Xu Hướng 12/2023 # Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Việt Bắc # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Việt Bắc được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ Việt Bắc – Năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cơ quan đầu não ở căn cứ địan Việt Bắc trở về xuôi để tiếp tục công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhân cơ hội này, Tố Hữ sáng tác bài thơ “Việt Bắc” để nói lên tình cảm thiết tha, lưu luyến với núi rừng Tây Bắc và con người nơi đây. Qua đó, nhà thơ còn muốn nói lên nhứng khó khăn gian khổ của mười lăm năm kháng chiến và sự gắn bó của người dân nơi đây với các chiến sĩ cách mạng, tất cả ai cũng mang trong mình một lòng yêu nước nồng nàn.

Được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy nên bài thơ như là tiếng lòng của kẻ ở cũng như của người đi trong một buổi chia li nghẹn ngào đầy cảm xúc. Với việc sử dụng thể thơ Lục bát, thở thơ truyền thống của dân tộc, bài thơ càng dễ dàng đi sâu vào tâm hồn người đọc với nhịp thơ nhẹ nhàng, câu chữ bình dị, dễ đọc dễ nhớ.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Tác giả dùng đại từ “Mình-ta” rất nhiều lần trong bài thơ để xưng hô. Cách xung hô như vậy nghe thân thuộc và trìu mến biết bao. Mình và ta là sự gắn bó, đồng lòng, thân thiết như những người thân trong gia đình. Ở đây, ‘mình” là người ra đi, là những chiến sĩ đã gắn bó với nơi đây suốt mười lăm năm gian khổ. “Ta” là người ở lại, là những người dân Việt Bắc hiền lành, giàu tình yêu thương. Một câu hỏi tu từ được đặt ra nhưng nó không đòi hỏi câu trả lời vì cả hai đều hiểu ý của nhau rồi. Tác giả hỏi để gợi lên khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Mọi người hòa chung làm một, tạo nên sứ mạnh đủ để chiến thắng kẻ thù. Họ không phân biệt, họ coi Việt Bắc là nhà, là quê hương và những người dân là an hem, bằng hữu Núi rừng sông nước là những gì thân thuộc nhất với những con người nơi đây. Nó chưng kiến bao thăng trầm của cuộc sống, chúng kiến những hiểm nguy, bom đạn của cuộc kháng chiến gian khổ.

Người ra đi thì lưu luyến, người ở lại cũng không nỡ xa lìa. Họ cứ như thế, quyến luyến, bịn rịn. Người bước đi mà lòng không khỏi nhớ thương da diết, “Bâng khuâng trong dạ, bòn chồn bước đi”. Bao nhiêu cảm xúc ùa về, những xúc cam ấy lấn át, chiếm trọn tâm hồn con người khiến họ nghẹn ngào không thốt được câu chia li, ” Aó chàm đưa buổi phân li. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay “. Dường như họ cũng chẳng cần phải nói, những ánh mắt, những cái ôm cũng đủ để người ta trao cho nhau nhwunxg tình cảm chân thành nhất. Kẻ ở, người đi, có biết bao kỉ niệm, bao ước mong mà cả hai cùng muốn thực hiện. Tất cả đều thân thuộc và ấm áp tình người.

Bằng những lời thơ thấm đượm tình cảm, Tố Hữu đã khéo léo để vẽ lên những khó khăn của cuộc kháng chiến. “Thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơ sẻ nửa, chăn sui đắp cùng “, khó khăn, thiếu thốn là vậy nhưng người dân vẫn đoàn kết gắn bó cùng nhau.

Mỗi khi giặt đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Khổ thơ là sự ca ngợi và tự hào về tình đoàn kết dân tộc. Con người cùng nhau vượt qua gian khổ, đoàn kết lại thành sức mạnh vô cùng to lớn để chiến đấu với kẻ thù. Núi rừng cũng góp công trong kháng chiến, nó là lá chắn vừa bảo vệ quân mình vừa bao vây quân địch. Thiên nhiên và con người hòa vào nhau thành một, cùng chung mục tiêu, cùng chung một long yêu quê hương đất nước sâu đậm.

