Xu Hướng 10/2023 # Bàn Về Thơ, Có Ý Kiến Cho Rằng: “Thơ Hay Là Thơ Giản Dị, Xúc Động Và Ám Ảnh”. Chứng Minh Qua “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 13 Xem Nhiều | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Bàn Về Thơ, Có Ý Kiến Cho Rằng: “Thơ Hay Là Thơ Giản Dị, Xúc Động Và Ám Ảnh”. Chứng Minh Qua “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bàn Về Thơ, Có Ý Kiến Cho Rằng: “Thơ Hay Là Thơ Giản Dị, Xúc Động Và Ám Ảnh”. Chứng Minh Qua “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thể loại: Thuộc kiểu bài chứng minh một vấn đề về văn học.

Bố cục: Cân đối, kết cấu chặt chẽ.

Diễn đạt: Văn viết phải lưu loát, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, trình bày sạch đẹp, rõ ràng, có cảm xúc.

Phương pháp; Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận chứng minh (luận điểm rõ ràng, có sức thuyết phục. Học sinh phải biết cách trích dẫn chứng và phân tích các dẫn chứng đã nêu.)

Học sinh có thể viết bằng nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo nắm được và làm toát lên những nội dung cơ bản sau:

Đây là kiểu bài chứng minh một vấn đề về văn học thông qua một nhận định.

Muốn chứng minh được người viết phải hiểu được nhận định và giải thích một cách khái quát nhận định ấy:

Một bài thơ hay là bài thơ có sự kết hợp của các yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh. Ba yếu tố này cùng một lúc được thể hiện hoà quyện trong bài thơ. Nó là kết tinh tình cảm nồng cháy và lí trí một cách nhuần nhuyễn mang tính nghệ thuật của nhà thơ.

Thế nào là giản dị, xúc động và ám ảnh trong thơ:

Giản dị trong thơ: Học sinh biết phân biệt được giản dị không phải là đơn giản. Giản dị để làm nên cái hay của một bài thơ là kết quả của quá trình tinh luyện. Nó thể hiện ở đề tài, ngôn ngữ, trong đặt câu, hiệp vần, trong sử dụng hình ảnh và nội dung thể hiện…

Xúc động: Trước hết là sự xúc động của chính nhà thơ. Thơ là tiếng lòng của thi nhân trong một sự dồn nén cao độ của cảm xúc. Từ tiếng lòng của thi nhân, bằng thơ và qua thơ tạo sự giao cảm và hội ngộ về cảm xúc giữa đọc giả và nhà thơ từ đó thầy được thơ và sự giao hoà giữa thế giới riêng tư của cá nhân và xã hội. Thơ đem đến cho người đọc những rung cảm đẹp góp phần nâng cao và bồi dưỡng tâm hồn con người.

Ám ảnh: Những cảm xúc về vấn đề tác giả thể hiện trong bài thơ phải thực sự có sức gợi: Gợi cho người đọc những trăn trở, nghĩ suy; để lại trong tâm hồn người đọc những cảm xúc không thể nào quên

Cả bài thơ có sáu khổ thơ được viết theo thể ngũ ngôn rất bình dị tạo giọng điệu tâm tình sâu lắng, tự nhiên như một lời tự nhắc nhở, đồng thời cũng là sự sẻ chia, gợi nhắc với mọi người

Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự với trữ tình. Từ câu chuyện của người lính – nhân vật trữ tình trong bài thơ, người đọc cảm nhận được những cảm xúc sâu lắng, xúc động, những trăn trở suy nghĩ mà tác giả muốn gửi gắm.

Tình cảm, cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ tự nhiên, chân thành và thấm thía qua cách chọn lọc các hình ảnh, chọn tình huống, lựa chọn từ ngữ.

