Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Đoạn Thơ: “Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi … Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi” được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lập dàn ý
I. Mở bài
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến.
Những chiến sĩ Tây Tiến luôn là kỉ niệm đẹp trong phần đời binh nghiệp của ông. Họ là những người đồng chí chiến đâu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn vả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng trong họ luôn hừng hực một lí tưởng cao đẹp “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Khi phải rời xa đơn vị, Quang Dũng đã trút cả tâm hồn, cả nỗi nhớ của mình vào bài thơ Tây Tiến. Đoạn trích được phân tích là phần đầu của bài thơ diễn rả nỗi nhớ da diết về đồng chí, đồng đội, về thiên nhiên con người miền Tây – nơi Quang Dũng đã cùng họ đi qua, cùng bên nhau chiến đấu.
II. Thân bài
1. Luận điểm 1: Cảm nhận chung
Tây Tiến là khúc ca về người lính được viết bằng bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng. Cả bài thơ là nỗi nhớ, là những kí ức, tâm niệm của tác giả về một những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến. Ở đó, Quang Dũng đã đưa tới người đọc một vẻ đẹp khác của người lính thời chống Pháp khác với cái chân chất, mộc mạc của những người lính nông dân trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu, đó là vẻ đẹp hào hoa của những chiến sĩ phần lớn xuất thân từ trí thức đất Hà Thành. Mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, về đất và người Tây Bắc.
2. Luận điểm 2: Phân tích
Hai câu thơ đầu là khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Câu thơ đầu tiên vang lên như một tiếng gọi chân thành, tha thiết. Nhịp thơ 4/3 bẻ đôi câu thơ như sự chia cắt của hiện tại “SôngMã xa rồi” và quá khứ “Tây Tiến”. Hình ảnh sông Mã – một chứng nhân gắn bó bao kỉ niệm với Tây Tiến – không còn là con sông vô hồn của địa lí mà là dòng chảy suốt dọc bài thơ, chở nặng nỗi niềm cảm xúc khó quên, những kỉ niệm buồn vui mà Tây Tiến đã đã đi qua.
Nỗi nhớ vốn vô hình mà trong thơ Quang Dũng trở nên hữu hình. Nỗi nhớ ấy xuất phát từ sông Mã, từ sự xa cách về không gian, thời gian. Nỗi nhớ ấy vừa thực lại vừa ảo, chực tan biến mà lại chập chờn ẩn hiện. Cách gieo vần “ơi” cùng với điệp từ “nhớ” tạo độ vang vọng cho câu thơ, vang vọng mà vẫn lửng lơ đồng thời tạo âm hưởng da diết, ngân nga mãi trong lòng người đọc về một vùng rừng núi miền Tây xa xôi, về những con người Tây Tiến của năm tháng xưa cũ.
Hai câu tiếp
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ miêu tả những khó khăn gian khổ trong đời sống chiến đấu của người lính Tây Tiến. Con đường các anh đi bao phủ bởi sương: sương phủ ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát. Và đó không chỉ là màn sương của tự nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ.
Bút pháp hiện thực đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây qua hình ảnh một đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp thơ 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ lấp – động từ có sức gợi tả sức nặng của sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả đoàn quân. Nhưng hiện thực khắc nghiệt của thiên nhiên lại được thi vị hoá bởi cảm hứng lãng mạn của những tâm hồn lãng mạn hào hoa: đêm sương thành đêm hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc con đường hành quân được nhìn như những đoá hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Những thanh bằng trong câu thơ không chỉ diễn tả sắc hư ảo của màn sương mà còn tái hiện trạng thái mơ mộng, bay bổng trong tâm hồn người lính.
Bốn câu tiếp:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hình ảnh về chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến được khắc hoạ đậm chất nhạc và chất hoạ.
+ Các từ ngữ giàu tính tạo hình được huy động: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời… đã diễn tả đắc địa cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ, hiểm trở. Độ cao của núi như chọc thủng trời mây “súng ngửi trời”; độ sâu, độ cao của dốc thì thăm thẳm “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, thế núi như vút lên dựng đứng rồi đột ngột đổ xuống bất ngờ, nguy hiểm, kết hợp với cái heo hút, hoang vu, vắng lặng đến rợn người nhưng lại quá đối hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
+ Chất nhạc trong bốn câu thơ được tạo nên bởi âm hưởng đặc biệt của những thanh trắc đậm đặc: dốc, khúc khuỷu, thẳm, hút, súng, ngửi. khiến tiết tấu của câu thơ trở nên trúc trắc như chính sự khó khăn hiểm trở của đường hành quân cứ tăng lên mãi. Nhưng đến câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi lại đột ngột lắng xuống toàn thanh bằng với nhịp thơ nhẹ, êm ái, cảm giác như trút hết được những mệt mỏi, căng thẳng của con người khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao, phóng tầm mắt ra bốn hướng nhẹ nhõm, sảng khoái, ngắm nhìn trong không gian bao la, mọt mùng sương rừng, mưa núi.
+ Nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng giúp nhà thơ miêu tả núi rừng hùng vĩ, hiểm trở dữ dỗi cũng để làm nổi bật lên hình anh người lính Tấy Tiến trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả hi sinh nhưng vẫn lạc quan yêu đời.
Bốn câu thơ mang vẻ đẹp của một bài thơ tứ tuyệt “thi trung hữu hoạ”, có sự phối hợp giữa các hình ảnh và tiết tấu, tạo nên bức tranh thiên nhiên, con người với những đường nét chạm khắc vừa gân guốc rắn rỏi, vừa êm dịu thơ mộng. Những gam màu của hội hoạ cùng thanh điệu trong âm nhạc đã được Quang Dũng thổi hồn qua cách sử dụng hệ thống hình ảnh và từ ngữ một cách đặc sắc, tài hoa.