“Việt Bắc” là một thơ rất hay và ý nghĩa. Nó không chỉ thê rhienej những tình cảm thân thương, chân thành của người lính với bà con trong buổi chia li mà nó còn giúp ta tái hiện lại nhwunxg ngày kháng chiến gian khổ. “Việt Bắc” đã miêu tả được hết những khó khăn, gian khổ của chiến tranh để từ đó, thế hệ sau biết tôn trọng thành quả mà ông cha ta ngã xuống mới có được. Với việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật bình dị nhưng hiểu qảu đã làm cho bài thơ chân thực và nhẹ nhàng hơn. Qua đó để ta thấy được tài năng của một nhà thơ, một nhà cách mạng của dân tộc.

Seen

Cảm Nhận Về Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Tố Hữu được coi là cây đại thu của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ca của ông phần nhiều gắn bó sâu sắc với cách mạng và kháng chiến với những tác phẩm có sự hòa quyện chặt chẽ và sâu sắc giữa nội dung trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ có độ phổ biến với công chúng bạn đọc nhiều nhất của ông. Qua bài thơ bạn đọc có thể cảm nhận được một thời đại cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Thấy rõ nội dung bài thơ đậm tính dân tộc, làm dào dạt thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

Bài thơ Việt Bắc được viết trong chặng đường thơ vào giai đoạn (1947-1954) trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ như một bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng. Ca ngợi những con người kháng chiến là Đảng và Bác Hồ. Trong tác phẩm nhiều tình cảm sâu đậm được thể hiện: tình quân dân, miền xuôi và miền ngược, tình yêu đất nước…. Bài thơ được coi là một trong những thành tựu xuất sắc của văn học kháng chiến chống Pháp đậm đà tính dân tộc và sử thi hùng tráng.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự – đời tư nên con người trong thơ Tố Hữu là con người của sự nghiệp chung, mang phẩm chất tiêu biểu cho cả dân tôc, mang tầm vóc lịch sử và thời đại. Giọng thơ mang chất tâm tình, rất tự nhiên, đằm thắm, chân thành, đậm đà tính dân tộc khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc lục bát ca dao dạt dào âm hưởng, nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Sử dụng những từ ngữ, những cách nói quen thuộc với dân tộc. Phát huy cao độ tính nhạc, sử dụng tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần thơ,….Sử dụng lối ví von, chuyển nghĩa rất quen thuộc, gần gũi với ca dao, dân ca.

Khúc hồi tưởng ân tình về Việt Bắc trong những năm cách mạng và kháng chiến gian khổ, bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến được mở đầu:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Những câu thơ đầy xúc động về cuộc chia tay của những người từng gắn bó, biết bao kỷ niệm ân tình thuỷ chung ùa về trong trí nghĩ của tác giả. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp giao duyên trong ca dao – dân ca: bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ, người hô ứng. Hỏi và đáp điều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, bao nỗi niềm nhớ thương. Tác giả sử dụng đại từ ” Mình”, “Ta” ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại: không biết bạn còn thủy chung trước bao đổi thay cám dỗ của cuộc sống mới. Câu hỏi tu từ: Mình có nhớ ta”, ” Mình có nhớ không?” càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến, cứ vang lên như một niềm khắc khoải khôi nguôi. Người ở lại nhắc lại kỉ niệm 15 năm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình. Nhớ núi, nhớ rừng, thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng.

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” thể hiện tâm trạng khá phức tạp, vừa hụt hẫng, nhớ nhung người ở lại, vừa nóng lòng muốn trở về miền xuôi nhưng còn mang nặng tình cảm người ở lại. Sử dụng hình ảnh hoán dụ: “Áo chàm” tượng trưng cho đồng bào Việt Bắc – những con người lam lũ, gian khổ nhưng ân tình, thủy chung. Gợi lên lưu luyến, bịn rịn không muốn rời. Sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng người. Thực chất đoạn thơ không chỉ đơn thuần là lời của người ra đi mà cả tâm trạng, lời của người ở lại, vì họ rất thấu hiểu nỗi lòng, tâm trạng của nhau. Nên bên ngoài như là lời đối thoại nhưng thực chất là lời độc thoại của chính nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng. Qua đó ta càng thấy được mối ân tình, ân nghĩa của người chiến sĩ cách mạng với đồng bào Việt Bắc.

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? …..

Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, vừa hiện thực vừa thi vị, mang nét riêng độc đáo, khác hẳn với những vùng quê khác với những cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mơ mộng:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện rằng nỗi nhớ thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng. Điệp từ “nhớ” được đặt ở đầu câu như liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể: nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng, sông suối mang những cái tên thân thuộc. Nỗi nhớ bao trùm khắp cả không gian và thời gian. Nỗi cháy bỏng, khát khao gắn với kỉ niệm thơ mộng của núi rừng, thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết. Đẹp nhất trong nỗi nhớ là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Mùa đông tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”, gắn bó với thiên nhiên là những con người bình dị, người đi làm nương rẫy. Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. Mùa hè rực rỡ ” Rừng phách đổ vàng”, sôi động với âm thanh “ve kêu”, con người đi hái măng giữa rừng tre nứa, đó là những con người cần mẫn, chịu thương chịu khó. Mùa thu yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình” cùng với đó là những con người ân tình, ân nghĩa. Bằng những việc làm nhỏ bé, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Tuy họ nghèo về vật chất nhưng lại giàu về nghĩa tình.

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Họ đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với người cán bộ kháng chiến. Âm hưởng trữ tình tạo khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu thương đồng chí, đồng bào, tình yêu thiên nhiên, đất nước. Họ sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc, đồng bào, che chở cho những người chiến sĩ cách mạng.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây……

…..Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước đi nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Những câu thơ thể hiện tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân, sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” tất cả tạo thành hình ảnh một đất nước đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Những hình ảnh không gian rộng lớn, những từ láy (rầm rập, điệp điệp, trùng trùng), biện pháp so sánh “như là đất rung”, cường điệu “bước chân nát đá”…diễn tả được khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp: không khí sôi động với nhiều lực lượng tham gia, những hoạt động tấp nập…Âm hưởng hùng ca, mang tính sử thi của đoạn thơ thể hiện được sức mạnh của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Dân tộc ấy vượt qua bao khó khăn, thử thách, hi sinh để đem về những kì tích: “Tin vui thắng trận trăm miền”

Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Việt Bắc là chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. Bài thơ khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc bằng những vần thơ mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình.

Minh Anh

Từ khóa tìm kiếm:

cảm nhận bài thơ việt bắc

cảm nhận về bài thơ việt bắc

cảm nhận việt bắc

cảm nhận bài việt bắc

cảm nhận của anh chị về bài thơ viet bac

cảm nhận về việt bắc

Cảm Nhận Về Bài Thơ Việt Bắc Của Nhà Thơ Tố Hữu

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

Một trong những mốc lịch sử quan trọng của dân tộc là sự thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Sau chiến thắng quyết định ấy, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc nước ta, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Chính sự kiện trọng đại mang tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

Tố Hữu là một nhà thơ xuất sắc của nền thi ca hiện đại, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Với nhiều đóng góp trong nghệ thuật thì Việt Bắc là một trong những thành tựu xuất sắc đỉnh cao của thơ ca kháng chiến.

Với cảm xúc chủ đạo là diễn tả cuộc chia ly đầy bâng khuâng lưu luyến, nỗi lòng kẻ ở người đi, bài thơ đã tái hiện lại thời kỳ gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của con người kháng chiến với người dân Việt Bắc, với quê hương cách mạng. Đây cũng là nội dung chính của tác phẩm này mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc. Với cách tái hiện lại những kỉ niệm, những cảnh vật, con người nơi Việt Bắc, tác giả đã khắc họa chân thành cuộc sống và chiến đấu nơi chiến khu ân nặng nghĩa tình. Đồng thời, song hành với tình cảm chân thành ấy, Tố Hữu đã khéo léo vẽ lên bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc bằng lời thơ của chính mình. Bức tranh ấy không chỉ được khác họa qua lời của người ra đi mà còn của cả người ở lại nữa.

Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

Nét nổi bật trong tác phẩm này cũng là nét độc đáo về nghệ thuật. Đầu tiên là thể thơ quen thuộc của dân tộc: lục bát. Thể thơ này đã được Tố Hữu sử dụng thành thục và điêu luyện. Tác giả sử dụng kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao dân ca truyền thống. Cũng chính vì điều này đã giúp cho bài thơ dễ đi vào lòng người, dễ nhớ, dễ thuộc. Đặc biệt hơn, tác giả không máy móc trong sử dụng thể thơ mà ông sử dụng một cách sáng tạo. Bằng thể thơ truyền thống này, ông đã diễn tả một cách phong phú tình cảm của mình đối với quê hương, con người, tổ quốc cách mạng.

