Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nhận Về Bài Thơ Ngắm Trăng Trong Nhật Kí Trong Tù Của Bác Hồ # Top 10 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nhận Về Bài Thơ Ngắm Trăng Trong Nhật Kí Trong Tù Của Bác Hồ # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Về Bài Thơ Ngắm Trăng Trong Nhật Kí Trong Tù Của Bác Hồ được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài ” Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mangphong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằngchữ Hán, đây là bản dịch bài thơ:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật kí trong tù”; tập nhật kí bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đọa đầy đau khổ, từ tháng 8 -1942 đến tháng 9 -1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động khi vầng trăng xuất hiệntrước cửa ngục đêm nay. Ánh trăng mang đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.

Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lí, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”.

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tầm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỉ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hòa giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và conngười xuất hiện một sự hóa thân kì diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng lên…”. Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một sốbài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng thức một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao nói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi; trăng thề nguyền, trăng chia li, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều;”Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ…

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

Theo chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng Trong Tác Phẩm Nhật Ký Trong Tù

Ngắm trăng là một nét đẹp truyền thống của biết bao thi sĩ đời xưa và nay như: Trương Cửu Linh, Vương Xương Linh, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Trương Kế, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Nguyễn Trãi, Hàn Mặc Tử… Đối với Hồ Chí Minh ánh trăng không những mang đến thi hứng nồng nàn cho tâm hồn nghệ sĩ của Người mà còn là một người bạn tri âm, tri kỷ. Trong những tháng ngày Người ở tù, trăng đã cùng N£ười sẻ chia tâm sự:

“Trong tù không rượu củng không hoa,

Cảnh đẹp đèm nay, khó hững hờ;

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Câu đầu giới thiệu hoàn cảnh của tù nhân: “Trong tù không rượu cũng không hoa’. Hoàn cảnh này rất thực, ở tù không như ở ngoài, cơm hẩm chưa chắc đã có ăn huống chi có rượu uống, có hoa ngắm. Thật ra, đây là một cách nói thể hiện sự khát khao của một tâm hồn cao đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Người xưa khi ngắm cảnh đẹp cần phải hội đủ: phong (gió), hoa, tuyết, nguyệt (trăng), cầm (đàn), kỳ (cờ), thi (thơ), tửu (rượu). Như vậy, Bác đã đáp ứng được: nguyệt (trăng), thi (thơ). Ngoài ra, có thể thêm phong (gió) bởi lẽ bên song cửa sổ, Bác được cơ hội hưởng chút gió mát.

Câu hai bộc lộ tâm trạng của nhà thơ:

“Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ”.

Ánh trăng thiên nhiên hiền hòa, dịu êm, đẹp đẽ như vậy, một người bình thường cũng không thể hững hờ được. Huống hồ, đây là một con người dạt dào cảm xúcngất ngây trước cái đẹp của thiên nhiên. Thi hứng của Bác đã dâng lên cao độ. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng, trong thơ Bác, trăng là người bạn tri âm, tri.y. Thật đúng như vậy. Chúng ta hãy đọc câu chuyển và câu hợp:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Nguyên văn chữ Hán hai câu thơ này như sau:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia”.

Bản dịch thơ đã làm mất đi hai kiểu đối nhau. Lối tiểu đối trong cùng tâu chuyển: “nhân” và “minh nguyệt” (người – trăng). Lối tiều đối trong cùng câu hợp: “nguyệt” và “thi gia” (trăng – nhà thơ). Và lối đối giữa cầu chuyển và câu hợp: “nhản” và “nguyệt” (người – trăng)-, “minh nguyệt” và “thi gia” (trăng-nhà thơ). Cùng với phé,p; nhân hóa ở câu hợp, trăng và người trở thành hai tầm hồn đồng điệu: người – trăng; trăng- người. Đúng là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Ngày xưa, Đọ Phủ lúc ở ngoại thành Thành Đô cất nhà bên bờ suối Cán Khê, tuổi cao, sức yếu, bỗng có khách đến chơi mà nhà không có thứ gì để chiêu đãi. Ông mời khách ngắm hoa:

“Không hiềm đồng nội không thức nhắm,

Thừa hứng xin mời ngắm khóm hoà”.

(Tân chí – Khách đến)

Nguyễn Khuyến tiếp bạn chỉ có tấm lòng cao quý, ấm áp:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có,

Bác đến chơi đây ta với ta”.

(Bạn đến chơi nhà)

Còn đối với Hồ Chí Minh, bạn trăng đã đến nhưng “Trong tù không rượu cũng không hoa” biết lấy gì tiếp bạn bây giờ? Vâng! Giải pháp cuối cùng của Hồ Chí Minh cũng tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Khuyến, chỉ có tấm lòng với tấm lòng: người ngắm trăng, trăng ngắm người, vượt lên trên mọi thiếu thốn. Hồ Chí Minh đã dùng thủ pháp của các bậc đại nhân, hiền sĩ ngày xưa: lấy không để nói có. Cái “không” chính là cái không có vật chất. Cái “có” đồng nghĩa với tâm hồn cao đẹp của Hồ Chí Minh.

