Xu Hướng 12/2023 # Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Bếp Lửa # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Bếp Lửa được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”

Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quên hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: ‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vẫn thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô. Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.

Nêu Cảm Nhận Của Bản Thân Về Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt

Khu nhà bếp lửa (Bằng Việt) – Khóa học Văn 9 – Ngữ Văn 9 – cô Chử Thu Trang Đôi nét về tác giả Bằng Việt và bài thơ Khu nhà bếp lửa

Trước lúc tìm hiểu và cảm nhận hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa, bạn cần phải nắm được những nét chính về tác giả Bằng Việt cũng như tác phẩm.

Mỗi nhà thơ đều sở hữu nét riêng trong chất thơ và khi đối chiếu với Bằng Việt nét riêng này được thể hiện ở chất suy tưởng giàu tính trí tuệ và rất hào hoa. Giống như tác giả Đỗ Thuận An đã từng nhận xét: “Thế giới nghệ thuật và thẩm mỹ thơ Bằng Việt là một thế giới mới mẻ, phong phú và đa dạng”, “đặc biệt quan trọng sự có mặt của chân dung tinh thần tự họa của tác giả cùng với những nét tư tưởng độc đáo, thâm thúy về con người và cuộc đời đã thực sự góp phần tạo nên diện mạo đầy cá tính thơ cho Bằng Việt”.

Bằng Việt bắt đầu viết thơ từ giữ khoảng tầm trong thời gian 60 của cuộc kháng chiến chống Mỹ với Hương cây – Khu nhà bếp lửa (tập thơ in chung với Lưu Quang Vũ). Bằng Việt đã trải qua một đoạn đường thơ dài ra hơn 50 năm. Tuy nhiên khi nhắc đến Bằng Việt, bạn đọc sẽ thường nhớ ngay đến bài thơ trong sách giáo khoa Ngữ Văn “Khu nhà bếp lửa”. Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi tác giả còn là một một sinh viên năm thứ hai đang học tập xa quê nhà (Liên Xô).

“Một căn phòng nhà bếp lửa lẩn vẩn sương sớm Một căn phòng nhà bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Phân tích và cảm nhận hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa

Nhẹ nhàng, giản dị và thâm thúy là từ khi người ta nhắc đến “Khu nhà bếp lửa”. Bài thơ là những cảm xúc dạt dào về tình bà cháu. Hình ảnh người bà hiện lên thân thuộc, giản dị và thương yêu. Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích bài thơ hiện lên những ưu tư, trăn trở về một nỗi lo, những suy nghĩ về cuộc đời, về đất nước. Cảm nhận hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa sẽ thấy dáng dấp người phụ nữ Việt tảo tần sớm khuya, chi chút và hi sinh hết mình vì gia đình…

Hình ảnh “Khu nhà bếp lửa” có thời điểm sáng mãnh liệt, có thời điểm lẩn vẩn nhưng lúc nào thì cũng ấp iu nồng đượm và hình ảnh người bà hiện lên một cách nhẹ nhàng trong trái tim của người cháu.

Nói theo một cách đây đó chính là ba câu thơ khơi lên mạch nguồn cảm xúc cho toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh căn phòng nhà bếp lửa “lẩn vẩn sương sớm” là hình ảnh giàu tính chất tả thực. Một căn phòng nhà bếp lửa ẩn hiện lung linh, lẩn vẩn cháy vào sớm mai. Những ngọn lửa đó đâu thể tự nhiên mà cháy mà nó đã được sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người bà.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Đồng thời, những ngọn lửa lung linh “lẩn vẩn” và ấm áp ấy đã gợi lên một cảm giác đầy thân thương trong tâm của người cháu. Một căn phòng nhà bếp lửa được thắp lên từ chính vì sự yêu thương, lo lắng từ người bà. Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa là một người tảo tần qua năm tháng đầy nắng mưa, cực nhọc trong cuộc sống.