Nét nổi bật thứ hai về nghệ thuật của bài thơ này là sự sử dụng biến hóa linh hoạt cặp đại từ “mình – ta”. Với sắc thái ngữ nghĩa biểu cảm phong phú được khai thác có hiệu quả, cặp đại từ này đã đem lại thành công không nhỏ cho tác phẩm. Nó không chỉ tạo giai điệu, nhịp điệu cho tác phẩm mà còn tạo sự gần gũi, thân thiết, chân thành cho lời thơ của Tố Hữu.

Và thành công không thể thiếu đối với bất kỳ tác phẩm nào đó là các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, hoán dụ… quen thuộc. Nhưng thành công của Tố Hữu trong sử dụng các biện pháp truyền thống này đó là ông đã đặt những hình ảnh tượng trưng trong văn học theo cách cảm, cách nghĩ của nhân dân, của người dân miền núi. Ông không liên tưởng quá cao siêu mà chỉ là những hình ảnh thân thuộc đối với xóm bản.

Tóm lại, bài thơ Việt Bắc rất điển hình cho phong cách thơ của Tố Hữu: mộc mạc, giản dị, quen thuộc, gần gũi. Việt Bắc như một khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, vừa là khúc hát tâm tình, vừa là bản tổng kết về mười lăm năm kháng chiến gian khổ, một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện vẻ vang của dân tộc.

Thống kê tìm kiếm

Cảm nhận bài thơ Việt Bắc

cảm nhận về bài thơ việt bắc

cảm nhận của anh chị về bài thơ việt bắc

cảm nhận việt bắc

cam nhan cua em ve bai tho Viet Bac

cảm nhận bài việt bắc

Cảm Nhận Khổ 6 Bài Thơ “Việt Bắc”

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU LỚP 12 Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

“ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.

“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.

Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vủa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như là nhãn tụe của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.

“ Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.

Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.

_TN_vfo.vnvfo.vn

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “ VIỆT BẮC” Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:

“ Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:

“ Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của “ chàng- nàng”, “ anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô “ mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh “ những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.

Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.

Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với “ sương sa, tuyết lở”:

“ Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”

nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: “ rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: “ nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.

Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:

“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: “ chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:

“ Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Động từ “ đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải “ chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.

Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Động từ “ rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ “ hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. “ Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Việt Bắc Của Tác Giả Tố Hữu

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ “Việt Bắc” – Nhà thơ Tố Hữu là một nhà thơ vô cùng nổi tiếng đi tiên phong trong phong trào thơ cách mạng, chính trị, mỗi tác phẩm của ông đều hướng tới cuộc các mạng giải phóng dân tộc của chúng ta.

Bài thơ “Việt Bắc” là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Tố Hữu được sáng tác sau 15 năm kháng chiến những người chiến sĩ đã phải chia tay những người dân tộc đồng bào miền núi ở Việt Bắc để về lại thủ đô Hà Nội và bắt đầu công tác mới của mình. Bài thơ “Việt Bắc” viết lên một bức tranh thiên nhiên của rừng núi Việt Bắc vô cùng sống động, tươi đẹp. Đồng thời thể hiện tình cảm quân dân vô cùng thắm thiết trải qua sinh tử máu lửa có nhau.

Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Trong lối xưng hô của mình tác giả Tố Hữu đã xưng ta – mình thể hiện một lối xưng hô vô cùng gần gũi giữa những người thân, hoặc những người bạn tri kỷ, đôi khi là người yêu dành cho nhau. Một lối xưng hô vô cùng giản dị những lại nói lên tình cảm gắn bó chân thành sau trước. Toàn bộ bức tranh tứ bình của núi rừng Việt Bắc được thể hiện trong bài thơ khiến cho người đọc vô cùng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên của mảnh đất này. Bức tranh thiên nhiên và con người đan xen hòa quyện vao nhau vô cùng tươi đẹp