Ở câu 3 và 4, chúng ta còn thấy sự hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn. Và cả bài thơ, có sự giao hòa giữa con người chiến sĩ và nghệ sĩ. Trong con người chiến sĩ của Hồ Chí Minh nổi lên chất thép vừa rắn rỏi vừa mềm dẻo. Tại sao cả bài thơ “không nói giọng thép, không lèn tinh thần thép” nhưng lại đậm đà “chất thép”? Chúng ta cần hiểu rõ hoàn cảnh của Bác. Bác sống trong một nhà lao ẩm thấp, chật hẹp, tối tăm, hôi hám, muỗi đốt, rệp cắn, ghẻ lở mọc đầy thân, lại còn bị xiềng xích. Ngoài ra, những đêm trời trở rét “Gối quắp lưng còng chẳng ngủ an”, lại còn bao nỗi đau khổ vất vả, thiếu thốn khác nữa. Thế mà hồn thơ Bác vẫn cất cánh bay cao vút. Đó chẳng phải là “thép” hay sao?

Mặt khác, trong bài tho’ Ngắm trăng chất “thép” còn thế hiện ở thái độ ung dung, lạc quan, đầy bản lĩnh của Bác. Nhờ phép thắng lợi về tinh thần, kẻ thù chỉ giam hãm Bác về mặt thể xác:

“Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao”.

Như vậy, tinh thần của Bác đã vượt khỏi nhà giam, hoàn toàn tự do. Theo Các-Mác “Tự do là nắm được cái tất yếu”. Bác nắm được “cái tất yếu” nên Bác luôn được tự do – “kể thù không giam được trí óc”.

Hơn nữa, cả bài thơ còn thể hiện một tâm hồn trong nghịch cảnh nào cũng luôn hướng ra ánh sáng. Nhà lao là đại diện cho bóng đen hắc ám. Tinh thần Bác vượt ra khỏi bốn bức tường giam tìm đến trăng, có nghĩa là Bác đã tìm đến nguồn ánh sáng vĩnh cửu của tự nhiên. Chính tâm hồn thanh cao của Bác đã đưa ánh trăng dát vàng dát bạc lọt qua khung cửa số’ nhỏ bé của nhà lao u tối. Nhà lao bỗng bừng sáng giữa đêm tối mênh mông của những cuộc đời oan khuất, bất hạnh.

Bên cạnh chất thép rắn rỏi, bài thơ này còn bộc lộ khá rõ chất cổ điển và hiện đại. Chất cổ điển thể hiện ở nền thơ tứ tuyệt Đường luật cô đọng, hàm súc, “ý tại ngôn ngoại” cùng với thú vui của người xưa – ngắm trăng. Chất hiện đại của một tư tưởng cao đẹp, lớn lao, kỳ vĩ, một người chiến sĩ kiên cường, bất chấp gian khổ trên con đường cách mạng, xem ngục tù chỉ là nơi tạm dừng chân.

Tóm lại, đọc bài thơ Ngắm trăng chúng ta chẳng những kính yêu Bác Hồ vô vàn mà còn học tập được nhân sinh quan cao vời của một bậc vĩ nhân. Đồng thời, chúng ta càng thấm thía lời của nhà thơ Tố Hữu khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù:

“Lại thương nỗi đoạ đày thân Bác

Mười bốn trăng tê tái gông cùm

Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc

Mà thơ bay cánh hạc ung dung!”.

Cảm Nhận Bài Thơ Ngắm Trăng Của Hồ Chí Minh

Cảm nhận Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

Cảm nhận Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

“Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.

Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao”

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thơ…” Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

Ánh Trăng Xuân Trong Thơ Bác Hồ

ÁNH TRĂNG XUÂN TRONG THƠ BÁC HỒ

16:14 – 20/01/2020

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác rất nhiều bài thơ về mùa Xuân. Từ sau cách mạng Tháng Tám đến lúc Người mất, Bác đã sáng tác hàng trăm bài thơ chữ Hán và chữ Việt, trong đó có bài “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng), là bài thơ chữ Hán được viết tại chiến khu Việt Bắc năm Mậu Tý (1948).

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Rằm tháng Giêng

Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Xuân Thủy dịch)

Ngoài hình tượng chiến đấu, thơ kháng chiến của Bác nhắc nhiều đến ánh trăng, “người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ/trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” (Ngắm trăng), “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn” (Giải đi sớm)…. Thiên nhiên trong thơ Bác vừa hiện thực lại vừa bay bổng lãng mạn. Cảnh vật được xác định cụ thể mà vẫn tượng trưng, ngụ ý, phơi phới tự nhiên mà chắt lọc sáng tạo.

