Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nhận Về Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu # Top 6 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nhận Về Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Về Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cảm nhận về bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.

Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim phan tich bai tho tu ay to huu Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời. Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ. Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh: Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim… Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ. Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu. Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ: Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải khắp trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá ) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mạng”. Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn. Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi cá nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người. Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đây, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân. Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ. Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ. Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…) Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu (Dàn Ý Và Bài Làm Chi Tiết)

Cảm nhận về bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (dàn ý và bài làm chi tiết)

I, Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, phạm vi phân tích

1, Tác giả:

– Là lá cờ đầu của phong trào thơ ca Cách Mạng Việt Nam

– Các sáng tác của ông luôn gắn liền với sự nghiệp Cách Mạng

– Là nhà thơ trữ tình chính trị,

– Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc

2, Tác phẩm:

-Bài thơ “Từ ấy” rút từ phần “Máu lửa” trong tập thơ cùng tên “Từ ấy”. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, tập hợp những sáng tác của ông từ năm 1937 đến năm 1946

3, Nội dung phân tích: bài thơ là khúc hát say mê, hứng khởi của người chiến sĩ trẻ tuổi khi bắt gặp lý tưởng cộng sản

1, Khái quát:

– Hoàn cảnh sáng tác: tháng 7 năm 1938, ra đời nhân một sự kiện có ý nghĩ quan trọng với nhà thơ. Đó là khi Tố Hữu được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản.

2, Phân tích:

a, Khổ 1: Tâm trạng vui sướng của nhân vật trữ tình khi bắt gặp lý tưởng cộng sản (trích thơ)

-Thời điểm “Từ ấy”: là khi Tố Hữu được giác ngộ Cách Mạng, được dẫn dắt vào con đường giải phóng dân tộc

– Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lý”: thể hiện niềm vui khi tìm thấy lẽ sống cao đẹp cho cuộc đời trong buổi đầu đến với Cách Mạng

– Những từ ngữ “chói”, “bừng”, “rộn”, “rất đậm” khẳng định lý tưởng cộng sản mở ra cho thế giới tâm hồn một nhận thức mới khiến tâm hồn vui tươi phơi phới

b, Khổ 2: Lý tưởng cộng sản làm thay đổi nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình (trích thơ)

-Đại từ nhân xưng “tôi”: bộc lộ sâu sắc ý thức cá nhân

– Từ “buộc”, “trang trải”: thể hiện sự gắn kết, chia sẻ của nhà thơ với quần chúng cần lao

– Các từ “Mọi người”, “trăm nơi”, “hồn khổ”: chỉ đối tượng là quần chúng lao khổ trên mọi miền đất nước

– Hình ảnh ẩn dụ “khối đời”: khiến khái niệm về cuộc đời vốn trừu tượng trở nên hữu hình

c, Lý tưởng cộng sản giúp nhà thơ vượt qua những tình cảm ích kỉ, hẹp hỏi để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ

– Kết cấu định nghĩa “tôi…là” được sử dụng xuyên suốt khổ thơ tạo nhịp điệu khỏe khoắn, nhấn mạnh ý thức vững vàng của nhà thơ khi gắn kết với cộng đồng

– Điệp từ “của” kết hợp với hệ thống từ xưng hô chỉ quan hệ máu mủ “anh”, “em”, “con”: tình cảm của nhà thơ với quần chúng nhân dân gần gũi, khăng khít như anh em ruột thịt

– Điệp từ “vạn” kết hợp với các hình ảnh “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ”: thể hiện những số phận cơ cực, vất cả, nhỏ bé trong xã hội. Từ đó nói lên tình nhân ái bao la, mang tính giai cấp

3, Đánh giá:

a, Nghệ thuật:

– Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đặc sắc

– Nhịp điệu thơ dồn dập, da diết

– Diễn tả tâm trạng vui sướng, say mê của nhà thơ khi đón nhận lý tưởng cộng sản

b, Nội dung:

– “Từ ấy” là bản tuyên ngôn về nhận thức và quan điểm sáng tác của Tố Hữu

+ Tuyên ngôn về nhận thức: nhà thơ nguyện đi theo ánh sáng của Đảng, gắn bó với quần chúng lao khổ

+ Tuyên ngôn về nghệ thuật: sáng tạo văn học không mơ mộng, viển vông, người nghệ sĩ phải đứng trong hàng ngũ, gần gũi với quần chúng nhân dân

