Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão # Top 14 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

Nguồn Edufly

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão.

Đề bài: Em hãy viết bài văn để cảm nghĩ về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được cảm xúc chủ đạo trong bài thơ.

Phạm Ngũ Lão là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, trong đó nổi bật lên là bài thơ Tỏ Lòng, với những cảm xúc đan xen và tấm lòng yêu nước của tác giả được thể hiện vô cùng sâu sắc trong tác phẩm.

Trong tác phẩm hàng loạt những ý chí quyết tâm được dựng xây nhằm thể hiện một ý chí kiên cường và sự anh dũng đối với tất cả mọi người, sự quyết tâm để dành được độc lập tự do cho dân tộc, trải qua mấy nghìn thu, vẫn luôn múa giáo và tung hoành khắc giang sơn để có thể tìm ra một lối thoát cho chính dân tộc của mình. Đây đều là những ý chí và lòng quyết tâm sâu sắc nhất mà họ mong muốn dành cho dân tộc:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.)

Với một ý chí quyết tâm cao, lòng chiến đấu anh dũng đã được đẩy mạnh mẽ với những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng nó lại có một sức mạnh vô cùng to lớn khắc khoải trong trái tim của mỗi con người, đoàn kết sức mạnh, 3 quân đoàn kết với nhau để có thể đánh thắng được kẻ thù. Kẻ thù được ví như trâu, trâu biểu tượng cho sức mạnh và sự hung dữ, nhưng khi ba quân đã kiên cường và đoàn kết, thì điều đó trở nên vô cùng nhẹ nhàng và nó có ý nghĩa to lớn là đánh thắng được những kẻ thù. Sức mạnh của ba ba quân đó là sức mạnh của sự đoàn kết, luôn chiến đấu và sẵn sàng nuốt trôi đi kẻ thù, dù cho kẻ thù có nặng và nguy hiểm tới mức độ như thế nào.

Mấy mùa thu đi qua, múa giáo trên giang hồ, và cầm bút chiến đấu cũng luôn cố gắng hết sức mình, đó là sức mạnh của những ý chí, lòng quyết tâm, và sự quyết tâm cao độ, trong khoảng không gian đó, sức mạnh của mỗi người đều được nâng cao, và nó trở thành một động lực để chiến đấu. Những chiến công đó đều tạo nên được những công danh cho cuộc đời, và sự nghiệp của đất nước, mỗi chúng ta đều có thể thấy được ý chí và tính kiên cường của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Tư thế hiên ngang anh dũng, nó thể hiện một ý chí kiên cường, quyết tâm để đem lại chiến công cho dân tộc, ở đây tư thế của những đấng nam nhi, nâng cao được tài năng và ý chí kiến cường của những người chiến sĩ cách mạng.

Những bậc nam nhi trong thiên hạ đều được giao trọng trách và trách nhiệm bảo vệ đất nước, chính những điều đó mà trên người những người quân tử luôn mang những vấn vương, và công nợ đối với đất nước. Trong hai câu thơ đầu dường như tác giả đang thể hiện khí phách của những anh hùng dân tộc, đó là sức mạnh của sự kiên cường, lòng quyết tâm và còn thể hiện được ý chí anh dũng thực hiện được những trọng trách và mang lại nhiều tác dụng lớn trong cuộc đời của tác giả, những điều đó đã tạo nên được cho chúng ta thấy một con người có tinh thần và trách nhiệm cao đối với đất nước và đối với những người dân nghèo của dân tộc:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Công danh của những đấng nam nhi, phải xuất phát từ một tấm lòng yêu nước, thương dân, công danh và sự nghiệp đó họ phải đánh đổi bằng xương máu của chính mình, nhưng dù khó khăn, gian nan và vất vả, nhưng họ vẫn không nản chí, mà luôn vượt qua để đạt được những công danh và sự nghiệp bất ngờ đối với chính dân tộc của mình. Những tình cảm của những đấng nam nhi đều được tạo nên từ những đều đơn giản nhất, đó là sự quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc.