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng anh dao gào thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Trong bức tranh mùa xuân Việt Bắc sự rực rỡ của sắc hoa mơ hoa mận vào mùa xuân làm cho bức tranh màu xuân như sáng bừng sức sống. Hoa mơ chính là một loài hoa đặc trưng riêng của mùa xuân ở núi rừng Tây Bắc khi mùa xuân tới những rừng mơ, rừng đào bung mình trong nắng mới khoe sắc khoe hương. Đó là một bức tranh mùa xuân vô cùng tươi đẹp làm say đắm lòng người. Những bông hoa trắng trong tinh khiết làm cho bức tranh mùa xuân thêm xôn xao rạo rặc hơn. Hình ảnh con người gợi lên với vẻ đẹp chăm chỉ, cần mẫn làm công việc của mình trong mùa xuân càng làm cho mùa xuân thêm nhiều ý nghĩa. Trong mùa xuân mới mỗi con người đều có những niềm tin hy vọng của mình ai cũng mong muốn mùa xuân quê hương sẽ tới một cách thực sự.

Ve kêu rừng phách hổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình

Trong bức tranh mùa hè những tiếng ve kêu báo cho mọi người biết mùa hè đã tới rồi. Một bức tranh thiên nhiên vô cùng huyên náo, rộn ràng tiếng ve làm cho mùa hè của Việt Bắc thêm tươi vui vẻ rộn rã. Trong bức tranh người con gái hái măng một mình trong rừng nhưng không gợi lên một nỗi buồn nòa cả mà đều thể hiện niềm vui trong công việc của mình. Cô gái vừa hái măng vừa hát những câu ca nho nhỏ thể hiện một tâm trạng vui. Một bức tranh mùa hè vô cùng sôi nổi sống động gợi lên cho người đọc rất nhiều cảm xúc vui vẻ, huyên náo. Con người trong bức tranh này dù chỉ làm việc một mình nhưng lại gợi lên sự vui vẻ trong công việc của mình. Một mình nhưng người con gái không hề cô đơn lẻ loi mà chỉ gợi lên sự bình yên mà thôi

Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Trong bứ c tranh mùa thu thể hiện ánh trăng thể hiện một bức tranh vô cùng bình yên. Một cuộc sống thanh bình yên ả. Đây là một cuộc sống bình yên mà mọi người cùng mơ ước. Mỗi chúng ta đang hướng tới một cuộc sống bình yên tự do không còn giặc xâm lăng. Con người trong bức tranh mùa thu đều thể hiện một sự ân tình, dịu dàng thủy chung. Một cuộc sống nhẹ nhàng bình yên luôn trung thành với sự lựa chọn của mình

Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là một bài thơ để lại trong lòng bạn đọc nhiều cảm xúc sâu sắc thể hiện bức tranh bốn mùa vô cùng tươi đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Bài thơ “Việt Bắc” cũng nói lên tình cảm quân dân giữa những chiến sĩ cách mạng của chúng ta với những người dân tộc Tây Bắc vô cùng gắn bó thân thiết. Họ đã ở bên nhau 15 năm chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống cùng với nhau.

Cảm Nghĩ Của Em Về Đoạn Thơ Trong Việt Bắc Của Tố Hữu

Phat bieu cam nghi ve doan tho trong Viet Bac. Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Ta về, mình có nhớ ta?

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu là khúc hát ân tình thủy chung của người kháng chiến với chiến khu Việt Bắc, đó là những gắn bó, ân tình mà người kháng chiến sẽ luôn nhớ về, luôn khắc khoải mỗi khi nhớ về những vùng đất chiến khi nặng ân tình. Trong bài thơ, đoạn thơ được xem là hay nhất, đó chính là bức tranh tứ bình mà Tố Hữu tái hiện để khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắc giữa người kháng chiến và con người chiến khu Việt Bắc.