Ba câu thơ, không có câu nào trực tiếp miêu tả đến bà. Nhưng Bằng Việt đã rất khéo léo sử dụng biện pháp ẩn dụ để gợi ra cho những người đọc về một người bà bao dung, nhân hậu. Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên thật sinh động và chân thực. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” diễn tả một vòng tuần hoàn của thời gian, ẩn dụ cho những khó khăn vất vả trong đời bà. Tình cảm bà cháu cũng theo năm tháng ấy mà càng trở nên lớn dần thêm.

Theo dòng cảm xúc của 3 câu đầu, hình ảnh của bà hiện lên ngày càng rõ nét ở những câu thơ tiếp theo.

“Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm căn phòng nhà bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà…”

Sống trong cái đói, sống trong những ngày tháng cơ cực nhất của cuộc đời, nhưng điều làm người cháu ghi nhớ nhất không phải là những cơn đói, những bữa cơm ngon mà lại là những làn khói căn phòng nhà bếp. Làn khói hun làm nhèm mắt nhưng lại đáng nhớ, đáng trân trọng bởi vì đó là làn khói từ sự yêu thương, sự tảo tần của bà.

Khổ thơ không một lần trực tiếp nhắc đến bà nhưng vẻ đẹp về một người bà luôn hiện hữu. Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên với biết bao tảo tần nuôi cháu vượt qua những giông tố của cuộc đời. Bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ tựa vững chắc giàu tình yêu thương, niềm tin tưởng, nuôi dạy đứa cháu nhỏ khôn lớn, trưởng thành suốt trong thời gian ròng kháng chiến. Sự yêu thương và đức hi sinh của bà lớn lao như vậy đã trở thành một kỉ niệm mà khi nhớ lại nó khiến cho “sống mũi còn cay” …

Không chỉ vậy, bà còn người chăm lo cho gia đình, cho đứa cháu nhỏ. Bà nuôi dưỡng, bảo ban cháu trưởng thành:

Tháng năm bố mẹ xa nhà, đứa cháu được sống trong vòng tay bao quanh của người bà. Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa đã trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là việc kết hợp thiêng liêng cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong cuộc đời cháu. Vì vậy tình bà cháu càng trở nên thiêng liêng và quý giá hơn.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Trong những tháng năm sống bên bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là một người thầy đầu tiên của cháu. Bà là người đã dạy cho cháu những vần âm, những phép tính đầu tiên trong đời. Chính bà là người đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu qua những lời kể, những mẩu chuyện cổ tích…

“Rồi sớm rồi chiều lại căn phòng nhà bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Những mẩu chuyện về những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia, về những đau thương, mất mát của dân tộc bản địa. Bà là một chỗ tựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Để đến giờ khi nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những mẩu chuyện những ngày ở Huế?…

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận thời điểm hiện tại Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm căn phòng nhà bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng – căn phòng nhà bếp lửa!”

Dù cho vất vả thế nào bà vẫn cứng rắn, dẫn đứa đứa cháu nhỏ vượt qua khó khăn. Lời dặn của bà chất chứa biết bao nhiêu yêu thương, biết bao sự quan tâm… Nỗi nhớ con và những vất vả luôn nén lại trong tâm vì bà muốn người con nơi tuyền tuyến được yên tâm công tác. Bà trở thành trụ cột vững chắc trong gia đình, một hậu phương lớn để con cháu yên tâm. Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên thật kiên cường và vững chắc…

Từ một căn phòng nhà bếp lửa yêu thương, tình yêu của bà dành riêng cho cháu thời điểm hiện tại hiện lên, tràn ngập khắp tâm trí của tác giả như một ngọn lửa lớn. Ngọn lửa mà bà thắp lên đó chính là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa hồng soi sáng dãy phố tỏa sáng của tương lai…

“Giờ cháu đã ra đi Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, thú vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm căn phòng nhà bếp lên chưa?”