+ Từ đây, Tố Hữu chính thức định hình phong cách của một ngòi bút trữ tình chính trị

III, Kết bài: Tóm gọn nội dung vấn đề và nêu suy nghĩ của bản thân

Bài thơ “Từ ấy” được sáng tác vào tháng 7 năm 1938, nhân một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời nhà thơ. Đó là thời điểm nhà thơ được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản. Khổ thơ đầu mở ra bằng tâm trạng vui sướng của tác giả khi bắt gặp lý tưởng cộng sản:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Thời điểm “từ ấy” là khi Tố Hữu được giác ngộ Cách Mạng, được dẫn dắt vào con đường giải phóng dân tộc. Vì thế, hai tiếng “từ ấy” trở nên vô cùng thiêng liêng. Đó không chỉ là nhan đề, là tứ thơ mà còn là điểm tựa cho sự phát triển của cả bài thơ. Để thể hiện niềm vui dạt dào say mê khi tìm thấy lẽ sống cao đẹp, Tố Hữu đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp: “nắng hạ”, “mặt trời chân lý”. Hình ảnh “mặt trời chân lý” như một lời khẳng định lý tưởng cộng sản như ánh mặt trời đem lại sự sống cho khắp thế gian, từ đó bộ lộ thái độ thành kính, trân trọng của người thanh niên trẻ tuổi. Không chỉ vậy, nhà thơ còn so sánh tâm hồn mình với một khu vườn đầy hoa lá, rộn rã ấm thanh và rực rỡ sắc màu. Những từ ngữ “chói”, “bừng”, “rộn”, “rất đậm” khẳng định lý tưởng cộng sản mở ra cho thế giới tâm hồn một nhận thức mới khiến tâm hồn vui tươi phơi phới. Khổ thơ đầu như một khúc nhạc rộn ràng , ngân vang niềm tin yêu, hứng khởi. Từ đây, một thế giới mới mở ra, một chân trời hồng trải rộng. Sang khổ thơ thứ hai, người đọc cảm nhận được sự tác động mạnh mẽ của lý tưởng cộng sản đã làm thay đổi nhận thức của nhân vật trữ tình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồng tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

Khổ thơ bắt đầu bằng đại từ nhân xưng “tôi” bộc lộ sâu sắc ý thức cá nhân của tác giả. Từ “buộc”, “trang trải” thể hiện sự gắn kết, chia sẻ của nhà thơ với quần chúng cần lao. Nhà thơ tự nguyện buộc lòng mình với mọi người để gắn kết, chia sẻ, để hòa nhập vào cái ta chung của toàn dân tộc. Các từ “Mọi người”, “trăm nơi”, “hồn khổ” chỉ đối tượng là quần chúng lao khổ trên mọi miền đất nước. Trên con đường hòa nhập ấy là sự cảm thông chân thành với bao hồn khổ, là ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đời. Hình ảnh ẩn dụ “khối đời” khiến khái niệm về cuộc đời vốn trừu tượng trở nên hữu hình hơn bao giờ hết. Khổ thơ là sự gắn kết của cái tôi cá nhân với cái ta cộng đồng. Khi cái tôi hòa vào cái ta chung sẽ tạo nên một cuộc đời gắn bó, tạo nên một sức mạnh lớn lao. Sự biến đổi trong nhận thức ấy chính là tình nhân ái của chủ nghĩa cộng sản. Bên cạnh đó, lý tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có lẽ sống mới, mà còn giúp nhà thơ vượt qua những tình cảm cá nhân để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”.

Kết cấu theo lối định nghĩa “tôi…là”được sử dụng xuyên suốt khổ thơ tạo nhịp điệu khỏe khoắn, nhấn mạnh ý thức vững vàng của nhà thơ khi gắn kết với cộng đồng. Hơn thế nữa, điệp từ “của” kết hợp với hệ thống từ xưng hô chỉ quan hệ máu mủ “anh”, “em”, “con” còn cho thấy tình cảm của nhà thơ với quần chúng nhân dân gần gũi, khăng khít như anh em ruột thịt. Điệp từ “vạn” kết hợp với các hình ảnh “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ” thể hiện những số phận cơ cực, vất cả, nhỏ bé trong xã hội. Lý tưởng Cách Mạng đã cho người cộng sản trẻ tuổi một tâm hồn lãng mạn Cách Mạng chứa chan tình yêu với cuộc sống và quần chúng lao động. Tố hữu tự nguyện chọn một chỗ đứng trong lòng dân tộc, coi mình là một thành viên ruột thịt trong gia đình quần chúng cần lao. Tất cả đã thể hiện rất rõtinh thần dân tộc, tính nhân đạo sâu sắc.