Có thể khẳng định rằng, thế giới tâm hồn Người và sáng tác của Người vừa gần gũi với chúng ta, vừa có vẻ đẹp riêng độc đáo. Người ta ví Bác và văn thơ của Bác như ánh sáng ban ngày: ánh sáng trong suốt không màu, nhưng thực ra có đủ cả bảy sắc cầu vồng. Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) mang phong vị “những sắc cầu vòng” ấy.

Hình ảnh sông, nước, trời ngập tràn hơi thở của mùa xuân được Bác Hồ lột tả bằng bút pháp chấm phá một cách tài tình: trăng độ vừa tròn, vằng vặc chiếu dòng sông mênh mang. Dòng sông, mặt nước, bầu trời trong suốt, mờ ảo một thứ sương xanh biếc như khoí, se se lạnh.

Âm hưởng của Nguyên tiêu cũng gợi lên âm hưởng của Trương Kế: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/Giang phong ngư hỏa đối sầu miên/Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Bản dịch sang chữ quốc ngữ nổi tiếng nhất là của Tản Đà : “Trăng tà tiếng quạ kêu sương/Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ/Thuyền ai đậu bến Cô Tô/Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”. Chúng ta có thể so sánh rằng, vầng trăng trong “Phong Kiều dạ bạc” là vầng trăng lặn, vầng trăng chết. Còn trăng trong Nguyên tiêu là vầng trăng đang lên, vầng trăng độ non tơ, tràn trề sức sống (nguyệt chính viên). Cũng là sương nhưng một đằng là sương trắng đục, một đằng là sương mỏng và nhẹ như khói. Cũng vẫn là dòng sông, mặt nước, bầu trời nhưng “Phong Kiều dạ bạc” thì hư vô mờ ảo, còn trong Nguyên tiêu thì rực rỡ  sắc xuân: “Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”.

Câu thơ lập lại ba lần chữ “Xuân”, nghe như tạc, như in xuân sắc vào bầu trời, ấm áp, đầy hương khói. Cảnh thiên nhiên trong đêm trăng càng nhân lên độ ngời sáng, như muốn hòa nhập với con người vào bốn bề bát ngát, xanh trong. Mạch thơ tiếp theo: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự” (Giữa dòng bàn bạc việc quân), Yên là khói, sương khói, ba là sóng, thâm sứ là nơi sâu thẳm, đàm quân sự là bàn bạc việc quân sự. Cả câu ba nghĩa là nơi khói sóng mịt mù sâu thẳm bàn bạc việc quân sự. Đọc câu thơ ta thấy bàn việc quân sự nơi sơn cùng thủy tận, nơi khói sóng mịt mù huyền ảo, hư hư thực thực, bí mật mà vẫn rất thơ mộng, lãng mạn, bay bổng, rất thực mà cũng đầy chất thơ. Những giây phút ấy dù cảnh vật có hấp dẫn đến đâu chăng nữa cũng không thể thả mình trong thiên nhiên hoàn mỹ, bởi “trăng vào cửa sổ đòi thơ/Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.

Chất lãng mạn cách mạng đặc biệt kết tụ ở hai câu thơ cuối:Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền (Khuya về bát ngát trăng đầy thuyền).

Trăng lên đỉnh vòm trời nên thuyền đầy ắp trăng. Trăng càng cao, càng sáng, càng huyền diệu. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị tư lệnh tối cao của dân tộc, đồng thời là một thi nhân. Gió trăng chứa một thuyền đầy, nhà thơ ra về thư thái. Bài thơ có cảm giác thần tiên, vừa chứa đựng niềm tin vào thắng lợi.

Toàn bài thơ “Nguyên tiêu” (rằm thắng giêng) là cảnh vật núi rừng Việt Bắc ngập ánh trăng rằm mùa xuân-tháng giêng, có sương khói và hình ảnh con thuyền trăng đầy lãng mạn. Nhưng đó là con thuyền cách mạng sẽ che chở nhà thơ, chiến sĩ đến với rạng đông, “bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi” của chiến thắng Bông Lau, chiến thắng Sông Lô và khúc khải hoàn ca “Chín năm làm một Điện biên/nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.

Đọc “Nguyên tiêu”  của Bác Hồ viết cách đây 60 năm (1948-2020), tâm hồn mỗi chúng ta thêm giàu có, trong sáng, biết hướng tới ngày mai, vươn tới ánh sáng mà đi lên phía trước.Ôi, những vầng trăng đi qua bao nhiêu cảm xúc, nguyện mãi thủy chung theo Bác suốt đời. Ước mong đất nước mãi mãi tỏa sáng vầng trăng thanh bình, ấm no, hạnh phúc.

NGUYỄN VĂN THANH 

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Về Bài Thơ Ngắm Trăng Trong Nhật Kí Trong Tù Của Bác Hồ trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!