Một lần nữa, cụm từ “biết mấy nắng mưa”, “căn phòng nhà bếp lửa ấp iu nồng đượm” được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm thâm thúy của hai bà cháu:

Bà nhóm lên những gì thiêng liêng và cao quý nhất : đó là tình yêu thương, thú vui, sự san sẻ khó khăn của tình làng nghĩa xóm. Bà nhóm lửa như muốn truyền lại cho đứa cháu sự yêu thương của mình. Và cũng chính từ hình ảnh căn phòng nhà bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong tâm của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng đó chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê nhà, đất nước của dân tộc bản địa mình. Khu nhà bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Giờ đây khi đứa cháu phải xa vòng tay chăm sóc của người bà, chính tình cảm của hai bà cháu đã như một ngọn lửa lớn sưởi ấm cho cháu, nhắc nhở, dẫn lối và soi đường cho cháu:

Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa, trong nỗi nhớ suy tư của nhà thơ thật xúc động biết bao!

Nhận xét khi phân tích hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa của Bằng Việt

Bằng sự kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm cùng với giọng điệu đầy chất suy tư, Bằng Việt đã cho thấy hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên thật chân thực và bình dị. Trong cả bài thơ, mười lần căn phòng nhà bếp lửa xuất hiện là mười lần tác giả nhắc đến bà. Tác giả không trực tiếp nhắc đến bà nhiều, nhưng thông qua những từ ngữ, những hình ảnh ẩn dụ như “nắng mưa”, “căn phòng nhà bếp lửa ấp iu nồng đượm”,…hay việc sử dụng hàng loạt điệp từ “nhóm” tác giả đã thể hiện thành công một tình cảm kính yêu, hàm ân, trân trọng bà.

Khu nhà bếp lửa là lời tâm sự, là nỗi nhớ của đứa cháu nhỏ xa quê nhớ về bà của mình, một người bà tảo tần sớm hôm nhóm lửa. Khu nhà bếp lửa – ngọn lửa của bà đã soi rọi, nâng bước cháu trên đoạn đường đời đầy khó khăn, thử thách. Chính ngọn lửa của bà đã khơi gợi cho những người đọc những suy ngẫm về tình cảm gia đình về truyền thống ” Uống nước nhớ nguồn”.

Kết bài: Bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, nhà thơ Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng, như ánh sáng của ngọn lửa vong mạng trong tâm người đọc. Bài thơ cũng đó chính là những kí ức của tác giả bên người bà kính yêu của mình. Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “căn phòng nhà bếp lửa” tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu lấn sân vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…

Dàn ý cảm nhận hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa của Bằng Việt

Giới thiệu sơ nét về nhà thơ Bằng Việt và bài thơ Khu nhà bếp lửa.

Người bà hiện lên với việc chịu thương chịu khó, hết lòng vì con vì cháu.

Bà là người phụ nữ có bản lĩnh vững vàng, là người đôn hậu, là chỗ tựa tinh thần cho con cháu.

Người bà trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, nhóm lên khát vọng tương lai trong cháu.

Khái quát về nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm.

Giá trị nhân văn: trân trọng tình cảm gia đình, quê nhà, đất nước.

Hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên qua dòng kí ức tuổi thơ của cháu biết bao gần gũi, thiêng liêng với tình yêu thương vô bờ, sự chở che và bao quanh. Cứ thế qua từng câu thơ, từng dòng thơ xúc động thì những đức tính cao đẹp cùng với việc hi sinh của bà được khơi dậy với tấm lòng hàm ân và niềm tự hào thâm thúy của nhà thơ. Không chỉ thế, sự kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt giữa các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả và biểu cảm cùng với giọng điệu hồi tưởng, đậm màu suy tư thì hình ảnh người bà trong Khu nhà bếp lửa hiện lên hết sức bình dị, gần gũi, thân thương mà vô cùng cao đẹp. Bà đó chính là người đã khơi dậy niềm tin, mơ ước và khát vọng nơi người cháu bé bỏng. Bà cũng là “nơi dựa tình thần” giúp cháu vững bước trên đường đời…