Sáu câu cuối:
Quang Dũng không hề né tránh sự thật bi thương của của đoàn binh Tây Tiến trên bước đường hành quân.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
– Nhà thơ nói “anh bạn’” – những người đồng chí của mình – ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng, đói rét, bệnh tật dãi dầu, mệt mỏi đến kiệt sức nhưng cái chết sự hi sinh được nhà thơ diễn tả bằng ngôn ngữ đầy chất bay bổng, ngạo nghễ nhẹ tựa lông hồng : “không bước nữa”, “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Các ông sống ngang tàng và chết cũng hiên ngang.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
– Hai câu thơ tái hiện thiên nhiên nơi người lính Tây Tiến đi qua hoang dại, âm u, hiểm nguy. Những từ “chiều chiều ”, “đêm đêm” gợi cho người đọc ấn tượng về thời gian diễ ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ. Nơi ấy luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Họ không chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có thể bị ngã xuống bởi rừng thiêng, thác hiểm.
– Nếu những câu thơ trên âm điệu lên xuống thất thường diễn tả thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hiểm trở thì hai câu kết của đoạn, những vần “ôi, oi, ôi” lại tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái, âm điệu êm dịu, tha thiết, ấm áp vô cùng:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Hình ảnh cơm lên khói toả hương thơm của nếp xôi ngày mùa và hình ảnh của những cô gái Mai Châu lại hiền lên gọi về bao nỗi nhớ nôn nao. Câu thơ thể hiện nét lãng mạn, mơ mộng trong tâm hồn người lính xuất thân từ thanh niên trí thức Hà Thành với nỗi nhớ dâng trào cảm xúc về miền Tây, những bản làng ở Mai Châu, về những mẹ, những chị những em. trong mùa lúa chín.
+ Nếu xuân – hạ – thu – đông là mùa của đất trời thì “mùa em” là mùa của riêng Quang Dũng, của riêng những người lính Tây Tiến. “Mùa em” vương vấn mùi thơm của nếp xôi và ấm áp tình yêu thương của tình người, tình quân dân thắm thiết.
Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xoá đi những yếu tố kết nối để trở thành một tập hợp những ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác … làm say người bởi sự lãng mạn và hào hoa.
Kết bài
Sự hoà quyện giữa bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã thể hiện cái tôi thi sĩ đầy xúc cảm trước thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hoang sơ hiểm trở vừa thơ mộng. Nổi bật trên nên bức tranh ấy là hình ảnh đoan quân Tây Tiến dù phải trải qua những khó khăn gian khổ, những mất mát hi sinh nhưng tinh thần của người lính vẫn luôn kiên định, lạc quan, yêu đời, vượt lên tất cả “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Bình Giảng Đoạn Thơ ” Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi…Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi” Trong Bài Thơ Tây Tiến
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi….Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Bài làm
Mỗi người nghệ sĩ đều gắn với một vùng văn hóa thẩm định nhất định. Nếu Tô Hoài lên Tây Bắc viết truyện Vợ chồng A Phủ từ đau thương đã vùng lên đi theo cách mạng, Tố Hữu nặng tình nặng nghĩa với những người dân nơi Việt Bắc thân yêu thì Quang Dũng lại chọn cho mình mảnh đất vùng biên giới Việt – Lào. Bởi vì đây chính là nơi mà đoàn quân Tây Tiến của nhà thơ hoạt động. Những năm tháng gian khổ, vất vả, nguy hiểm đã qua đi, Tây Tiến cũng theo đó mà xa rồi giờ đây để lại trong lòng nhà thơ những kỉ niệm và nỗi nhớ. Đặc biệt nỗi nhớ ấy, những vất vả khó khăn ấy được thể hiện rõ qua đoạn thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
……….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Bốn câu thơ đầu mở ra một nỗi nhớ của nhà thơ lớn gắn liền với những hình ảnh cụ thể nhưng giờ đây đã xa rồi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nếu nhà thơ Tố Hữu yêu Việt Bắc với bốn mùa trên nương cao thì Quang Dũng nhớ Tây Tiến với hình ảnh con sông Mã. Con sông ấy gắn liền với những đợt hành quân của người lính Tây Tiến, Nó vẫn nằm ở đây âm thầm đồng hành cùng những người chiến sĩ Hà Thành. Nó giống như một chứng nhân lịch sử ghi lại những khó khăn, những gian nan và những thắng lợi của người lính. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” cất lên điệp vần với “chơi vơi” ở câu thơ sau tạo ra một âm mở khiến cho tiếng gọi ấy như vang vọng cả núi rừng, nỗi nhớ ấy như khỏa lấp cả không gian bao la rừng núi và thời gian quá khứ đã xa đi. “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến hành quân. Người lính Tây Tiến phải hành quân đi từ sáng sớm khi mà những màn sương dày đặc khắp cành cây hốc núi và trở về khi đêm tối cũng bắt đầu yên lặng như hơi. Qua đó ta có thấy được những vất vả của người lính Tây Tiến.
Tuy nhiên, sự vất vả gian nan, nguy hiểm mà đoàn quân Tây Tiến phải trải qua còn được thể hiện rõ hơn ở bức tranh thiên nhiên về núi rừng Tây Bắc:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ thôi nhưng bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện lên vừa mang nét thi vị lại vừa mang nét hùng vĩ. Các từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “Heo hút”, “súng ngửi trời”, “ngàn thước” thể hiện sự nguy hiểm trên con đường mà người lính phải đi qua. Hai câu thơ đầu những vần trắc nhiều hơn vần bằng càng thể hiện sự khúc khuỷu nguy hiểm của đường đi. Đặc biệt hình ảnh “súng ngửi trời” mang một nét lãng mạn giống như “đầu súng trăng treo” của tình đồng chí trong bài thơ của Chính Hữu. Kết thúc bức tranh thiên nhiên đẹp hùng vĩ nhưng nguy hiểm ấy là một câu thơ toàn âm bằng, vần bằng. Sau những giờ hành quân gian nan, nguy hiểm người lính Tây Tiến trở về bên những mái nhà luông trong yên bình.
Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng miêu tả cái chết của người lính Tây Tiến không hề bi lụy, nhà thơ dùng cách nói giảm nói tránh để thấy cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Tác giả không nói là người lính mất, hi sinh mà nói “dãi dầu không bước nữa”, gục lên súng mũ quên đi cuộc đời đầy những đau thương. Chỉ là người lính Tây Tiến mệt là gục lên súng mũ để quên đi cuộc đời. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với những điều vô cùng nguy hiểm, người dân và người lính chiều chiều phải đối mặt với thú dữ còn đêm đến thì cọp “trêu” người. Ở đây ta thấy nét vui tươi hóm hỉnh trong hồn thơ của Quang Dũng.
Bấy nhiêu cuộc hành quân, bấy nhiêu kỉ niệm, nhà thơ một lần nữa lại nghẹn ngào cất lên nỗi nhớ tha thiết với những đồng đội của mình:
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Nhưng ở đây không phải nỗi nhớ về những cuộc hành quân nữa mà là nỗi nhớ về những giờ nghỉ ngơi, những mái nhà thân thương của người dân chiều chiều về lên khói cơm đón tiếp người lính Tây Tiến.
Có thể nói đoạn thơ hội tụ tất cả những tâm tình, cảnh đẹp, nỗi nhớ, niềm thương của nhà thơ đối với người lính Tây Tiến và cảnh rừng Tây Bắc. Đoạn thơ không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên núi rừng đầy trữ tình mà cũng đầy nguy hiểm, một bức tranh sinh hoạt đầm ấm tình người mà còn chất chưa một nỗi nhớ da diết về đồng đội cũ. Bên cạnh đó ta thấy được sự lãng mạn và hóm hỉnh trong hồn thơ Quang Dũng.
Phân Tích Tâm Trạng Của Tác Giả Khi Nhớ Về Tây Bắc Và Những Người Đồng Đội Trong Đoạn Thơ Sau: “Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi!… Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi” (Bài Viết Số 3, Sgk Ngữ Văn 12 Chuẩn, Tập 1
Đề bài:
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về Tây Bắc và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
(Bài viết số 3, SGK Ngữ văn 12 chuẩn, tập 1).
Bài làm“Tây Tiến” (Quang Dũng) là một bài thơ thành công trong số rất nhiều những bài thơ viết về đề tài người lính trong chiến tranh. Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ trong lòng tác giả về binh đoàn Tây Tiến nơi mình đã từng sống và chiến đấu. Nỗi nhớ bao trùm lên cả bài thơ trong đó thể hiện tập trung nhất ở đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đoạn trích nằm ở đầu bài thơ, thể hiện sâu sắc tâm trạng của tác giả khi nhớ về Tây Bắc và những người đồng đội.
Gắn bó gần hai năm với binh đoàn Tây Tiến nhưng những tình cảm mà Quang Dũng dành cho miền quê nơi mình đóng quân cũng như những người đồng đội cùng vào sinh ra tử thật sâu sắc. Ở một nơi khác, khi nhớ về, tâm hồn nhà thơ đầy ắp tâm trạng và cảm xúc. Bao trùm lên cả bài thơ cũng như cả đoạn thơ là nỗi nhớ về con người, cảnh vật, chân thành, cảm động. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ cảm thán vừa như một lời gọi, lại vừa như tự nhủ với mình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tây Tiến trở thành một cái tên gọi chung không chỉ khơi dậy nỗi nhớ về những người lính trong binh đoàn mà còn trở thành tên gọi chung cho những địa danh đã từng gắn bó với họ nữa. Nỗi nhớ không cụ thể rõ ràng mà “chơi vơi” làm cho người ta cảm giác như dòng cảm xúc, như nỗi nhớ đang bay bổng giữa một miền rừng núi bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc; cảm giác như sự hòa mình vào trong nỗi nhớ của. tác giả là hoân toàn, là tuyệt đối. Tây Bắc trong nỗi nhớ nhung chứa vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, hoang dại và đầy bí ẩn. Hàng loạt các địa danh được nhắc đến và mỗi nơi lại gắn với một máng kí ức riêng, cụ thế. Đó là Sài Khao, Mương Lát trong những đêm hành quân mờ sương chợt giật, mình rung động bới vé đẹp cúa một cánh hoa rừng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” tăng thêm ấn tượng về nỗi nhớ của tác giá cũng như tâm hồn tinh tê nhạy cảm của người chiến sĩ. Một chi tiết nhó nhưng có sức lay động và ngưng lại trong kí ức của nhà thơ.
Tây Bắc là con đường hành quân vất vả:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Cái hùng vĩ của cảnh vật được tô đậm thêm ớ những hình ảnh miêu tá đầy ấn tượng. Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm”, sử dụng những vần trắc liền nhau như đoạn đường gồ ghề, lên dốc xuống đèo trên đường hành quân của người chiến sĩ. Đường hành quân vất vả như đường lên đến tận trời khiến cho thiên nhiên cùng với con ngưừi tạo ra một hình ảnh thật thú vị: “súng ngửi trời”. Đây là hình ánh liên tương thể hiện sự thông minh hài hước của người lính Tây Tiến. Vượt đèo lội suối, có những lúc người đi sau nhìn người đi trước, mũi súng in hằn lên bầu trời mà nói như Quang Dũng, như một hành động “thăm dò” ngộ nghĩnh. Câu thơ gợi nhớ đến một hình ảnh khác tương tự của nhà thơ Chính Hữu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạng bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Người nghệ sĩ trong gian khổ yần có thể mở rộng lòng mình để cám nhận về mọi giới như vậy tất phải có một tâm hồn nhạy cảm và vô cùng phong phú.