Về nghệ thuật, bài thơ đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đặc sắc. Nhịp điệu thơ dồn dập, da diết, diễn tả tâm trạng vui sướng, say mê của nhà thơ khi đón nhận lý tưởng cộng sản. Về nội dung, tác phẩm không chỉ đánh dấu cột mốc quan trọng trong cuộc đời Cách Mạng mà còn là bản tuyên ngôn về nhận thức và quan điểm sáng tác của Tố Hữu. Nhà thơ nguyện đi theo ánh sáng của Đảng, gắn bó với quần chúng lao khổ. Tố hữu sáng tạo văn học không mơ mộng, viển vông. Người nghệ sĩ phải đứng trong hàng ngũ, gần gũi với quần chúng nhân dân. Từ đây, Tố Hữu chính thức định hình phong cách của một ngòi bút trữ tình chính trị.

“Từ ấy” được sáng tác trong những ngày đầu Tố Hữu đến với Cách Mạng nên bài thơ mang giọng điệu lạc quan, tin tưởng, tràn đầy hy vọng. Sự lạc quan, tin tưởng ấy đã giúp người thanh niên trẻ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ của cuộc đời hoạt động Cách Mạng sau này. Bài thơ giúp các thế hệ sau có cơ hội hiểu rõ hơn về một thời khó khăn nhưng đáng tự hào của dân tộc.

Phạm Ngọc Khuê

Lớp 11S3 – Trường THPT Kim Liên, Hà Nội

Phân Tích Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu

Một con thuyền ra khơi không thể dạt theo những con sóng. Một cánh chim trên bầu trời không thể bị cuốn theo những cơn sóng vô định. Và một con người không thể tồn tại mà không có lí tưởng. Ở mỗi thời đại, con người mang trong mình lí tưởng khác nhau và có cách riêng để thể hiện ngọn lửa đam mê của mình. Là ngọn cờ đầu của thi ca cách mạng, Tố Hữu thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao được chiến đấu, hi sinh cho cách mạng trên tinh thần lạc quan của người thanh niên cộng sản.

Nhà thơ Sóng Hồng từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp nhất”. Và có lẽ đặt bài thơ vào hoàn cảnh mà nó ra đời ta mới có thể ” thấu thị” những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Bài thơ ra đời vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân thực hiện để đấu tranh giành độc lập. Với trái tim hai mươi tuổi căng đầy sự sống, Tố Hữu đã đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của người vừa tìm thấy con đường lí tưởng của đời mình. Nhân vật trữ tình hiện lên trong bài là người chiến sĩ trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lí tưởng sống, lí tưởng cộng sản.

Hai tiếng “Từ ấy” vang lên trong nhan đề bài thơ như một tấm bản lề khép mở: khép lại quá khứ và mở ra tương lai. Quá khứ là bóng đêm tối tăm, mù mịt khiến cho con người đặc biệt lớp thanh niên rơi vào tâm trạng bế tắc, chán chường, người thì đến với thế giới tưởng tượng để trốn tránh hiện thực hoặc tìm quên bằng những cách của riêng mình. Nó dễ đưa con người ta tới bước đường lạc lối, tới ngã rẽ bơ vơ giữa dòng đời:

Chọn một dòng hay để nước trôi xuôi Ta đi ngơ ngác trong cuộc đời.

Nhưng “Từ ấy” nhà thơ đã tìm đượcc lối đi cho mình khi giác ngộ lí tưởng cộng sản. ” Từ ấy” trở thành một nốt ngân cao vút đánh dấu mốc son quan trọng trong cuộc đời tác giả, như một hồi chuông đánh thức bao lớp thanh niên lúc bấy giờ.

