giữ khổ cực như vậy ít ai có hứng thú làm thơ. Nhưng với Bác thì khác, một con người yêu thiên nhiên không thể quay lưng lại với cái đẹp. Chẳng vậy mà Người đã viết:

“Trong tù không rượu cũng không hoa,Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ”;

Hình ảnh người nghệ sĩ hiện lên thật rõ nét với tình yêu trăng, yêu thiên nhiên và tình yêu cái đẹp sâu sắc. Nói cách khác, hình ảnh Bác Hồ hiện lên qua bài thơ đầy chất thi sĩ, lãng mạn. Dù cho hoàn cảnh của thực tại có thiếu thốn, tù túng đến đâu đi chăng nữa thì Bác vẫn hướng ra vẻ đẹp của ngoại cảnh. Hoa cũng là biểu tượng của cái đẹp và thiếu sự góp mặt của cái đẹp kiêu sa, trang trọng ấy trong buổi ngắm trăng quả là một sự thiếu hụt lớn. Hoa và rượu sẽ giúp cho buổi ngắm trăng thêm thi vị nhưng với Bác, được tận hưởng vẻ đẹp của trăng cũng đã là một điều quý giá. Hơn nữa, giữa chốn ngục tù với thân phận một kẻ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam phải chịu nhiều khổ cực thì làm sao có thể có được những thứ đó?

Nếu không phải con người yêu thiên nhiên thì Bác đã “hững hờ” và không quan tâm đến ngoại cảnh. Nhưng Bác lại là người “Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu) nên trước cảnh đẹp Bác mang tâm trạng bối rối, chưa biết đón tiếp trăng như thế nào. Vì sao Người lại rơi vào tình trạng khó xử như vậy? Người xưa thường ngắm trăng trong một không gian thoáng đãng tạo sự thư thái, có rượu, có hoa để thêm phần thi vị. Còn Bác Hồ ngắm trăng trong hoàn cảnh không được tự do, Bác ngắm trăng trong tù ngục tăm tối không có hương hoa thơm ngát cũng không có men rượu say nồng. Xiềng xích hay dây trói cũng chỉ giam cầm được thân thể Bác mà không thể nào giam cầm được tinh thần người chiến sĩ cách mạng của dân tộc.

Làm sao Bác có thể thờ ơ được với người bạn tri kỷ này đây? Vượt lên mọi sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng tất cả những gì mình có. Đó là phong thái ung dung, sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của nước nhà:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh Bác Hồ với tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn thấy được hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng vượt lên trên bao gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên, ánh trăng. Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lí tưởng cộng sản. Bài thơ của Người còn thể hiện một tinh thần “thép” trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ và khắc nghiệt. Chính tình yêu thiên nhiên đã làm nên chất “thép” ngời sáng có sức mạnh chiến thắng mọi nghịch cảnh của Bác. Chất “thép” trong thơ Bác còn là tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc, nhân dân. Nó còn là sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng, vào con đường giải phóng dân tộc. Tinh thần ấy cũng được Bác thể hiện trong bài thơ “Tự khuyên mình”:

“Ví không có cảnh đông tàn,Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.Nghĩ mình trong bước gian truân,Tai ương rèn luyện, tinh thần thêm hăng”.

Mặc dù bị ngăn cách bởi những song sắt của nhà tù nhưng người và trăng vẫn hướng đến nhau, vượt qua mọi khoảng cách và rào cản để cùng đồng điệu. Trăng đã “nhòm” tận vào khe cửa để “ngắm nhà thơ” thì hà cớ gì người nghệ sĩ lại từ chối khoảnh khắc đó. Ánh trăng soi chiếu cả không gian, ánh sáng ấy còn tượng trưng cho ánh sáng cách mạng đưa dân tộc ta thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Sự đăng đối của hai hình ảnh người và trăng cùng biện pháp nhân hóa “trăng – nhòm khe cửa – ngắm nhà thơ” đã góp phần tạo nên sự thành công trong việc khắc họa hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc cổ điển kết hợp với màu sắc hiện đại đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Bài thơ có cách kết thúc đầy bất ngờ nhưng lại hết sức hợp lí. Mở đầu bài thơ là từ “ngục trung” và kết thúc bài thơ là từ “thi gia” đã giúp người đọc thấy được hình ảnh của Bác vượt lên trên hoàn cảnh để có được phong thái ung dung, thư thái ngắm trăng và ẩn đằng sau tình yêu thiên nhiên ấy là một tinh thần “thép” rất đáng trân trọng.

Bài văn mẫu 5

Với bài thơ Ngắm trăng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu say đắm với ánh trăng trong đêm vắng dù Người đang trong hoàn cảnh lao tù tăm tối, cực khổ Từ bao đời nay, trăng đến với nhà thơ như một người bạn tâm giao, cùng sẻ chia bao nỗi niềm khó nói của thi nhân. Bài thơ mở ra với không gian chật hẹp, tù túng là nhà tù – nơi giam cầm những chiến sĩ cách mạng yêu nước.

Bằng biện pháp liệt kê, Người đã khắc họa cuộc sống thiếu thốn nơi đây: không rượu, không hoa. Hoa là biểu tượng của cái đẹp, rượu là chất men say ru hồn ta trong đêm khuya yên tĩnh. Thiếu sự góp mặt của cái đẹp kiêu sa, trang trọng ấy trong buổi ngắm trăng quả là một sự thiếu hụt lớn.

Nhưng với Bác, được tận hưởng vẻ đẹp của trăng đêm nay cũng đã là một điều quý giá. Câu thơ cho thấy tinh thần lạc quan, dù đang đối mặt với hiểm nguy nhưng tâm hồn Bác vẫn say sưa với cái đẹp, hướng thân thể ra ngoài lao với ánh trắng tự do trên bầu trời cao rộng. Vượt lên sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng một phong thái ung dung đón nhận và sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Trăng và Người ở tư thế đối diện: người ngắm trăng, trăng “nhòm” khe cửa, tuy hai mà một. Ánh trăng phải “nhòm” qua song sắt chật hẹp để ngắm được rõ nét hơn khuôn mặt thi sĩ, để đồng cảm, sẻ chia với hoàn cảnh khó khăn hiện tại của người chiến sĩ. Người đã vượt lên trên bao gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên. Trăng không còn là vật vô trí mà như hóa thân, có tâm hồn và tình yêu như con người.

Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lí tưởng cộng sản. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu, lòng say đắm thiên nhiên mà còn thể hiện một tinh thần “thép” trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ. Như vậy, song sắt và xiềng xích nhà tù chỉ có thể giam cầm thân thể chứ không thể ngăn cấm được tâm hồn và lí tưởng cộng sản bừng cháy trong con người ấy.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Người Phụ Nữ Trong Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!