Khí phách anh hùng luôn luôn được đẩy cao và nó đã tạo nên một ý chí và lòng quyết tâm đối với những bậc chính quân trong thiên hạ. Món nợ công danh đó là những chiến công và sự quyết tâm và trách nhiệm đối với dân, với nước. Tấm lòng của những bậc chính nhân anh hùng, đó là những ý chí đối với chính con người và đất nước của dân tộc Việt nam, trong chính những vần thơ trên mà tác giả đã thể hiện được những cảm xúc và những tấm lòng và lòng hẹn ước của dân tộc. Chính tác giả đang thể hiện nỗi lòng của mình, và những tấm lòng đó là mối thẹn thùng với ý chí của tấm lòng của ý chí của một người trai nhân.

Trong bài thơ cảm xúc của tác giả đã thể hiện được khí phách anh hùng của những nam nhi thời hán đường, đó là những con người có ý chí và lòng kiên cường, sự quyết tâm và tấm lòng có phần day dứt của tác giả, khi bản thân vẫn còn mang mối nợ đối với đất nước, dân tộc và đất nước, cảm xúc của tác giả đang thể hiện những tình cảm đặc biệt đối với những anh hùng có cảm xúc mạnh mẽ và tấm lòng của tác giả đối với dân tộc của mình. Trong trái tim của tác giả, vừa thẹn thùng khi mình chưa bằng vũ hầu.

Bài thơ đã mang âm hưởng mạnh mẽ và da diết trong tâm hồn của một đấng nam nhi, khi muốn lo và phục vụ những lợi ích thiết thực đối với chính dân tộc của mình, cảm xúc đó đã tạo âm hưởng sâu xa, và nhịp điệu và hồn phách trong chính tác phẩm này.

Nguồn: Văn mẫu

Từ khóa tìm kiếm:

cảm nhận của em về bài thơ tỏ lòng

đề văn về bài tỏ lòng

Cảm Nghĩ Của Anh (Chị) Về Bài Thơ “Tỏ Lòng” Của Phạm Ngũ Lão

Kiến thức văn học 10: Cảm nghĩ của anh (chị) về bài thơ…Cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão Tỏ lòng là bài thơ nói về chí làm trai theo quan niệm Nho giáo xưa. Bài thơ đã xây dựng nên một hình tượng đẹp về người anh hùng thời loạn: …

Cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Tỏ lòng là bài thơ nói về chí làm trai theo quan niệm Nho giáo xưa. Bài thơ đã xây dựng nên một hình tượng đẹp về người anh hùng thời loạn: một tráng sĩ hiên ngang tay cắp ngang ngọn giáo, đánh đông dẹp bắc để lập công danh. Bài thơ khiến ta nhớ đến bài ca dao:

Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng

Đó là tiêu chuẩn lí tưởng của người đàn ông trong bất cứ thời đại nào. Trong thời loạn, chí khí ấy lại càng cần thiết. Phạm Ngũ Lão đã hình tượng hoá quan niệm của Nho gia về đáng nam nhi. Đây là một quan niệm dúng đắn và cao đẹp. Là con người, dù là đàn ông hay đàn bà, dù là già hay trẻ đều phải có trách nhiệm với đất nước, với quê hương, với cộng đồng, huống chi là người tráng sĩ sinh ra trong thời loạn. Họ phải biết mang sức lực, tài trí của mình ra giúp dân, giúp nước, bảo vệ sự ổn định của xã hội. Với những bậc quân tử xưa, đền nợ nước, báo ơn vua là lí tưởng và mục đích sống của họ. Như Nguyễn Công Trứ từng nói:

Đã sinh ra ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông

Nếu họ không thực hiện được con đường công danh ấy, họ sẽ cảm thấy hổ thẹn với mọi người. Cả cuộc đời người quân tử chỉ có một lí tưởng duy nhất để theo đuổi đó là lập công danh. Con đường mà Nho giáo đã vạch sẵn cho tất cả các đấng nam nhi là “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tư tưởng này đã trở thành một động lực thôi thúc các nhà Nho phát huy tài trí của mình ra giúp nước. Nhà Nho tiến bộ của thế kỷ XX – Phan Bội Châu- cũng đã từng thể hiện một cách hùng hồn và đầy nhiệt huyết cái chí khí ấy của người anh hùng thời loạn:

Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển rời Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thủa há không ai?