Bốn câu thơ là sự kết hợp tuyệt vời giữa vần điệu với nội dung thể hiện sau nó. Sự thay đổi bằng – trắc linh hoạt như những chặng đường hành quân lên thác xuống ghềnh đầy gian khổ. Ớ đó, sau những vất vả, có lúc tâm hồn con người được hòa vào những khoảnh khắc thật đẹp: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng từ trên núi cao nhìn xuống, giữa khoảng mênh mông bao la, khi cơn mưa xa khơi làm cho mọi thứ hiện ra vừa hư vừa thực thì “nhà ai” gieo vào trong lòng người chiến sĩ có lẽ không phái nỗi băn khoăn mà là một lời tán thưởng cho những gì đang diễn ra trước mắt. “Thi trung hữu họa”. Bức tranh thiên nhiên được nhìn từ nhiều góc độ, có nhìn lèn, nhìn xuống, nhìn ra xa… Và ở mỗi góc nhìn khác nhau lại là một ấn tượng, vẻ đẹp khác nhau. Hành trình theo nỗi nhớ của nhà thơ, dường như người đọc cũng đang tham gia vào những vất vá của con người trong kí ức, cũng cảm thấy những nổi vất vá mà người lính đang trải qua, vui với niềm vui mà họ có được. Tài năng cùa Quang Dũng lả ở chỗ đó.
Tây Tiến còn được nhớ đến trong nét hoang sơ đầy bí ẩn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Tất nhiên là đằng sau đó có hiểm nguy, có đe dọa đến tính mệnh nhưng dưới cái nhìn của những chàng trai gan dạ nhưng không kém phần tinh nghịch thì chỉ là “gầm thét”, “trêu người” mà thôi.
Không chỉ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc, cuộc sống của người dân nơi đây cũng xuất hiện với một vài hình ảnh chấm phá, thoáng qua nhưng gợi rất nhiều. Sau âm thanh ghê rợn của “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đột ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chi tiết “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”, là hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi ra cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Cuộc sông bình dị góp thêm một vẻ đẹp nữa cho mảnh đất của kỉ niệm.
Thiên nhiên và con người có sự chan hòa giao cảm nên nỗi nhớ về hai hình ảnh ấy gần như lúc nào cũng đi liền với nhau, cái này làm sâu sắc hơn thêm cho cái kia và ngược lại. Nhớ về vùng đất nơi người lính từng chiến đấu, đó là nỗi .nhớ nhung, nuôi tiếc. Còn nỗi nhớ về đồng đội đầy tự hào nhưng cũng đầy đau đớn, xót xa. Không thê sao được khi họ đã cùng nhau trải qua biết bao vất vả trong cuộc chiến đấu’ và tât nhiên là cả những hi sinh, mất mát:
“Anh bạn dãi dầu không bưác nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” thật bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính truyền cảm. Nó phảng phát chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vẫn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy sự trầm láng, xót xa trong lời thơ của Quang Dũng. Nhà thơ đã tránh để không dùng trực tiếp từ “hi sinh” bởi những tình cảm yêu thương mà ông đành cho người lính và cũng bởi, với người lính Tây Tiến hào hoa, tinh nghịch, kiêu hùng “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, vẫn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
thì sự thể hiện đó là hoàn toàn phù hợp.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã góp phần quan trọng xây dựng bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính Tây Tiến. Bức chân dung kiêu hùng của người lính được dệt nên bởỉ cảm hứng lãng mạn qua cái nền hùng vĩ và thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, khiến cho nỗi nhớ cảnh và người nhiều khi hai mà thành một, tô đậm hình ảnh thiên nhiên và con người.
Xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, đoạn thơ thể hiện cảm động tình cảm sâu sắc, nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả về mảnh đất và con người Tây Bắc cũng như về những người đồng đội nơi nhà thơ đã từng chiến đấu. Nằm trong cảm hứng chung của toàn bài, nó góp phần khắc họa chân dung bi tráng về người lính Tây Tiến, những chàng trai Hà thành hào hoa, lãng mạn.
Có Người Nói, Cảm Hứng Chủ Đạo Của Bài Thơ Tây Tiến Là Nỗi Nhớ Da Diết Của Quang Dũng Về Tây Tiến. Hãy Bình Giảng Đoạn Thơ Sau Để Làm Sáng Tỏ Ý Kiến Trên: Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi!… Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi
– Đề yêu cầu bình giảng một đoạn thơ theo hướng chỉ định: nỗi nhớ về Tây Tiến của Quang Dũng. Vì thế, đây chính là giới hạn về kiểu bài làm văn. Thể loại vẫn là bình giảng thơ trữ tình.
– Mặc dù đề chỉ yêu cầu bình giảng phần đầu của bài thơ Tây Tiến, nhưng người viết phải hiểu rõ toàn bài. Qua việc thể hiện cảm thụ chỉ ở phần đầu của bài thơ nhưng người viết hướng cho độc giả biết nỗi nhớ chính là cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ.
Bài làm
Lâu nay, nhiều người khi tiếp xúc với Tây Tiến của Quang Dũng thường bị mê hoặc bởi một âm điệu lạ lùng.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.,
Phải chăng thế giới ấy đã chiếm một vị trí riêng có, duy nhất trong lòng nhà thơ khiến người Tây Tiến – Quang Dũng không thể nào quên?