Câu Có Ý Kiến 4 Cho Tdfrac An Rằng …

Con cò từ lâu đã được biết đến là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Chế Lan Viên. Con cò – hình tượng thơ xuyên suốt bài thơ và cũng là tên tác phẩm được khai thác từ trong ca dao truyền thống. Hình ảnh này xuất hiện rất phổ biến trong ca dao và dùng với nhiều ý nghĩa. Đó là người phụ nữ cần cù, lam lũ nhưng tất cả đều giàu đức hi sinh. Trong bài thơ này, nhà thơ vận dụng hình tượng ấy để làm biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru. Bài thơ có bố cục ba phần với những nội dung được gắn với nhau bằng một lôgic khá mạch lạc: Hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi thơ ấu; Hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con người trên mọi chặng của cuộc đời; từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi người. Xuyên suốt bài thơ, hình tượng con cò được bổ sung biến đổi trong mối quan hệ với cuộc đời con người, từ thơ bé đến trưởng thành và suốt cả đời người. Mở đầu bài thơ, hình ảnh con cò được gợi ra liên tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Ở đây tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi câu ca dao nhằm gợi nhớ những câu ca dao ấy. Những câu ca dao được gợi lại đã thể hiện ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò trong ca dao. Câu “con cò Cổng Phủ con cò Đồng Đăng” gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống ngày xưa từ làng quê đến phố xá. Hình ảnh con cò gợi vẻ nhịp nhàng, thong thả, bình yên của cuộc sống vốn ít biến động thời xưa. Câu ca dao “con cò mà đi ăn đêm” hình ảnh con cò lại tượng trưng cho những con người cụ thể là người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả, lặn lội kiếm sống… Qua lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn ấu thơ một cách vô thức. Đây chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế giới tâm hồn của con người qua lời ru, của ca dao, dân ca. Con trẻ chưa hiểu nội dung, ý nghĩa của bài ca dao nhưng chúng được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru. Chúng được đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự che chở của người mẹ. Và khép lại đoạn thơ là hình ảnh thanh bình của cuộc sống. Sau những năm tháng nằm nôi, cánh cò trở thành người bạn đồng hành của tuổi thơ: “Cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nơi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đáp chung đôi” Đến tuổi tới trường: “Con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”. Và khi con trưởng thành: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn…”. Con cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ trở nên gần gũi, thân thiết và theo con người đi suốt cuộc đời. Từ trong ca dao, cánh cò đã được tiếp tục sự sống của nó trong tâm thức con người. Hình ảnh ấy được xây dựng bằng sự liên tưởng như được bay ra từ trong ca dao để sống trong lòng con người, theo cùng và nâng đỡ con người trong từng chặng đường. Hình ảnh con cò gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ. Đến phần thứ ba của bài thơ, hình ảnh cánh cò đã được đồng nhất với hình ảnh người mẹ. Tấm lòng của mẹ như cánh cò lúc nào cũng ở gần bên con trong suốt cuộc đời: “Dù ở gần con Dù ờ xa con Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con” Từ đây, nhà thơ khẳng định một quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn và sâu sắc: tình mẫu tử. “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con” Câu thơ đi từ cảm xúc đến liên tưởng để khái quát thành những triết lý. Dù đi đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay đã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng thương yêu, che chở. “Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi” Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng me.Bài thơ sử dụng thể thơ tự do nhưng cũng có câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ. Thể thơ tự do giúp tác giả khả năng thể hiện cảm xúc một cách linh hoạt, dễ dàng biến đổi. Các đoạn thơ được bắt đầu bằng câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu lời ru. Đặc biệt, giọng thơ gợi được âm hưởng của lời ru nhưng không phải là một lời ru thực sự. Đó còn là giọng suy ngẫm triết lý. Nó làm cho bài thơ không cuốn người ta vào hẳn điệu ru êm ái đều đặn mà hướng vào sự suy ngẫm, phát hiện. Không chỉ vậy, trong bài thơ này, Chế Lan Viên vẫn chứng tỏ được sức sáng tạo trong việc tạo ra những hình ảnh nghệ thuật giàu sức gợi. Đó là việc vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao. Hình ảnh con cò là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng tưởng tượng hình ảnh của tác giả. Chế Lan Viên đã chứng minh rằng hình ảnh biểu tượng dù gần gũi, quen thuộc đến đâu vẫn có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới, có giá trị biểu cảm. “Con cò” của Chế Lan Viên là một bài thơ độc đáo. Đọc “Con cò”, ta như thấy trong mình ăm ắp những yêu thương mà cả cuộc đời của mẹ đã dành trọn cho mình.

Phân Tích Ý Kiến Bàn Về Tây Tiến

Đề ra: Có ý kiến cho rằng: “Tây Tiến là bài thơ mang cảm hứng lãng mạn”. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng: “Tây Tiến là bài thơ mang cảm hứng bi tráng”. Chứng minh?