Phân tích bài thơ Khu nhà bếp lửa của Bằng Việt – Ngữ Văn Lớp 9

Phân tích hình ảnh căn phòng nhà bếp lửa trong bài thơ Khu nhà bếp lửa của Bằng Việt

Tu khoa lien quan:

dàn ý hình ảnh người bà trong căn phòng nhà bếp lửa

hình ảnh căn phòng nhà bếp lửa trong bài thơ căn phòng nhà bếp lửa

nêu cảm nhận của em về hình ảnh người bà

đoạn văn về hình ảnh người bà trong căn phòng nhà bếp lửa

so sánh hình ảnh người bà trong căn phòng nhà bếp lửa và đò lèn

hình ảnh người bà trong bài thơ căn phòng nhà bếp lửa và tiếng gà trưa

nêu suy nghĩ của em về hình ảnh người bà trong bài căn phòng nhà bếp lửa

cảm nhận của em về hình ảnh căn phòng nhà bếp lửa và người bà qua bài thơ căn phòng nhà bếp lửa

Cảm Nhận Hình Ảnh Người Bà Tảo Tần Qua Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt Và Đò Lèn Của Nguyễn Duy

Cảm nhận hình ảnh người bà tảo tần qua bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt và Đò lèn của Nguyễn Duy

Hình ảnh những người bà tần tảo, thương con quý cháu giàu đức hi sinh thường trở về trong kí ức của các nhà thơ thành mạch nguồn cảm xúc cho những vần thơ thể hiện niềm tri ân chân thành và cảm động. Hãy trình bày cảm nhận của em về nội dung này qua các đoạn trích sau:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

(…………………………)

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: – Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

(Bếp lửa – Bằng Việt)

“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

(Đò lèn – Nguyễn Duy)

Bài làm:

Bằng Việt và Nguyễn Duy đều sinh ra và lớn lên qua hai thời ki kháng chiến chống Pháp rồi chống Mĩ, nếm trải nhiều khổ cực, gian lao tuổi thơ, và đồng thời cũng được bao bọc bởi ánh sáng ấm áp của tình bà cháu.

Bếp lửa được viết khi nhà thơ đang là du học sinh, và trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ. Trong khi đó, Đò Lèn ra đời lúc đất nước đã hòa bình, nhà thơ có giây phút lắng đọng suy tư về người bà.

Cả hai nhà thơ đều chọn thể thơ tự do tám chữ, âm điệu câu thơ trầm lắng thiết tha để tái hiện dòng hồi tưởng của đứa cháu nhớ về tuổi thơ cơ cực nhưng luôn nồng nàn tình bà cháu.

1. Đoạn thơ trong bài Bếp lửa (“Bằng Việt):

Từ bếp lửa nơi đất khách quê người, Bằng Việt hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên cạnh người bà và bếp lửa. Kỉ niệm tuổi thơ lên bốn với mùi khói ghê rợn của năm “đói mòn đói mỏi” vừa lắng xuống, thì hình bóng người bà tần tảo nắng mưa chở che cho cháu ở tuổi thiếu niên lại hiện ra rõ nét.

Đất nước xóm làng tang thương trong khói lửa chiến tranh, bà và cháu phải tản cư, trở về thì nhà cửa tan hoàng. Hàng xóm đỡ đần giúp bà cháu dựng lại túp lều tranh. Gian khổ vô cùng, vậy mà khi cháu viết thư cho bố, bà cứ dặn đi dặn lại cháu đừng khiến bố mẹ lo. Cụm từ “vững lòng” và từ láy “đinh ninh” gợi lên sự mạnh mẽ của bà khi đối mặt với cái khốc liệt, gian lao.

Kỉ niệm tuổi thơ lắng xuống, anh sinh viên du học xa nhà gửi về bà những dòng tri ân rất chân thành. Hình ảnh bếp lửa đơn sơ và người bà giản dị vẫn là nỗi nhớ không nguôi. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thơ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? ”diễn tả nỗi nhớ thường trực, khắc khoải trong lòng cháu hướng về bà.