Tư tưởng ấy đã làm nên một hình tượng đẹp thể hiện khát vọng cứu nước trong văn học Việt Nam: Muốn vượt biển đông theo cánh gió Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đất nước ta đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Một đất nước nhỏ bé luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược nên ý thức giữ nước đã trở thành ý thức có tính chất bản năng của mỗi người dân. Vì thế mà hình tượng đẹp nhất về người anh hùng bao giờ cũng là người anh hùng thời loạn. Trong đó hình tượng người tráng sĩ trong Tỏ lòng là một hình tượng có vẻ đẹp lí tưởng, bởi thời kì lịch sử ấy, nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông đã viết lên những trang sử vô cùng chói lọi trong thiên sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.. Sau người tráng sĩ ấy còn biết bao hình tượng đẹp nữa, trong đó không thể không kể đến những anh bộ đội cụ Hồ, những anh vệ quốc quân trong kháng chiến chống Pháp, những anh giải phóng quân – chàng Thạch Sanh của thế kỉ XX – trong kháng chiến chống Mĩ…

Người anh hùng với lí tưởng cao đẹp đã từng đánh đông dẹp bắc, từng làm nên cái khí thế “nuốt sao Ngưu” dũng mãnh ấy, khi nhìn lại sự nghiệp của mình vẫn mang những niềm trăn trở day dứt:

Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Đây là cái thẹn của một nhân cách cao đẹp. Như thế vẫn chưa thoả mộng công danh, người quân tử không có điểm dừng trong sự nghiệp công danh của mình. Phạm Ngũ Lão với Tỏ lòng đã thể hiện một nhân cách cao đẹp của người tướng lĩnh, con người suốt cuộc đời khao khát lập công, khao khát mang sức lực và tài trí của mình ra giúp nước. Bài thơ là niềm tự hào của mỗi chúng ta về truyền thống đạo đức, truyền thống yêu nước của cha ông ta.

Sưu tầm* Nguồn: http://diendankienthuc.net.

Cho thuê phòng trọ Cho thuê phòng trọ hà nội Cho thuê phòng quận 7 Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ Cho thuê nhà trọ phòng trọ giá rẻ

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Trong các triều đại lịch sử của dân tộc Việt Nam thì triều đại nhà Trần đã đánh dấu một mốc son chói lọi. Trong gần 300 năm trị vì, các vị vua triều Trần đã đưa đất nước vượt qua nhiều cuộc chiến và giành được chiến thắng vang danh lịch sử. Đặc biệt là 3 lần chiến thắng quân Nguyên – Mông. Trong sự thành công ấy, không thể không nhắc tới các vị danh tướng đã lãnh đạo tướng sĩ chiến đấu trong các trận chiến ấy. Phạm Ngũ Lão cũng là một trong các vị danh tướng thời Trần, là cánh tay phải đắc lực của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão cho người đọc cảm nhận được Hào khí Đông A, cảm nhận được khí thế mạnh như vũ bão của quân nhân nhà Trần đồng thời cảm nhận được chí làm trai mà Phạm Ngũ Lão đang theo đuổi.