DÀN Ý SƠ LƯỢC

I. Mở bài

II. Thân bài

1. Khái quát

– Tác giả/tác phẩm/ xuất xứ – Giải thích ý kiến: + Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng đưa tinh thần con người vượt lên trên mọi khó khan gian khổ , đạp bằng mọi gian khó để hướng tới tương lai tươi sáng. + Cảm hứng bi tráng là cảm hứng dựa trên đau thương và kiên cường; vừa đau thương vừa hào hùng; hào hùng cả trong những lúc bi thương nhất. >>> Đây là hai nguồn cảm hứng lớn của VHVN giai đoạn 1945 – 1975

2. Chứng minh

a. Tây Tiến mang cảm hứng lãng mạn

– Lãng mạn thể hiện trong đời sống tâm hồn hào hoa, giữa bao gian khổ tâm hồn những chàng chiến binh vẫn mộng vẫn mơ (Mắt trừng…Kiều thơm) – Lãng mạn trong cách cảm nhận thiên nhiên: với những tâm hồn hào hoa ấy, thiên nhiên là đối tượng để thưởng lãm (Dốc lên…xa khơi; Người đi…đong đưa) – Yêu đời, yêu người: đắm say cùng đêm hội đuốc hoa.

b. Tây Tiến mang cảm hứng bi tráng

– Bi thương: + Ngoại hình: ốm đau, tiều tụy + Cái chết dọc đường quân hành – Tráng (hào hùng): + Đời sống chiến đấu phi thường: rừng dày, vực sâu, sốt rét… họ vẫn vượt qua + Tinh thần chiến đấu ,hi sinh xả thân vì lý tưởng: chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh + Hào hùng trong cái chết

– Cả hai ý kiến đều dung, ý kiến thứ nhất thiên về ngợi ca đời sống tinh thần. Ý kiến thứ hai thiên về khẳng định phẩm chất anh hùng. Tuy bàn về hai vấn đề khác nhau nhưng cả hai đều góp phần hỗ trợ và bổ sung cho nhau làm sang tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. III. KẾT BÀI

Làm Rõ Ý Kiến Cho Rằng Chữ “Hồng” Là Nhãn Tự Bài Thơ “Mộ” (Chiều Tối)

Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, nhất là thể tứ tuyệt, thường có nhãn tự (chữ mắt) như là điểm sáng, cái “thần”, linh hồn của bài thơ. Người ta thường nhắc đến chữ “sầu” trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Nếu chữ “sầu” đọng lại một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong thi phẩm đời Đường, thì chữ “hồng” lại sáng lên một ngọn lửa ấm nóng trong bài thơ Chiều tối của nhà thơ cộng sản Hồ Chí Minh trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo lánh:

Lúc ấy, chiều đã muộn. Bác bị giải qua một khu rừng heo hút nơi đất khách quê người. Chỉ có một cánh chim mỏi bay về rừng tìm nơi trú ngụ và một chòm mây cô đơn trôi trên bầu trời, không biết sẽ đi đâu về đâu… Tâm trạng người tù xa xứ cũng vậy. Cả một ngày lê nặng bước chân xiềng xích, mệt mỏi rã rời mà vẫn chưa có điểm dừng chân. Một nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật khiến cho cảnh chiều tối càng thêm vắng vẻ, hiu quạnh, lạnh lẽo. Đó là nỗi buồn nhớ quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng chí của người chiến sĩ cách mạng đang bị giam hãm trong cảnh tù đày gian truân, vất vả.

Nhưng bỗng tứ thơ chuyển đổi khi người tù đi qua một xóm núi bên đường. Không còn cái hiu hắt, lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng vắng lặng, câu thơ bỗng như reo vui lên trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm núi:

Con người lao động hiện ra khoẻ khoắn, tươi vui, đầy sức sống mặc dù cuộc sống của họ còn nghèo nàn, vất vả (chỉ ăn ngô). Hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” hiện lên thật đẹp trong câu thơ, và càng đẹp hơn là cái ánh lửa hồng trong lò than đã toả ấm nóng và ánh sáng ra tất cả, đẩy lùi bóng tối và cái lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng. Ngỡ như ngọn lửa hồng đang hắt lên khuôn mặt cô gái làm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ. Tứ thơ chuyển đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng cả bài thơ, đem ấm nóng và sức sống đến cho tác phẩm. “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”. (Hoàng Trung Thông).