Tây Tiến mở đầu bằng một tiếng kêu, tiếng kêu có phần thảng thốt, buộc miệng mà kêu:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Liền sau đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tràn về, bất chợt và ào ạt, đến nỗi không còn hiện tại. Con người chìm đắm trong quá khứ, sống với thời đã qua. Và thơ, đã hiện tại hóa cái thời đã mất ấy, biến nó hiển hiện trước mặt. Khả năng hiện thực hóa của thơ mạnh đến nỗi nếu ngắt đi hai câu đầu và hai câu cuối của đoạn thứ nhất, người ta nghĩ mình đang sống với Tây Tiến:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
…
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhưng thực ra, đó là hiện thực qua nỗi nhớ, hiện tại trong hoài niệm.
Trong tình cảm của con người, buồn, nhớ là những tâm trạng phức tạp, nhiều cung bậc nhất. Khi nhớ, người ta thường rơi vào trạng thái đặc biệt khôn tả, nhiều khi không rõ ràng, mất cả định hướng. Trong bài thơ Việt Bắc, một loại trữ tình tiêu biểu của Tố Hữu và của cả nền thơ kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn có những câu “lạ kỳ”:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
hoặc:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương…
Song, đấy là những câu thơ diễn tả rất đúng tâm trạng con người.
Ở Quang Dũng, đó là nỗi “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ khiến lòng người hóa thành chông chênh, bồng bềnh, lơ lửng. Khi đã “chơi vơi” thì khoảng cách không gian như xích lại gần, thời gian đồng hiện. Vì thế, trong một đoạn thơ không dài (14 câu) nhưng xuất hiện hàng loạt địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu và có lẽ còn nhiều địa điểm vô danh khác: dốc khúc khuỷu; dốc thăm thẳm; heo hút cồn mây; ngàn thước lên cao; ngàn thước xuống; gục lên súng mũ… Nếu kể các địa danh ở những khổ thơ còn lại, Tây Tiến rất có thể là bài thơ có nhiều địa danh vào bậc nhất. Chắc chắn, các địa danh, địa điểm ấy phải ở rất xa nhau. Các sự kiện (xảy ra trong từng thời gian) cũng ào ạt xuất hiện: sương lấp; hoa về; mưa xa khơi; thác gầm thét; cọp trêu người; cơm lên khói… Lẽ dĩ nhiên, trong thực tế, các sự kiện không xẩy ra cùng lúc. Nhưng trong nỗi nhớ Tây Tiến, nó ùa về, đồng hiện và tràn ngập hồn người. Và, thật kỳ diệu, quá khứ không mất đi mà nguyên vẹn cả hình hài, vóc dáng. Với Quang Dũng, một người Tây Tiến, đã “sống” với Tây Tiến lần thứ mấy. Còn với những ai, không phải người Tây Tiến, qua thơ, Tây Tiến như đang hiển hiện. Tố Hữu từng nói, văn học giúp con người sống cuộc đời khác nhau là như vậy!
Ở trên, mới chỉ nói đến cái thế, cái uy của nỗi nhớ Tây Tiến. Bây giờ, nói rõ hơn về hiện thực mà nỗi nhớ ấy đã kéo về.
Đầu tiên là cảnh vật, thiên nhiên vùng Tây Bắc mà ngay từ đầu tác giả đã định danh: “rừng núi”, tức là một không gian rộng lớn, ngút ngàn. Ở đó, có sương khói lấp cả bóng người, có đèo dốc khúc khuỷu, có vực sâu thăm thẳm, có cồn mây heo hút, có gió mưa mịt mù… Rõ ràng là một địa hình phức tạp với khí hậu nghiệt ngã, đúng là nơi chốn người xưa thường nói: ma thiêng nước độc! Nhưng với nhiều tâm hồn lãng mạn, dũng mãnh, ưa khám phá, thiên nhiên ấy có lẽ khá kỳ vĩ, thậm chí đẹp nữa. Vả lại, vùng đất ấy còn có “hoa về trong đêm hơi”, có bóng nhà thấp thoáng “mưa xa khơi”, có mùi thơm ấm nồng của “nếp xôi”. Cảnh vật thiên nhiên kỳ vĩ, mới lạ nhưng hấp dẫn hồn người. Nếu bài thơ dừng lại ở câu Mai Châu mùa em thơm nếp xôi hoặc tiếp tục phát triển theo hướng đó thì bảo đây là bài thơ “thơ đướng rừng” cũng chẳng sai. Có lần, Quang Dũng tâm sự, hồi còn đi học, nhà thơ rất say mê Thơ mới. Trong số các nhà Thơ mới, Thế Lữ là người ông thích hơn cả, “đặc biệt bài thơ Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Nhà thơ còn nói: Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và sau vô tình tôi mới nhận ra…
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Cái nhà của khổ thơ là nói về địa hình trắc trở, không một ngôn từ nào chỉ người (trừ đại từ ai chỉ nơi xa) nhưng bóng dáng con người vẫn hiện ra. Hơn nữa, đó là cuộc hành quân khó khăn, đầy thử thách. Đọc đoạn thơ, người ta không chỉ hình dung từng bước đi khó khăn mà cả hơi thở gấp gáp, mệt mỏi lẫn thế đứng chênh vênh của người vượt dốc. Xưa nay, nhiều người khi phân tích đã chỉ ra rất đúng sự khó khăn của địa hình đối với người lính Tây Tiến trên đường hành quân: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Ở câu thơ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống có sự cân đối giữa chiều cao và chiều sâu: lên hay xuống đều ghê gớm cả! Song, cấu trúc của ba câu thơ này còn nhiều đặc biệt hơn nữa, không hẳn là sự đối xứng mà là sự gia tăng, chất chồng:
Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây / súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống.