Bài thơ như một bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão đồng thời thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng:

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Ngay từ câu thơ mở đầu ta đã cảm nhận được tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang và dũng mãnh của các tướng sĩ. Câu thơ có hình tượng kì vĩ, tráng lệ vừa mang tầm vóc không gian lại vừa mang kích thước thời gian. Người chiến sĩ thuở bình nguyên ra trận với tư thế hiên ngang, hào hùng chẳng khác nào các chiến sĩ trong huyền thoại. Qua câu thơ người đọc cũng cảm nhận được chủ nghĩa yêu nước của tác giả.

Những người chiến sĩ ấy khi ra trận mang theo một sức mạnh phi thường có thể nuốt trọn một con trâu hoặc lấn át hết sao ngưu trên trời. Ở đây ta thấy hình ảnh ẩn dụ so sánh tam quân tì hổ của Phạm Ngũ Lão thật độc đáo. Câu thơ không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân sát thát đánh đâu thắng đấy mà còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca.

Khi lên đường ra trận, người chiến sĩ bình nguyên mang theo một ước mơ cháy bỏng là lập chiến công để đền ơn nữa. Quả là thời đại anh hùng thì sinh ra khát vọng anh hùng. Người anh hùng nhỏ tuổi Trần Quốc Toản từng nói Phá cường địch, báo hoàng ân còn Thái sư Trần Thủ Độ cũng có câu nói nổi tiếng Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo. Những câu nói ấy thể hiện khát vọng to lớn trong việc sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình để bảo vệ đất nước. Đó là biểu hiện rực rỡ cho những tấm lòng trung thân ái quốc. Một khi đã ra chiến trường thì nghĩa là họ đang gánh trên vai mình vận mệnh của dân tộc. Vì vậy khát vọng lập nên những chiến công hiển hách là khát vọng chung. Có ai là không muốn được sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Trung Quốc. Ở hai câu kết, Phạm Ngũ Lão đã dùng điển tích để nói về nợ công danh của nam nhi:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Trong bài thơ này công danh mà Phạm Ngũ Lão nhắc đến là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược. Đối với kẻ làm trai thời ấy nợ công danh như một gánh nặng mà họ buộc phải trả, nguyện đền đáp xương máu và lòng dũng cảm nếu cần.

Bài thơ Tỏ lòng được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ có giọng điệu hùng tráng, mạnh mẽ, ngôn ngữ hàm súc, hình tượng kì vĩ, tráng lệ. Nó giống như một khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần.

Thu Thủy

Topics #bài thơ Tỏ lòng #cảm nhận của em về bài thơ Tỏ lòng #cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng #văn cảm nhận

Soạn Bài Tỏ Lòng (Thuật Hoài) Của Phạm Ngũ Lão

BÀI LÀM

TIỂU DẪN

Tác giả

Phạm Phũ Lão (1255 – 1320) quê ở Hưng Yên.

Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên

Là võ tướng nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và từng được ngợi ca là người văn võ toàn tài.

Tác phẩm của ông hiện còn hai bài thơ là Tỏ lòng (Thuật Hoài) và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Câu 1.

Điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch:

Nguyên tác: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Trong câu thơ này, tác giả sử dụng từ “hoành sóc” âm điệu hào hùng, mạnh mẽ. Vừa thể hiện tư thế hiên ngang, kiên cường bất khuất, luôn sẵn sàng, chủ động chiến đấu trong bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, vừa làm nổi bật lên ý chí anh hùng cường tráng của người cầm giáo.

Thời gian và không gian trong câu thơ cũng bao hàm ý nghĩa rất rộng. Từ “giang sơn” thể hiện một không gian rộng lớn, bao gồm toàn bộ đất nước và tất cả những gì thuộc về đất nước.

“kháp kỉ thu” – sự vượt trội về thời gian. Thời gian vô hạn. Có nghĩa là con người cầm giáo luôn luôn anh dũng, không bao giờ chịu khuất phục. Con người làm chủ cả không gian và thời gian dù không gian vô biên và thời gian vô hạn.