Nhưng do đâu mà có được nhãn tự đó? Do đâu mà một chữ “hồng” đã làm cho người đọc cảm nhận được cái “thần” của bài thơ, linh hồn của bài tứ tuyệt? Chính là do trong lòng thi nhân cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy: ngọn lửa của tình yêu cuộc sống, yêu con người không bao giờ tắt trong lòng nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả những lúc mà cuộc sống của người tù ấy không còn nữa, thì tình yêu ấy vẫn còn, và chất thơ vẫn trào lên để kết tụ lại thành một chữ “hồng” tuyệt đẹp. Ở đây, trong cảnh giải tù này, Bác làm gì còn niềm vui cho riêng mình mà chỉ có nỗi đau, nỗi buồn, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm núi, nhìn thấy cảnh cô gái xay ngô, thì niềm vui đến ngay, và tứ thơ xuất thần bay lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ. Đó là niềm vui cho người lao động, vì người lao động, và hơn thế, còn là sự trân trọng, nâng niu đối với một hạnh phúc thật bình thường, nhỏ nhoi của người lao động nơi xóm núi. Đúng như Hoài Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu không có một tấm lòng nâng niu trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được trong thơ”.

Nghị Luận Ý Kiến Bàn Về Bài Thơ Việt Bắc

Đề bài :Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến ấy qua đoạn thơ sau:

– “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? – Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Hướng dẫn cách làm :

* Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ và ý kiến của Xuân Diệu về bài thơ Việt Bắc. – Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông gắn liền với từng chặng đường lịch sử của đất nước. Việt Bắc là một trong những bài thơ hay của ông viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, là khúc ca hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, là khúc hát ân nghĩa thủy chung của tình quân dân thắm thiết. – Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị. Chính vì vậy khi nhận xét về bài thơ Việt Bắc, Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ sau:

– Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? – Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

* Thân bài:

Ý 1 : Giải thích ý kiến, nhận định – Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự kiện chính trị nhằm mục đích tuyên tuyền, cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị thường có nguy cơ rơi vào khô khan, áp đặt. – Ý kiến của Xuân Diệu: Tố Hữu đã “trữ tình hóa” thơ chính trị, để thơ chính trị thực sự là thơ, có sức rung cảm sâu xa. Đây là ý kiến đánh giá rất cao về thơ Tố Hữu.

Ý 2 : Phân tích đoạn thơ để chứng minh nhận định

Trước khi phân tích đoạn thơ, học sinh cần nêu khái quát về tác phẩm : Hoàn cảnh sáng tác, nội dung, bố cục, thể thơ, nguồn cảm hứng,…(nếu những thông tin này đã viết ở phần mở bài rồi thì không nhắc lại trong phần thân bài nữa) – Đoạn thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầy xúc động của những người đã từng gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình. Bao trùm trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau. Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt Bắc:Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn ? + Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Hai đại từ “mình” – “ta” được lặp lại nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, nghe thiết tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt. “Mình” là người cán bộ về xuôi, “ta” là người Việt Bắc. + Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du: Mười lăm ấy biết bao nhiêu tình. đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu. Câu hỏi tu từ “có nhớ ta”, “có nhớ không” nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình. – Ở bốn câu đầu này, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc không. Nghĩa là có nhớ quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng không? Hỏi mà là nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính mình. Lời hỏi cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc. – Bốn câu thơ tiếp là lời người cán bộ về xuôi. Đáp lại lời của người Việt Bắc,người cán bộ cất tiếng thiết tha:Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay. + “Ai” là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc. + Các từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn. + “Áo chàm”: Nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việ Bắc thường mặc áo chàm. Màu chàm là màu đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt mà giản dị, chân thành, chung thủy. Câu thơ “Áo chàm…phân li” ngắt nhịp 3/3 tạo khoảng lặng lắng đọng cảm xúc. Đó có thể là khoảnh khắc người dân Việt Bắc không thốt nên lời hay đang buông tiếng nấc nghẹn ngào tha thiết. + Câu hỏi tu từ và dấu “chấm lửng” ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thể hiện tình cảm tha thiết. Ngôn ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động. Biết nói gì, không phải là không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương. – “Việt Bắc” chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu. – Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành tựu lớn lao của đời thơ Tố Hữu. – Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng. – Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến. * Kết bài: – Đoạn thơ trên sử dụng thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu trữ tình phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ, điệp từ,…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. – Tám câu thơ đầu khái quát cảm xúc bao trùm bài thơ: Tình cảm gắn bó, ân tình, thủy chung sâu nặng giữa người dân Việt Bắc và chiến sĩ cách mạng được diễn tả chân thật, tha thiết, trìu mến. Chính tình quân dân cao quý này đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.