Đối với người lính Tây Tiến, đường hành quân dường như gian nan cứ dài lên mãi và con người lại phải vượt lên, cứ phải đi tới. Điều lạ là họ không bị địa hình quái ác ấy khuất phục. Phút giây ngắm nhìn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi càng chứng tỏ đó là những người băng rừng vượt dốc, nhưng không bị gian nan đè chặt tâm hồn, con đường không biến thành nỗi sợ hãi. Bởi vậy, đoạn thơ kế tiếp nêu lên những “thế lực” khác vây lấy người lính Tây Tiến mà chẳng ai sợ hãi:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Có lẽ, nỗi sợ hãi được thay thế bằng sự tò mò, khám phá. Nên nhớ, những thập niên 30, 40 của thế kỉ trước, nhiều thanh thiếu niên Việt Nam rất thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích rày đây mai đó để thoát khỏi cuộc sống chật hẹp, nhàm chán. Trước năm 1945, Quang Dũng đã là người như thế. Còn nhiều anh bộ đội Tây Tiến vốn là các chàng trai của đất Hà thành. Ở môi trường mới, hoàn cảnh mới những nét tính cách kia vẫn còn chăng? Và một khi được khám phá cái mới lạ, dù nguy hiểm, con người vẫn thích thú hơn là sợ hãi.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Câu thơ diễn tả khung cảnh thật thanh bình, dường như không hề có chiến tranh. Đó là những khoảnh khắc có thật, dù ít ỏi đi chăng nữa, trên con đường hành quân khắc nghiệt của đoàn quân Tây Tiến. Thời gian càng lùi xa, càng phủ lên làn khói cơm chiều ấy vẻ đẹp của sự bình yên và thân thuộc, càng gây thêm mùi nhớ của hương vị nếp xôi thơm nồng. Câu thơ trên với ba vần trắc (nhớ, Tiến, khói) như chạm khắc làn khói cơm chiều vào bầu trời ký ức. Câu thơ thứ hai hầu hết là vần bằng (chỉ có một vần trắc: nếp) lại đưa đẩy, khuếch tán cái vị ngọt ngào ấy vào sâu tâm hồn con người.
Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cũng có một từ đặc biệt: mùa em. Khi tiếp xúc với Tây Tiến, ai cũng thừa nhận chính từ ấy đã làm cho câu thơ trở nên lạ lùng và… khó hiểu! Chắc là trước Quang Dũng chưa ai sử dụng mỹ từ đó. Điều mà mọi người đều thừa nhận là khi đã trở thành anh Vệ quốc quân, nhà thơ của chúng ta vẫn là chàng trai hào hoa và… lãng mạn. Ở bài thơ viết năm 1949, sau Tây Tiến một năm, Đôi mắt người Sơn Tây, một bài thơ nói về những mất mát trong chiến tranh còn thảm khốc hơn nhiều, Quang Dũng vẫn còn có những hình ảnh và ngôn từ sang trọng, không kém phần mĩ lệ:
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương…
Chiến tranh không làm mất đi nét hào hoa và lãng mạn ở Quang Dũng. Có lẽ, ở nhà thơ này còn có một thước đo riêng. Đó là thước đo của cái Đẹp và từ phía Đẹp. Thiên nhiên, thời gian cũng được nhà thơ đo bằng thước đo ấy. Người đời đã có mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Quang Dũng, với Tây Tiến, có thêm ít nhất một mùa nữa. Mùa ấy có chiều kích ở đôi mắt và tâm hồn của chính thi nhân.
Sông Mã xa rồi… thơm nếp xôi là một trường đoạn trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến.
Nỗi nhớ ấy làm hiện lên một vùng đất với thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa khắc nghiệt, vừa đầy thơ mộng vừa hết sức nguy nan. Nhưng xao động lòng người vẫn là chân dung của những người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng và hào hoa. Cho dù thời gian có biến tất cả trở thành quá khứ nhưng Tây Bắc và người lính Tây Tiến qua thơ Quang Dũng vẫn còn đọng lại mãi.
Phân Tích Tâm Trạng Của Tác Giả Khi Nhớ Về Tây Bắc Và Những Người Đồng Đội Trong Đoạn Thơ Sau: “Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi!… Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi” (Bài Viết Số 3, Sgk Ngữ Văn 12 Chuẩn, Tập 1).
Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về Tây Bắc và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi“
(Bài viết số 3, SGK Ngữ văn 12 chuẩn, tập 1).
“Tây Tiến” (Quang Dũng) là một bài thơ thành công trong số rất nhiều những bài thơ viết về đề tài người lính trong chiến tranh. Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ trong lòng tác giả về binh đoàn Tây Tiến nơi mình đã từng sống và chiến đấu. Nỗi nhớ bao trùm lên cả bài thơ trong đó thể hiện tập trung nhất ở đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi“
Đoạn trích nằm ở đầu bài thơ, thể hiện sâu sắc tâm trạng của tác giả khi nhớ về Tây Bắc và những người đồng đội.