Mở đầu bài thơ là tiếng reo ca hân hoan, nồng nhiệt của một tâm hồn trẻ khao khát lẽ sống bắt gặp lí tưởng cộng sản:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim

Giây phút ấy được nhà thơ diễn tả bằng hình ảnh, từ ngữ và giọng điệu cao đẹp, trong sáng, reo vang. Lí tưởng cách mạng được ví như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng vừa rực rỡ vừa tinh khôi của một ngày nắng hạ. Nó bắt nguồn từ ” mặt trời chân lí”. Nếu mặt trời của thiên nhiên ban phát cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm của sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa lan tư tưởng đúng đắn, thuận lòng người, là tiếng chuông báo hiệu tương lai tươi sáng hơn. Ánh sáng của chân lí thần kì ấy xóa tan lớp mây mù dày đặc trong lòng người chiến sĩ, mở đường cho tia nắng chói rọi qua tim. Nó khiến bao tháng ngày “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước/ Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” được trả lời, dẫn dắt.

Hai câu thơ sau với bút pháp trữ tình lãng mạn cùng hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản:

Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Đó là một khu vườn, một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim hót. Hình ảnh thơ khiến ta liên tưởng tới vườn xuân trẻ trung căng tràn sức sốngtrong những câu thơ của Xuân Diệu:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si

Nếu Xuân Diệu vẽ lên vườn tình của lứa đôi nồng thắm thì thơ Tố Hữu là khu vườn của tình say mê lí tưởng, niềm khát khao được hòa nhập, được cống hiến. Hương thơm của lí tưởng cùng tiếng chim của lẽ yêu đời cứ trào dâng, cứ rộn ràng mãi trong tâm trí người thanh niên giàu nhiệt huyết. Lời thơ như sự phát hiện bất ngờ về một vùng đất mới – nơi sự sống đang sinh sôi nảy nở. Mặt trời chân lí như đổ ngập ánh nắng làm tốt tươi một vườn hồn.

Song “mặt trời chân lí” không chỉ đem lại cho người thanh niên nguồn sức sống mà với Tố Hữu lí tưởng còn là nguồn sáng làm rực rỡ lên một lẽ sống và một cách sống ở đời. Đó là yêu thương, là đùm bọc, là sẻ chia:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với muôn nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Khác với nhân sinh quan của nhà thơ lãng mạn cùng thời “Ta là một là riêng là duy nhất/ Không có ai bè bạn nổi cùng ta”, người thanh niên cộng sản Tố Hữu đã hòa cái tôi nhỏ bé, yếu đuối như “cây sậy ven đường” của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao. Nhà thơ nguyện “buộc”, nguyện gắn kết cuộc đời mình với cuộc đời của người nhân dân lao động Việt Nam, nguyện cùng họ trèo lái con thuyền tự do, dân chủ cập bến. Dường như Tố Hữu đã nhận ra cái nhỏ bé của mình trong cái rộng lớn của đất trời, cái hữu hạn của bản thân trước cái vô hạn của dòng đời. Bằng việc sử dụng hai động từ “buộc” và ” trang trải”, Tố Hữu thể hiện tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm chan hòa với nhân dân. Nhà thơ muốn thấu hiểu, san sẻ nỗi khổ của mọi người, muốn dùng ngọn lửa trong trái tim mình sưởi ấm trái tim của những con người đang ngày đêm lam lũ cực khổ, muốn khắp nơi trên Trái Đất này tràn ngập yêu thương.

Cùng với sự thay đổi nhận thức cuộc sống, nhà thơ dường như nhận ra trách nhiệm của mình với cuộc đời, với cách mạng:

Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ

Chân dung của thi sĩ vẫn tiếp tục hiện lên trong hình ảnh một con ngưởi ở giữa mọi người và của mọi người dân lao khổ: “là con của vạn nhà, của bạn kiếp phôi pha, của vạn đàn em nhỏ không áo cơm…”. Nhưng nhà thơ không đứng trên, không đứng ngoài những kiếp lầm than ấy để lắng nghe những âm thanh của nó dội lên trong lòng mình. Bởi ông đã coi mình là người của đại gia đình những con người cực khổ, là ruột thịt máu mủ, là con em của họ. Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ của những người “than bụi lầy bùn” để đấu tranh cho một ngày mai tươi sáng. Lời thơ đặc biệt xót xa khi nói về “vạn đầu em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ” tựa con chim non rũ cánh đi tìm tổ bơ vơ, tựa cánh hoa yếu ớt dạt trôi theo cơn sóng cuồn cuộn của cuộc đời. Cùng với đó động từ “là” nhắc lại vang lên âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng khiến ta thêm yêu mến chàng trai trẻ yêu người, yêu đời này.