Tài liệu sưu tầm

Full tài liệu về bài thơ Việt Bắc : https://vanhay.edu.vn/tag/viet-bac

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

Nghị luận ý kiến bàn về văn học, việt bắc

Có Ý Kiến Cho Rằng, Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng Đậm Chất Lãng Mạn. Qua Bài Thơ, Em Hãy Làm Rõ Điều Này

1. Mở bài

Tây Tiến là bài thơ xuất sắc của Quang Dũng. Bài thơ Tây tiến thể hiện nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào của tác giả về một thời kì lịch sử hào hùng, về một đoàn quân kiêu dũng và hào hoa.

Không chỉ thế, Tây Tiến còn thể hiện vẻ đẹp thấm đầy chất lãng mạn.

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp lãng mạn của Tây Tiến:

– Trước hết hiện ra qua bức tranh đầy ấn tượng bởi đèo cao, vực thẳm, tiếng gầm của thác và những cảnh tượng hoang vu.

– Vẻ đẹp của Tây Tiến còn thể hiện ở những đường nét mềm mại, đầy chất thơ.

b. Tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh một đoàn quân dũng cảm, coi thường cái chết.

c. Lính Tây Tiến không những kiêu dũng, can trường, sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh, họ còn là “những thi sĩ mà không làm thơ”.

d. Đánh giá

– Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến là một phương diện quan trọng tạo nên vẻ đẹp của bài thơ.

– Đôi cánh lí tưởng, men say của cảm hứng đã đem đến cho bài thơ một âm hưởng khỏe khoắn tràn đầy niềm tin. Trên nền của cái “bi”, cái “tráng” vẫn hiện như là yếu tố chủ đạo, giữa hiện thực đầy thử thách gian lao, chất lãng mạn đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho người lính, khiến họ vẫn vững vàng đi về phía trước.

3. Kết bài

Tây Tiến với cái chất lãng mạn tràn đầy sẽ còn sống mãi đến mai sau.

B. BÀI LÀM

Tây Tiến là bài thơ xuất sắc của Quang Dũng. Toàn bộ Tây tiến là nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào của tác giả về một thời kì lịch sử hào hùng, về một đoàn quân kiêu dũng và hào hoa.

Không những thế, Tây Tiến còn là vẻ đẹp thấm đầy chất lãng mạn. Trên cái nền hiện thực khốc liệt của chiến tranh, chính chất lãng mạn, men say của lí tưởng đã nâng đỡ những chàng vệ quốc, giúp họ ” cứng đá mềm” bước vào cuộc chiến đấu trường kì với quyết tâm: “ra đi, thề cùng sông núi; ra đi, ra đi thà chết chớ lui…”.

Thực ra, bên cạnh lãng mạn “tiêu cực” còn có cả lãng mạn “tích cực”. Ở bài thơ Tây Tiến “lãng mạn” được hiểu như là sự rung động về những lí tưởng cao đẹp, là khát vọng được sống một cách mạnh mẽ, khác thường. Con người mang trong mình những ước vọng lãng mạn thường là những con người cao cả, ôm ấp chí nhớn, mang hoài bão của “chim bằng bạc gió”.. Chính chất lãng mạn cao cả này đã đem đến cho Tây Tiến một vẻ đẹp riêng khó trộn lẫn với các bài thơ khác cùng thời.

Cảm hứng lãng mạn thường hướng về những vẻ đẹp khác thường. Nhà thơ thường sử dụng một cách rộng rãi thủ pháp đối lập nhằm tạo ra những ấn tượng mạnh, khơi gợi óc tưởng tượng của người đọc. Vẻ đẹp lãng mạn của Tây Tiến, vì thế, trước hết hiện ra qua bức tranh hoang vu, dữ dội, đầy “bí mật” về rừng núi Tây Bắc.