2. Đoạn thơ trong bài Đò Lèn (Nguyễn Duy):

Người bà tiếp tục hiện ra trong dáng vẻ nhẫn nại, chịu thương chịu khó mà tấm lòng dành cho con cháu thì mênh mông dịu vợi. Tuổi thơ nghịch ngợm nào biết những cơ cực của bà trong cuộẹ mưu sinh. Phép tu từ liệt kê các địa danh “Đồng Quan”, “Ba Trại”, “Quán Chảo”, “Đồng Giao” liệt kê những việc làm của bà “mò cua”, “xúc tép”, “gánh chè”… đủ cho thấy nỗi nhọc nhằn của bà. Bà in dấu chân mình khắp mọi nẻo đường quê để kiếm cái ăn cho cả hai bà cháu. Từ láy “thập thững” với hai âm trắc khiến câu thơ nặng nề, khắc khoải. Từ láy ấy vừa gợi tả bóng dáng bà chậm chạp, bước thấp bước cao với gánh nặng trên vai.

Đoạn thơ sau kể gọn, lời thơ dứt khoát làm hiện lên hình ảnh người bà tần tảo, mạnh mẽ, bền bỉ mưu sinh đầy khó khăn trong bom Mĩ. Nhà bà không còn, nhà thánh với Phật cũng không còn, chỉ còn bom đạn trút trên mái nhà. Bà trụ lại, kiếm sống ngay nơi ga Lèn và tất nhiên bên cạnh bà là cháu nhỏ côi cút.

Nguyễn Duy cũng dành cho người bà tình cảm chân thành, nhưng bên cạnh lòng biết ơn còn là nỗi xót xa tfếc nuối. Người cháu năm nào giờ đã thành người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc, vẫn không quên nhớ về những tháng năm có bà sớm chiều bầu bạn. Khi tác giả trở về, quang cảnh năm xưa vẫn không thay đổi, chỉ khác là bà đã đi xa. Khi đã trưởng thành, biết nhận ra mọi giá trị thì tất cả muộn màng. Lời thơ vừa là lời tri ân vừa là lời tự trách của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với nói giảm nói tránh cuối bài thơ gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa, nghẹn ngào “Bà chỉ còn là một nắm cổ thôi vì ai cũng có một người bà tảo tần như thế, hi sinh như thế.

3. So sánh 2 đoạn thơ:

Nét chung: Hai nhà thơ trải nghiệm đời mình trong cuộc sống kháng chiến gian lao, họ đều có những người bà giàu đức hi sinh nên lời thơ như là lời tâm tình thiết tha. Cả hai người bà đều phải cơ cực mưu sinh, và cùng bước qua những năm tháng lận đận gian nan cùng đất nước. Và họ – những người phụ nữ Việt Nam đáng khâm phục đã nuôi nấng cháu, dạy dỗ cháu nên người. Bà là người duy nhất để cháu nương tựa vào trong cái bầu không khí hỗn loạn của chiến tranh, ở bà luôn ấp ủ tình cảm thương con quý cháu và đức hy sinh. Chính tình cảm của bà đã mang lại ánh sáng niềm tin cho cháu. Qua dòng hồi ức của cháu – nhà thơ Bằng Việt và Nguyễn Duy, hình ảnh người bà với vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam xưa nay, tần tảo hi sinh cho con cho cháu. Người cháu hiếu thảo ân tình đã dành cho người bà những xúc cảm yêu thương đẹp đẽ vả lòng tri ân sâu sắc nhất.