Gắn bó gần hai năm với binh đoàn Tây Tiến nhưng những tình cảm mà Quang Dũng dành cho miền quê nơi mình đóng quân cũng như những người đồng đội cùng vào sinh ra tử thật sâu sắc. Ở một nơi khác, khi nhớ về, tâm hồn nhà thơ đầy ắp tâm trạng và cảm xúc. Bao trùm lên cả bài thơ cũng như cả đoạn thơ là nỗi nhớ về con người, cảnh vật, chân thành, cảm động. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ cảm thán vừa như một lời gọi, lại vừa như tự nhủ với mình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tây Tiến trở thành một cái tên gọi chung không chỉ khơi dậy nỗi nhớ về những người lính trong binh đoàn mà còn trở thành tên gọi chung cho những địa danh đã từng gắn bó với họ nữa. Nỗi nhớ không cụ thể rõ ràng mà “chơi vơi” làm cho người ta cảm giác như dòng cảm xúc, như nỗi nhớ đang bay bổng giữa một miền rừng núi bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc; cảm giác như sự hòa mình vào trong nỗi nhớ của. tác giả là hoân toàn, là tuyệt đối. Tây Bắc trong nỗi nhớ nhung chứa vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, hoang dại và đầy bí ẩn. Hàng loạt các địa danh được nhắc đến và mỗi nơi lại gắn với một máng kí ức riêng, cụ thế. Đó là Sài Khao, Mương Lát trong những đêm hành quân mờ sương chợt giật, mình rung động bới vé đẹp cúa một cánh hoa rừng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” tăng thêm ấn tượng về nỗi nhớ của tác giá cũng như tâm hồn tinh tê nhạy cảm của người chiến sĩ. Một chi tiết nhó nhưng có sức lay động và ngưng lại trong kí ức của nhà thơ.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thươc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.“
Cái hùng vĩ của cảnh vật được tô đậm thêm ớ những hình ảnh miêu tá đầy ấn tượng. Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm”, sử dụng những vần trắc liền nhau như đoạn đường gồ ghề, lên dốc xuống đèo trên đường hành quân của người chiến sĩ. Đường hành quân vất vả như đường lên đến tận trời khiến cho thiên nhiên cùng với con ngưừi tạo ra một hình ảnh thật thú vị: “súng ngửi trời”. Đây là hình ánh liên tương thể hiện sự thông minh hài hước của người lính Tây Tiến. Vượt đèo lội suối, có những lúc người đi sau nhìn người đi trước, mũi súng in hằn lên bầu trời mà nói như Quang Dũng, như một hành động “thăm dò” ngộ nghĩnh. Câu thơ gợi nhớ đến một hình ảnh khác tương tự của nhà thơ Chính Hữu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạng bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Người nghệ sĩ trong gian khổ yần có thể mở rộng lòng mình để cám nhận về mọi giới như vậy tất phải có một tâm hồn nhạy cảm và vô cùng phong phú.
Bốn câu thơ là sự kết hợp tuyệt vời giữa vần điệu với nội dung thể hiện sau nó. Sự thay đổi bằng – trắc linh hoạt như những chặng đường hành quân lên thác xuống ghềnh đầy gian khổ. Ớ đó, sau những vất vả, có lúc tâm hồn con người được hòa vào những khoảnh khắc thật đẹp: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng từ trên núi cao nhìn xuống, giữa khoảng mênh mông bao la, khi cơn mưa xa khơi làm cho mọi thứ hiện ra vừa hư vừa thực thì “nhà ai” gieo vào trong lòng người chiến sĩ có lẽ không phái nỗi băn khoăn mà là một lời tán thưởng cho những gì đang diễn ra trước mắt. “Thi trung hữu họa”. Bức tranh thiên nhiên được nhìn từ nhiều góc độ, có nhìn lèn, nhìn xuống, nhìn ra xa… Và ở mỗi góc nhìn khác nhau lại là một ấn tượng, vẻ đẹp khác nhau. Hành trình theo nỗi nhớ của nhà thơ, dường như người đọc cũng đang tham gia vào những vất vá của con người trong kí ức, cũng cảm thấy những nổi vất vá mà người lính đang trải qua, vui với niềm vui mà họ có được. Tài năng cùa Quang Dũng lả ở chỗ đó.
Tây Tiến còn được nhớ đến trong nét hoang sơ đầy bí ẩn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Tất nhiên là đằng sau đó có hiểm nguy, có đe dọa đến tính mệnh nhưng dưới cái nhìn của những chàng trai gan dạ nhưng không kém phần tinh nghịch thì chỉ là “gầm thét”, “trêu người” mà thôi.
Không chỉ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc, cuộc sống của người dân nơi đây cũng xuất hiện với một vài hình ảnh chấm phá, thoáng qua nhưng gợi rất nhiều. Sau âm thanh ghê rợn của “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đột ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chi tiết “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”, là hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi ra cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Cuộc sông bình dị góp thêm một vẻ đẹp nữa cho mảnh đất của kỉ niệm.
Thiên nhiên và con người có sự chan hòa giao cảm nên nỗi nhớ về hai hình ảnh ấy gần như lúc nào cũng đi liền với nhau, cái này làm sâu sắc hơn thêm cho cái kia và ngược lại. Nhớ về vùng đất nơi người lính từng chiến đấu, đó là nỗi .nhớ nhung, nuôi tiếc. Còn nỗi nhớ về đồng đội đầy tự hào nhưng cũng đầy đau đớn, xót xa. Không thê sao được khi họ đã cùng nhau trải qua biết bao vất vả trong cuộc chiến đấu’ và tât nhiên là cả những hi sinh, mất mát:
“Anh bạn dãi dầu không bưác nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” thật bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính truyền cảm. Nó phảng phát chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vẫn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy sự trầm láng, xót xa trong lời thơ của Quang Dũng. Nhà thơ đã tránh để không dùng trực tiếp từ “hi sinh” bởi những tình cảm yêu thương mà ông đành cho người lính và cũng bởi, với người lính Tây Tiến hào hoa, tinh nghịch, kiêu hùng “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, vẫn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
thì sự thể hiện đó là hoàn toàn phù hợp.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã góp phần quan trọng xây dựng bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính Tây Tiến. Bức chân dung kiêu hùng của người lính được dệt nên bởỉ cảm hứng lãng mạn qua cái nền hùng vĩ và thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, khiến cho nỗi nhớ cảnh và người nhiều khi hai mà thành một, tô đậm hình ảnh thiên nhiên và con người.
Xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, đoạn thơ thể hiện cảm động tình cảm sâu sắc, nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả về mảnh đất và con người Tây Bắc cũng như về những người đồng đội nơi nhà thơ đã từng chiến đấu. Nằm trong cảm hứng chung của toàn bài, nó góp phần khắc họa chân dung bi tráng về người lính Tây Tiến, những chàng trai Hà thành hào hoa, lãng mạn.
Cùng Bộc Lộ Nỗi Nhớ Về Tây Bắc, Trong Bài “Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi!… Khi Ta Đi, Đất Đã Hóa Tâm Hồn”. Cảm Nhận Của Anh (Chị) Về Hai Đoạn Thơ Trên
Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!… Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ trên Đề bài:
Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Trong bài thơ ” Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên viết:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”.
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ trên.
Bài làm:Tây Bấc – mảnh đất xa xôi đã khiến cho rất nhiều thi sĩ phải hạ bút viết về nó. Có lẽ, mảnh đất miền Bắc địa đầu Tổ quốc ấy có một sức hút kì lạ cho nên bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên đã ra đời. Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc nhưng mỗi nhà thơ lại có những cách thể hiện khác nhau. Chính sự khác nhau ấy đã tạo nên sự độc đáo khác lạ giữa hai bài thơ.
Khởi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sự đất nước nhưng Tây tiến đã được thể hiện theo một cách rất riêng qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể – nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến và rộng hơn là nỗi nhớ Tây Bắc. Đặc biệt là khổ thơ
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sượng lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm khơi”
Khổ thơ nằm ở đầu bài thơ, là nỗi nhớ da diết, bâng khuâng khó tả:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”‘
Văn thơ. Việt Nam có không ít những câu hay nói về nỗi nhớ, nhưng nỗi nhớ “chơi vơi” thì rất có thể Quang Dũng là người đầu tiên. Nỗi nhớ ấy như có dáng hình, bồng bềnh, bồng bềnh trong không gian, trong thời gian, bâng khuâng, không dễ tả.
Người đọc như lạc vào chôn Tây Bắc hiểm trở và hùng tráng được dàn trải trong không gian nhớ mênh mông. Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội dần dần lan tỏa, thấm đượm trong từng câu thơ, khổ thơ. Có thể thấy, bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên, với bao cảm giáo ào ạt xô tới:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm khơi”
Nỗi nhớ của Quang Dũng cứ thu hẹp dần, hẹp dần. Những địa danh miền Tây, Sài Khao, Mường Lát và những địa danh khác có thật khác gợi lên cái âm u, mịt mù của miền đất lạ, nơi ấy có đoàn quân mệt mỏi đang đi trong sương, lại vừa có vẻ lãng mạn, huyền thoại.
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ quả là độc đáo, “hoa về” mà không phải “hoa nở”, “đêm hơi” mà không phải là “đêm sương”. Hoa hiện ra mờ mờ ảo ảo trong màn sương, câu thơ đẹp, lung linh, huyền ảo. Đọc đến đây, cái mỏi của đoàn quân dường như tan biến hết. Quang Dũng đã viết về nỗi nhớ rất đặc biệt đó là nỗi nhớ về mảnh đất Tây Bắc, nhớ về những địa danh cụ thể nơi mà binh đoàn Tây Tiến đi qua.
Nếu nỗi nhớ Tây Bắc là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát, nhớ sông Mã..mà Quang Dũng đã viết thì nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại khác hoàn toàn. Đó là nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Chế Lan Viên đã nhớ Tây Bắc như vậy:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”
Câu thơ như một chân lí. Những bản làng, những núi đèo ẩn hiện qua sương mờ và mây phủ đã gợi lên trong lòng bạn đọc biết bao miền đất trong đời đã từng đi qua làm sống dậy vô vàn kỷ niệm. Và chính những miền đất, những kỷ niệm ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp và làm phong phú lòng yêu qua hương đất nước Việt Nam.
Nói đến tình yêu trong nỗi nhớ, câu thơ Chế Lan Viên lấp lánh, rực rỡ những sắc màu, bồi hồi, xôn xao những xúc động. Chế Lan Viên đã diễn tả thật hóm hỉnh, độc đáo và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những kẻ đang yêu:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
Tình yêu ở đây không chỉ giới hạn ở tình yêu đôi lứa của anh và em mà còn là sự kết tinh của những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước với mảnh đất miền Tây. Nhà thơ đã khẳng định sức mạnh của tình yêu, chính tình quê hương ta đã hóa thành máu thịt tâm hồn ta. “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Những câu thơ cô đúc như một châm ngôn chứa đựng những phát hiện sâu sẩc về quy luật của tình cảm này không xuất phát, không lấy điểm tựa từ trí tuệ sắc sảo mà chủ yếu được Chế Lan Viên biến tạo trên cái nền của những xúc động của chính tâm hồn mình, lắng nghe tiếng lòng của chính mình mà châm nghiệm ra một chân lí phổ quát của đời sống tình cảm con người.
Hai đoạn thơ trên cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, cùng bộc lộ tình yêu quê hương, đất nước. Nhưng điều đặc biệt không nằm ở nỗi nhớ mà là trạng thái cảm xúc của từng tác giả, là đối tượng mà hai tác giả nhớ đến. Hai đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một mảnh đất Tây Bắc, một mảnh đất miền Tây xa xôi nhưng tình cảm giữa người với người thì sâu nặng vô cùng.
chúng tôi
Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Đoạn Thơ: “Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi … Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!