Đoạn thơ thứ bảy của bài thơ Việt Bắc là bức tranh tứ bình đầy độc đáo mà Tố Hữu đã xây dựng trên cơ sở tình cảm gắn bó đối với chiến khu Việt Bắc. Thông qua đoạn thơ, bức tranh bốn mùa được gợi ra với tất cả vẻ sống động, gợi cảm nhưng điều đặc biệt ở đây là những cảnh vật ấy không tồn tại độc lập, đơn lẻ mà luôn xuất hiện trong tương quan mối quan hệ với con người chiến khu Việt Bắc, vì vậy mà bức tranh tứ bình vừa đẹp vừa thấm đượm tình cảm chân thành của người kháng chiến. Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi của người kháng chiến dành cho những con người ở vùng đất chiến khu Việt Bắc:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng đại từ nhân xưng “ta” và “mình” để gợi ra tình cảm thắm thiết, chân thành của mình với chiến khu Việt Bắc, “ta” ở đây ta có thể hiểu chính là bản thân của nhà thơ, “mình” lại hướng đối tượng của nỗi nhớ thương là người dân Việt Bắc. Đó là sự trăn trở của nhà thơ về tình cảm của người chiến khu với mình, qua đó khẳng định sự bất biến trong tình cảm của nhà thơ với vùng đất chiến khu “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh “hoa” ở đây ta có thể hiểu đó là một hình ảnh thực có thể bắt gặp ở vùng đất Việt Bắc, nhưng đặt trong mối quan hệ với nỗi nhớ của nhà thơ thì ta có thể hiểu hình ảnh hoa lại mang nghĩa biểu tượng cho con người Việt Bắc.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Trước hết, đó chính là bức tranh mùa đông, trên cái nền xanh mênh mông của núi rừng Việt Bắc, điểm xuyết những màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng, càng làm cho bức tranh mùa đông thêm sắc màu, gợi ra được cảm giác rạo rực đối với người nhìn. Trong khung cảnh tươi đẹp của thiên nhiên đó, hình ảnh con người nổi bật trong tư thế lao động đầy khỏe khoắn. “Dao gài thắt lưng”, ta có thể hiểu đây chính là con dao mà những người dân chiến khu dùng để đi rừng, phục vụ cho công việc lao động của mình. Ánh nắng chiếu vào con dao đi rừng khiến nó ánh lên những tia sáng đầy rực rỡ, làm nổi bật lên dáng vóc của con người trong tư thế làm chủ núi rừng.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Khung cảnh ngày xuân đầy tinh khôi với sắc trắng hoa mơ bao phủ trong không gian của núi rừng, nhà thơ Tố Hữu đã đảo từ nở lên trước để gợi ra nhịp vận động của những cánh hoa mơ, khiến cho không gian tĩnh của núi rừng bỗng trở nên động bởi những nhịp vận động nhẹ nhàng, đầy gợi cảm. Cũng như trong bức tranh mùa đông, khi khắc họa bức tranh mùa xuân, nhà thơ Tố Hữu cũng đặt nó trong tương quan với con người, đó là con người Việt Bắc trong nhịp điệu của công việc lao động, chỉ một từ “chuốt” thôi nhưng cũng gợi ra được cái khéo léo, uyển chuyển cũng như sự tỉ mỉ của đôi bàn tay.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Bức tranh mùa hạn đầy xao xuyến với cả hình ảnh và âm thanh, đó là sắc vàng được diễn tả thông qua từ “đổ” tạo ra sợi dây liên kết giữa mặt đất và bầu trời, tiếng ve rừng râm ram làm cho không gian mênh mông tràn ngập âm sắc du dương như bản nhạc tự nhiên của rừng già. Nhớ về cái tươi đẹp của cảnh sắc mùa hạ, nhà thơ cũng nhớ về hình ảnh cô em gái hái măng một mình, ta có thể thấy đây không phải hình ảnh đang diễn ra trước mắt, mà là hình ảnh đang sống dậy trong kí ức của nhà thơ.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM VIỆT BẮC VIET BAC BỨC TRANH VIỆT BẮC VIỆT BẮC- TỐ HỮU PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIỆT BẮC Theo chúng tôi

“Rừng thu rọi ánh hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa thu thường gợi lên trong lòng thi nhân những cảm xúc trầm buồn, ở đây ánh trăng thu của Tố Hữu thật mới mẻ, đó là ánh trăng rọi sáng những khát vọng về hòa bình, trong khát vọng đó tiếng hát ân tình thủy chung của người chiến khu như vang vọng, như một lời khẳng định đầy chắc chắn về mối quan hệ gắn bó với người kháng chiến.

Như vậy, đoạn thơ trên không chỉ vẽ ra khung cảnh bốn mùa đầy rực rỡ, sinh động mà còn thể hiện được tấm lòng gắn bó, yêu thương của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Việt Bắc trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!