Nét riêng: Người bà trong bài thơ Bếp lửa luôn gắn với cái bếp đơn sơ và đứa cháu nhỏ côi cút, còn người bà trong Đò Lèn có vẻ lầm lũi, đơn độc in dấu chân mọi nơi để kiếm cái ăn cho mình và cho cháu. Có thể vì thế mà nỗi niềm của cháu trong Đò Lèn còn là sự tự thức tỉnh, ăn năn vì đã có một tuổi thơ quá vô tư trước nhọc nhằn của bà. về phong cách, mỗi nhà thơ đều in đậm dấu ấn của minh trên các khổ thơ. Bếp lửa mang âm điệu thủ thỉ tâm tình, trầm lắng thiết tha đưa người đọc đi vào miền cổ tích của riêng tác giả, và nhân vật cổ tích là người bà và đứa cháu. Trong Đò Lèn, phong vị dân gian man mác trong lời thơ, từ các hình’ảnh văn hóa “đền Trần”, “đền Sòng”, hát văn”, “Thánh”, đó chính là hồn thơ dung dị của tác giả Nguyễn Duy.

Cảm Nghĩ Về Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Tiếng Gà Trưa

Cảm nghĩ về hình ảnh người bà trong bài thơ Tiếng gà trưa

Bài làm

Bài thơ Tiếng gà trưa của tác giả Xuân Quỳnh là một sáng tác độc đáo. Tác phẩm cho thấy những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về cuộc sống về nhiệm vụ chiến đấu. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, khi những kỉ niệm tuổi thơ ùa về cũng là lúc hình ảnh của một người bà tần tảo, hết sức yêu thương, chở che cho cháu được hiện lên.

Tiếng gà trưa cất lên, phá vỡ sự yên lặng của không gian, làm cho ánh nắng bị xao động; làm dịu đi nhưng mệt mỏi trên đường hành quân xa. Và điều kì diệu hơn, tiếng gà trưa đã khởi dậy, làm cho những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ ùa về. Trải qua bao nhiêu năm xa cách kí ức về đàn gà vẫn còn vẹn nguyên: con gà mái mơ, con gà mái vàng. Những kí ức tuổi thơ đó thật đẹp đẽ và đáng trân trọng.

Tiếng gà còn gợi nhắc người lính nhớ về một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, ấy là tình bà cháu. Chỉ trong bốn khổ thơ nhưng tác giả đã gói gém đầy đủ nỗi nhớ về những năm tháng được sống cùng bà dưới mái nhà yên ấm. Trong con mắt của cháu, bà hiện lên thật dung dị với biết bao phẩm chất tốt đẹp.

Trước hết bà là người tần tảo, chắt chiu. Trong cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng bà luôn cố gắng chắt chiu dành cho cháu những điều tốt đẹp nhất. Những hình ảnh, chi tiết như: “Tay bà khum soi trứng/ Dành từng quả chắt chiu” hay “Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối” đó là những hành động giản dị, mong ước thiết thực của bà cốt cũng để dành cho cháu những điều cháu muốn, đó là bộ quần áo mới mỗi độ tết đến xuân về. Cả đời bà tảo tần, vất vả chỉ luôn nghĩ và hi sinh vì con vì cháu, bà chưa một lần nghĩ cho mình, nghĩ vì mình. Hình ảnh người bà trong bài thơ cũng là hình ảnh của biết bao người bà Việt Nam, luôn dành trọn tình yêu thương, chăm lo, chi chút cho cháu.

Bà là người luôn ở bên cháu, bảo ban nhắc nhở, có đôi khi trách mắng cũng là trách mắng yêu thương:

“Có tiếng bà vẫn mắng

Gà đẻ mà mày nhìn

Rồi sau này lang mặt”.