Câu thơ dịch: “Múa giáo non sông trải mấy thu”. Câu thơ có thể hiện ý nghĩa về tinh thần can đảm của người cầm giáo nhưng từ “múa giáo” chưa đủ mạnh mẽ để bộc lộ hết tinh thần quả cảm, quyết chiến quyết thắng của vị anh hùng mà tác giả muốn hướng tới.

Từ “trải mấy thu” cũng chưa đủ dài và rộng như từ “kháp kỉ thu” trong nguyên tác.

Câu 2.

Sức mạnh của quân đội nhà Trần qua câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”:

Câu thơ trên có hai cách hiểu:

Cách hiểu như câu thơ dịch nghĩa: “Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”. Ý chỉ sức mạnh của quân đội nhà Trần vô cùng mạnh mẽ và quyết liệt cả về sức mạnh lẫn ý chí.

Cách hiểu thứ hai: “khí thôn ngưu” là khí thế át sao Ngưu (chỉ chung khí thế át cả sao trời). Nghĩa là quân đội có sức mạnh làm lay chuyển cả trời đất – một sức mạnh vô cùng lớn lao.

Dù hiểu theo cách nào, câu thơ cũng vẫn thể hiện cả ý chí và sức mạnh của quần đội nhà Trần. Sức mạnh ấy luôn hùng dũng và mạnh mẽ.

Câu 3.

Thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo: Lập công (để lại sự nghiệp, lập danh (để lại tiếng thơm).

Chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước.

Cả hai nghĩa trên (Đáp án đúng)

Trong văn hóa cổ truyền của xã hội xưa, người con trai chỉ xứng danh là “đấng nam nhi” khi đã lập được chiến công với dân với nước. Vì vậy, trong bài thơ này, tác giả dùng từ “nợ” để vừa thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo, vừa thúc giục bản thân mình và cũng là động viên các trai tráng khác hãy cố gắng phấn đấu để lập công, lập danh hoàn thành nghĩa vụ với dân với nước, để xứng đáng là một “đấng nam nhi” trong thiên hạ.

Câu 4.

Phân tích ý nghĩa của nỗi “thẹn” trong thơ cuối:

Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu (Nguyên tác)

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu (Dịch thơ)

Trong câu thơ này, tác giả nhắc đến nhân vật lịch sử nổi tiếng Vũ Hầu Gia Cát Lượng. Người bình thường không thể so sánh với nhân vật này được. Nhưng với ý chí và tài năng của mình, Phạm Ngũ Lão đã hướng mình đến Vũ hầu với nỗi “thẹn” rất xứng đáng.

“Thẹn” vì ông cảm thấy rằng bản thân mình vẫn còn chưa làm được công danh to lớn cho đất nước. Vì thế, khi nhắc đến Vũ hầu, ông cảm thấy mình còn kém cỏi và cần phải phấn đấu hơn.

“Thẹn” – còn là một cách thể hiện nhân cách cao quý của người anh hùng Phạm Ngũ Lão. Ông vươn mình đến với những bậc thánh hiền trong lịch sử. Và ông cũng tự nhắc nhở bản thân cố gắng hơn nữa để giúp dân, giúp nước.

Câu 5.

Qua những lời thơ tỏ lòng, em thấy hình ảnh trang nam nhi thời Trần mang vẻ đẹp rất hào hùng, anh dũng và lẫm liệt.

Vẻ đẹp ấy được thể hiện về mọi mặt: ý chí, khí phách và tư thế. Tất cả đều được tác giả thể hiện qua những từ ngữ gợi hình, gợi cảm rất sâu sắc và nghệ thuật.

Không những thế, hình ảnh trang nam nhi thời Trần còn là một tấm gương sáng cho thế hệ sau noi theo. Đó là tấm gương về ý chí sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi; là tấm gương về ý chí quyết tâm xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh.

Mỗi người trong chúng ta hãy tự xây cho mình một lý tưởng sống, một ước mơ cao đẹp giúp ích cho đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!