Bài thơ “Từ ấy” như tiếng hát hân hoan của người thanh niên, một người chiến sĩ chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được Tố Hữu trong buổi đầu đến với cách mạng rất nồng nhiệt, tiếp nhận ánh sáng lí tưởng Đảng và có một sự nhận thức toàn diện về nhân sinh quan, thế giới quan. Thi sĩ Xuân Diệu dường như cảm nhận được mạch ngầm của cảm xúc tuôn trào trong từng vần thơ của Tố Hữu: “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác có nhiều máu huyết hơn, thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: cách mạng, giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”.

Nguyễn Thúy Huyền

Phân Tích Bài Thơ Từ Ấy Của “Tố Hữu”

Phân tích bài thơ Từ ấy của “Tố Hữu”

Bài thơ từ ấy – Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim, bài thơ từ ấy của tố hữu, bài thơ từ ấy lớp 11 đầy đủ chính xác nhất phiên bản website chúng tôi

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ…

Tố Hữu – cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời của ông gắn liền và đồng hành cùng với cách mạng,với những thăng trầm của đất nước,với lý tưởng cao cả được soi rọi dưới ánh sáng của Đảng. Bởi vậy những vần thơ của ông cũng mang tính triết lý chính trị sâu sắc.

Từ ấy” là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của nhà thơ. Bài thơ thể hiện bước chuyển mình, bước ngoặt lớn trong cuộc đời của một chàng thanh niên trẻ. Việc đứng trong hàng ngũ của Đảng đã thay đổi cuộc đời của ông.

Bài thơ ra đời năm 1938 ,khi ấy nhà thơ mới 18 tuổi.Ở cái tuổi trẻ và đẹp nhất của đời người ấy, còn gì hạnh phúc hơn khi tìm được chân lý,tìm được ánh sáng của cuộc đời.Tìm được con đường đi đúng đắn giữa muôn vàn ngã rẽ của tuổi mười tám,đôi mươi.

Từ nay,chàng trai trẻ ấy sẽ được ngọn cờ của Đảng dẫn dắt và dìu bước, sẽ trưởng thành và kiên cường hơn. Bởi vì niềm hạnh phúc và hân hoan đó,nên bài thơ vang lên với một nhịp điệu rộn ràng như lời ca,tiếng hát .Tất cả đều trong sáng,rạo rực và trào dâng cảm xúc.Thật đẹp và đáng tự hào.

Mở đầu bài thơ ,ông viết :

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Tuổi 18 ,chênh vênh giữa rất nhiều lựa chọn. Là cái tuổi có quá nhiều hoài bão và dự định ấp ủ.Nhưng với nhà thơ Tố Hữu ông đã có con đường của riêng mình. Điều ấy được hình thành từ khi còn là học sinh, ông đã tham gia rất năng nổ vào hoạt động cách mạng ở các đoàn hội tại Thừa Thiên Huế.

Niềm tin vào ánh sáng của cách mạng đã ăn sâu vào suy nghĩ và nhận thức của ông. Chính bởi vậy, sự kiện ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam đã mang lại cho ông niềm hạnh phúc vô cùng to lớn. Đó là sự công nhận của Đảng rằng ông đã được đứng trong hàng ngũ những người cách mạng ưu tú. Lý tưởng và con đường đi của Đảng chính là chân lý của cuộc đời ông.

”Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” câu thơ cất lên như niềm reo vui tột cùng của nhà thơ. Từ giây phút thiêng liêng được đọc lời thề dưới ngọn cờ Tổ Quốc ấy ,cuộc đời của ông như bừng nắng hạ. Một sự liên tưởng thật đặc biệt, Nắng hạ là tượng trưng cho những gì rực rỡ nhất ,tràn trề nhựa sống nhất. “Nắng hạ” ấy không phải chiếu rọi thông thường mà bỗng nhiên“bừng” lên. Bởi ánh nắng ấy xuất phát từ một mặt trời rất đặc biệt. Ấy chính là “mặt trời chân lý”.