Tiếng gà trưa đã gợi cho cháu nhớ lại những năm tháng nhọc nhằn, vất vả mà đầy yêu thương và tươi vui ấy. Qua những lời thơ chân thành ta thấy được một hình ảnh người bà vất vả, tảo tần và luôn yêu thương, lo lắng cho cháu. Tay bà nâng niu từng quả trứng không phải chỉ là nâng niu thành quả lao động của mình mà con chính là nâng niu, trân trọng từng ước mơ, hạnh phúc nhỏ bé, đơn sơ của cháu. Tiếng gà nhảy ổ và niềm hạnh phúc mà bà mang lại đã trở thành nguồn động lực, cổ vũ động viên cháu chiến đấu vì quê hương, vì tổ quốc.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, nhịp điệu linh hoạt. Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng và tha thiết. Ngôn từ giản dị, giàu sức biểu cảm. Sử dụng linh hoạt nghệ thuật điệp ngữ đã nhấn mạnh cảm giác, niềm xúc động khi được nghe tiếng gà và nhớ về những kí ức tuổi thơ đẹp đẽ gắn với người bà tảo tần.

Qua lớp ngôn từ giản dị mà giàu sức biểu cảm, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm trong sáng, đằm thắm của tuổi thơ. Đồng thời còn cho thấy hình ảnh của người bà tảo tần qua những chi tiết thật bình thường, giản dị nhưng xúc động, chân thành. Những tình cảm về bà và quê hương chính là động lực để cháu vững tay súng, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Phân Tích Hình Ảnh Ngọn Lửa Trong Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt

Ngọn lửa là hình ảnh đặc sắc trong bài thơ Bếp lửa. Thông qua hình ảnh này, tác giả Bằng Việt đã xây dựng lên biểu tượng đẹp đẽ về tình cảm bà cháu, về những kí ức tuổi thơ bên bà. Em hãy phân tích hình ảnh ngọn lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

I. Dàn ý chi tiết cho đề phân tích hình ảnh ngọn lửa trong bài thơ Bếp lửa 1. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm, hình ảnh bếp lửa trong bài thơ: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ đầy sức gợi cảm và dạt dào cảm xúc về tình cảm bà cháu thiêng liêng, về hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh và yêu thương cháu vô bờ bến

2. Thân bài

Hình ảnh bếp lửa gắn với kỉ niệm về bà: Bếp lửa sương sớm là bếp lửa của hiện thực đang được bà nhóm lên, còn bếp lửa ấp iu nồng đượm chính là tình yêu thương của bà dành cho cháu với đầy nỗi vất vả, tần tảo sớm hôm

Hình ảnh bếp lửa gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ, những năm tháng gian khổ: Bếp lửa không chỉ riêng là kỉ niệm về bà, mà còn là kỉ niệm tuổi thơ của cháu, nhớ bà là cháu nhớ về bếp lửa, nhớ về trái tim yêu thương nồng hậu và ấm áp của bà.

Hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình yêu thương và chăm sóc của bà: Ngọn lửa của bà còn làm bùng cháy lên những điều tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng trong tâm hồn tuổi thơ của cháu. Trái tim và tình yêu thương của bà đã trở thành một ngọn lửa thiêng liêng bất diệt, ngọn lửa ấy dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn rực sáng, soi đường chỉ lối cho mỗi bước chân của cháu trên đường đời

Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa: Bà nhen lên bếp lửa cũng như nhen lên những yêu thương, quan tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp trong tuổi thơ cháu. Bà không chỉ cho cháu ăn, chăm sóc cháu mà còn dạy cho cháu làm người. Ngọn lửa của bà là nguồn sống mạnh mẽ cho cháu tự tin, là điểm tựa vững chắc cho cháu bước đi trên đường đời

3. Kết bài

Ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa trong bài thơ: Bên cạnh đó, hình ảnh bếp lửa được hiện lên đầy tính thẩm mĩ và giá trị hiện thực đã làm sâu sắc thêm tình cảm bà cháu thiêng liêng.

II. Bài tham khảo cho đề phân tích hình ảnh ngọn lửa trong bài thơ Bếp lửa

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ đầy sức gợi cảm và dạt dào cảm xúc về tình cảm bà cháu thiêng liêng, về hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh và yêu thương cháu vô bờ bến. Hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa đã làm tỏa sáng và sưởi ấm những tình cảm dâng trào trong nhà thơ khi nhớ về bà.