Đó là một bức tranh đầy ấn tượng bởi đèo cao vực thẳm:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Đó là tiếng gầm của thác, những cảnh tượng hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Vẻ đẹp của Tây Tiến còn thể hiện ở những đường nét mềm mại đầy chất thơ: ấy là một “chiều sương” bảng lảng, là ” người trên độc mộc”, là nhưng “hồn lau” phất phơ như vẫy gọi … Sự tương phản giữa nét ” vĩ” và “thơ mộng” làm hiện lên vẻ đẹp chân thực của một miền đất “chơi vơi” trong nỗi nhớ của nhà thơ.

Tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh một đoàn quân dũng cảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Hiện thực chiến tranh hết sức khóc liệt nhưng trong muôn vàn gian khó, hiểm nguy, người chiến sĩ Tây Tiến hiện lên thật oai hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.

Trong thực tế người lính Tây Tiến, do khó khăn, gian khổ, ăn uống sinh hoạt thiếu thốn đến nỗi nhiều người da xanh tóc rụng. Nhưng vân đề là đoàn quân ấy “ốm” chứ không thể “yếu”. Ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng biến họ thành những trang nam nhi dám ra đi xả thân vì nghĩa lớn. Hơi thơ cổ điển đã góp phần tô đậm thêm vẻ hiên ngang, oai hùng của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Lính Tây Tiến không chỉ kiêu dũng, can trường, sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh, họ còn là “những thi sĩ mà không làm thơ”. Băng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã hé cho ta thấy thế giới tâm hồn phong phú của những chàng trai ra đi từ đất kinh kỳ. Đó là sự tinh tế khi cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” đó còn là sự đa tình, mộng mơ của họ: ” Kia em xiêm áo tự bao giờ”, “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Cũng như những anh vệ quốc trong Đồng chí của Chính Hữu, lính Tây Tiến là những chàng trai sẵn sàng lên đường vì lí tưởng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Nhưng vẫn là những người trai của đất kinh kì thanh lịch, họ có những nét riêng không thể lẫn. Đó là cái chất hào hoa, đa tình rất mực. Chính cái hào hoa, đa tình ấy đả giúp họ vươn lên, sống đẹp hơn và cao thượng hơn.

Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến là một phương diện quan trọng tạo nên vẻ đẹp của bài thơ. Trong bao nhiêu gian lao, thiếu thôn, vẻ đẹp lí tưởng, chí lớn của những chàng trai trẻ hiện lên thật rực rỡ. Họ đã đến những nơi biên cương xa xôi kia, dấn thân vào chốn hiểm nguy kia bằng sức mạnh của lí tưởng, của lòng yêu nước vô bờ. Lí tưởng cao đẹp dã khiến họ dám nhìn vào cuộc chiến tàn khóc bằng cái nhìn nhạo nghễ, ngang tàng, dầu dài, hiên ngang. Đây không phải là thứ “iêng hùng” vặt vãnh mà là những nét đẹp cao cả của những anh hùng vệ quốc: “Quyết tử cho Tố quốc quyết sinh!”

Đôi cánh lí tưởng, men say của cảm hứng đã đem đến cho bài thơ một âm hưởng khỏe khoắn tràn đầy niềm tin. Trên nền của cái “bi”, cái “tráng” vẫn hiện lên như là yếu tố chủ đạo, giữa hiện thực đầy thử thách gian lao, chất lãng mạn đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho người lính, khiến họ vẫn vững vàng đi về phía trước: “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. ., không một gian khó nào có thế cản nổi ý chí của họ.

Nếu như với Đồng chí, Chính Hữu đã góp vào thơ ca chống pháp một vẻ đẹp mộc mạc, chân chất thì với Tây tiến của Quang Dũng đã góp vào thơ ca Việt Nam một vẻ đẹp đầy chất lãng mạn.

Ngày nay, khi nhìn về thời “Tây tiến”, quả có lúc ta thấy còn nhiều thô sơ ấu trĩ trong đời sống: nhưng không vì thế mà ta không nhận thấy cái vẻ đẹp lí tưởng, cái tâm hồn lâng mạn của con người – hiện lên thật lộng lẫy. Với cái lộng lẫy ấy, cái chất lãng mạn tràn đầy ấy, thơ ca cất cánh và sống mãi đến hôm nay. Tây Tiến chính là một trường hợp như thế.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bàn Về Thơ, Có Ý Kiến Cho Rằng: “Thơ Hay Là Thơ Giản Dị, Xúc Động Và Ám Ảnh”. Chứng Minh Qua “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!