Hình ảnh so sánh hàm chứa biết bao ý nghĩa sâu xa.Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, là nơi tập hợp những con người yêu nước,là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,đại biểu trung thành của quyền lợi của giai cấp công nhân ,nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Đảng như là con thuyền chèo lái cách mạng Việt Nam. Bởi vì vai trò lớn lao và cao cả đó, Đảng được nhà thơ tôn sùng như là mặt trời chân lý trong trái tim mình.Chìm đắm trong niềm hạnh phúc và hân hoan, ông liên tưởng mình như vườn hoa lá ngập tràn sắc xanh, chim muông bay lượn reo ca. Là ngọt ngào như hương hoa tỏa ngát.

Những hình ảnh thật đẹp ,thật tươi vui và tràn đầy sức sống. Niềm tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng ,khiến ông trưởng thành hơn. Chân lý của Đảng đã khiến cho nhận thức và suy nghĩ của ông thay đổi rất nhiều .Điều đó được thể hiện trong khổ thơ tiếp theo:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

“Tôi buộc lòng tôi” – đó là sự tự nguyện nhưng cũng chính là trách nhiệm cao cả của một người cộng sản. Họ phải đem cái tôi cá nhân của mình hòa chung với cái chung của mọi người. Nghĩ tới lợi ích của nhân dân,đất nước đầu tiên và sẵn sàng hy sinh những lợi ích riêng tư của bản thân.

Vui chung niềm vui của tầng lớp lao động nghèo khổ và  đau chung nỗi đau của dân tộc mất nước lầm than. Cùng ăn cùng ở,cùng chiến đấu với tầng lớp nông dân,công nhân lao động nghèo. Để lan tỏa tình thương, sự đoàn kết gắn bó giữa các tầng lớp nhân dân. Để truyền cho họ ánh sáng của mặt trời chân lý mà nhà thơ đã được giác ngộ. Đi theo Đảng và đi theo cách mạng ,cuộc đời sẽ hạnh phúc và tự do.

Hiểu rõ những chân lý đó ,nhà thơ Tố Hữu nhận thấy trách nhiệm của mình càng lớn lao .Vì bây giờ ,ông đã không còn là cậu thanh niên 18 tuổi vô tư nữa mà là người Cộng sản. Lấy chân lý của Đảng là lẽ sống của cuộc đời của mình .Bài thơ khép lại với những tâm tư ,suy nghĩ nặng trĩu .Ông viết :

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.”

“Tôi đã là con của vạn nhà.” Đó là sự nhận thức rõ ràng ngay từ đầu khi ông xác định đi theo cách mạng.Lựa chọn con đường đi chông gai nhưng đầy vinh quang này,ông sẵn sàng hy sinh và cống hiến sức lực,tuổi trẻ và cả cuộc đời cho Tổ Quốc. Là trước sau một lòng ,trung hiếu với đất nước ,với nhân dân .Xem nhân dân là máu thịt ,là người nhà để luôn luôn yêu thương ,bảo vệ họ như chính gia đình của mình.

Điệp từ “như là” được sử dụng chính là sự nhấn mạnh và khẳng định của ông về mối quan hệ khăng khít với những  thân phận con người lầm than và cơ cực dưới đáy của xã hội. Đó là vai trò của một người em ,một người anh ,một người con trong một gia đình lớn là nhân dân ,là đất nước. Chứng kiến những kiếp người lầm than ,những kiếp phôi pha,cù bất cù bơ không cơm ăn áo mặc.

Nỗi đau trong ông càng đè nặng ,nó thôi thúc ông quyết tâm hơn ,mạnh mẽ hơn.Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình.Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là trường kỳ và khó khăn nhưng nhất định sẽ thắng lợi .

Bài thơ “Từ ấy” khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng lại trong trái tim của mỗi chúng ta .Sự nhận thức và chuyển biến tâm lý của một chàng thanh niên trẻ tuổi khi được đứng dưới hàng ngũ của Đảng, được nhà thơ thể hiện vô cùng tinh tế và đặc sắc. Hình ảnh thơ đẹp ,nhịp thơ trong sáng và tươi vui thể hiện đầy đủ những cung bậc cảm xúc có hạnh phúc ,có hân hoan ,trăn trở và cả trách nhiệm lớn lao đối với Tổ Quốc.

Mặc dù ra đời cách đây gần một thế kỷ,nhưng bài thơ vẫn còn nguyên giá trị cho tới bây giờ.Đó là giá trị về trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước.Là những trăn trở về lý tưởng ,về lẽ sống khi đứng trước ngã rẽ của cuộc đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Về Bài Thơ Từ Ấy Của Tố Hữu trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!