Hình ảnh bếp lửa đã xuất hiện ngay mở đầu bài thơ với sương sớm, bếp lửa gắn liền với bàn tay chăm chút, tần tảo và cần mẫn của bà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Bếp lửa sương sớm là bếp lửa của hiện thực đang được bà nhóm lên, còn bếp lửa ấp iu nồng đượm chính là tình yêu thương của bà dành cho cháu với đầy nỗi vất vả, tần tảo sớm hôm. Bếp lửa thiêng liêng gắn bó với cháu với “khói hun nhèm mắt cháu”, gắn liền với cuộc sống đói khổ, vất vả, cơ cực của hai bà cháu. Bếp lửa không chỉ riêng là kỉ niệm về bà, mà còn là kỉ niệm tuổi thơ của cháu, nhớ bà là cháu nhớ về bếp lửa, nhớ về trái tim yêu thương nồng hậu và ấm áp của bà. Bà chính là biểu tượng của người nhóm lửa và giữ lửa thiêng liêng và bất diệt:

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen…

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”

Bà không chỉ là người nhóm lửa, ngọn lửa của sự ấm no, yêu thương, trong lòng bà luôn ủ sẵn một ngọn lửa để sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà nhóm lên ngọn lửa xua tan cái đói, nhóm lên yêu thương ngọt bùi với xóm làng. Ngọn lửa của bà còn làm bùng cháy lên những điều tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng trong tâm hồn tuổi thơ của cháu. Trái tim và tình yêu thương của bà đã trở thành một ngọn lửa thiêng liêng bất diệt, ngọn lửa ấy dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn rực sáng, soi đường chỉ lối cho mỗi bước chân của cháu trên đường đời. Chính nhờ có ngọn lửa của bà mà dù cháu có đi đến bất cứ phương trời nào, dù có gặp bếp lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả thì vẫn luôn chỉ nhớ đến bếp lửa và ngọn lửa của bà. Tấm lòng của người bà cũng được thể hiện qua hình ảnh bếp lửa một cách xúc động và chân thực. Bà nhen lên bếp lửa cũng như nhen lên những yêu thương, quan tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp trong tuổi thơ cháu. Bà không chỉ cho cháu ăn, chăm sóc cháu mà còn dạy cho cháu làm người. Ngọn lửa của bà là nguồn sống mạnh mẽ cho cháu tự tin, là điểm tựa vững chắc cho cháu bước đi trên đường đời.

Bài thơ với những hình ảnh thơ giản dị, xúc động và đầy tính thẩm mĩ đã góp phần khắc họa nên chân dung người bà đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam tần tảo, giàu đức hi sinh. Bên cạnh đó, hình ảnh bếp lửa được hiện lên đầy tính thẩm mĩ và giá trị hiện thực đã làm sâu sắc thêm tình cảm bà cháu thiêng liêng.

Ý Nghĩa Hình Tượng Ngọn Lửa, Bếp Lửa Trong Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt

Ý nghĩa hình tượng “ngọn lửa”, “bếp lửa” trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Bằng Việt rất thành công khi xây dựng hình tượng bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà hiền hậu. Hình ảnh “ngọn lửa”, “bếp lửa” trong bài thơ mang ý nghĩa biểu trưng đặc sắc.

Trước hết, hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa nấu cơm. Bếp lửa ấy ăn sâu vào đời sống tinh thần của con người, gắn chặt với niềm tin tâm linh vững chắc: sự che chở và phù trợ cuộc sống con người của vị thần lửa.

Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỷ niệm ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê hương đất nước. Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm lửa do đó cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.

Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống của bà. Cuối cùng, trong hoàn cảnh xa cách, đứa cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp. Hình ảnh “bếp lửa”, “ngọn lửa” trải qua bao thời gian, bao biến đổi rồi cuối cùng đi về với lòng người, trở thành sức mạnh tinh thần chiến thắng nghịch cảnh, vươn tới những gì cao đẹp nhất.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Bếp Lửa trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!