Xu Hướng 12/2023 # Bài Văn Hay Của Hsg :Đọc Một Câu Thơ Hay, Ta Thường Có Cảm Giác Đứng Trước Một Bến Đò Gió Nổi, Một Khao Khát Sang Sông, Một Thúc Đẩy Lên Đường Hướng Thiện Với Những Vùng Trời Tốt Đẹp Hơn, Nhân Tính Hơn # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài Văn Hay Của Hsg :Đọc Một Câu Thơ Hay, Ta Thường Có Cảm Giác Đứng Trước Một Bến Đò Gió Nổi, Một Khao Khát Sang Sông, Một Thúc Đẩy Lên Đường Hướng Thiện Với Những Vùng Trời Tốt Đẹp Hơn, Nhân Tính Hơn được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

“Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn.” (Nghĩ về thơ – Lê Đạt). Bằng những hiểu biết về thơ của bản thân, anh/chị có đồng tình với quan điểm trên?

Bài làm

Như bông cúc nhỏ sinh ra để luôn tự hát về vùng đất mênh mang nắng gió. Như ánh mặt trời sinh ra để thiêu đốt đi cái lạnh vĩnh cửu của mùa đông. Văn học sinh ra để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nói như Lê Đạt: ” Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn “.

Văn chương từ lâu đã xuất hiện trong tiềm thức của con người như một cuộc gặp gỡ vô tình nhưng cũng có thể là hữu ý. Nó tóe lên bằng sự giao hòa giữa cảm xúc và ngoại cảnh hoặc bằng những bó đuốc số phận với số phận. Người xưa quan niệm văn chương chỉ là một trạng thái bộc lộ ra khỏi những dòng cảm xúc của con người, chúng va chạm với thanh điệu của cuộc sống hình thành nên một thứ gọi là hình ảnh thơ. Vậy thì văn chương tức là mỗi mảnh ghép của tạo hóa, một mảnh ghép là một hình ảnh của những số phận khác nhau: Hạnh phúc có, tuyệt vọng có, đau khổ có… Có ý kiến cho rằng văn học chỉ ngấm ngầm chứa đựng và phản ánh lại hiện thực của cuộc sống. Nói cách khác, văn học đơn giản chỉ tái hiện và kể lại những sự việc diễn ra trong đời sống hằng ngày, hay quá trình sáng tạo ra văn chương của người nghệ sĩ cốt lõi chỉ là hôm nay anh ta muốn bộc lộ những hỉ, nộ, ái, ố của chính mình? Liệu rằng đó có phải chức năng của văn học hướng đến yếu tố chân – thiện – mĩ hay không? Không! Thiên chức của người nghệ sĩ là sáng tạo ra cái đẹp từ chất liệu cuộc sống và thiên chức của văn học nói chung là nâng đỡ và giáo dục con người. Theo quan niệm về văn chương của Lê Đạt: Văn học nói chung và thơ ca nói riêng phải gợi cho người đọc một sự thức tỉnh trong tâm hồn, người nghệ sĩ phải làm sao để từng ý thơ được viết ra là “một bến đò gió nổi”, một cơ hội trong suốt lộ trình dài đằng đẵng của cuộc sống, một ý nghĩ muốn khao khát thoát khỏi sự ràng buộc của cuộc đời. Mồi vẫn thơ cất lên phải có sự va chạm giữa tâm hồn và cảm xúc con người, ý thơ cho ta một thứ khát khao mãnh liệt với cuộc đời, hình ảnh của thơ tóe lên trong tâm trí của mỗi người với những quan niệm về nhân sinh, quan niệm về cái đẹp. Đến khi từng giai điệu trong thơ hoàn toàn dừng hẳn thì con người lại có một “khao khát sang sông”, một mong muốn thay đổi số phận, một thúc đẩy lên đường hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn. Tóm lại, quan niệm của Lê Đạt hướng về chức năng giáo dục của văn học trong hệ thống lý luận.

Ngươi xưa thường nói: Văn học là tấm gương phản ánh thời đại. Viết thảy những gì trong cuộc sống quanh ta: bầu trời, sắc mây, đồi núi, đồng bằng, cây trái, chim muông, có đời sống riêng, không phụ thuộc vào ý thức con người. Đồng thời, mỗi số phận nói riêng là một kho vàng vô tận về những cảm xúc và thanh điệu để người nghệ sĩ sáng tạo nên văn chương. Người thi sĩ làm thơ có hay và bay bổng hay không, điều đó phụ thuộc và mảnh đấy mà họ đã gieo mầm có màu mỡ và phì nhiêu ra sao! Con người lại chính là yếu tố cốt lõi tạo nên trong tâm hồn nghệ sĩ một mảnh đất màu mỡ và tốt tươi. Trng cái đa sắc của cuộc đời đang độ kết tinh, những bể muối mặn nơi vực sâu thẳm như chứa đựng một số phận đau khổ, đắng cay, tuyệt vọng… Người thi sĩ làm thơ như có máu gì trên đầu ngọn bút, như chắt lọc những nỗi đau từ trong tâm can. Chính nhà thơ Chế Lan Viên đã sơm nhận thức được điều đó và gửi gắm chúng vào thơ ca của mình:

“Hiểu cho hết cái đau của cuộc đời

Nghe tiếng cười của trẻ con nheo nhóc

Điệu hát những bà mẹ xanh xao

Rồi lặng lẽ cuốc đà

Miếng đất thơ trong vườn anh”.

Thơ ca luôn nồng nàn và ấm áp hơi thở cuộc đời, mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn người đọc những cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi!

Trôi theo dòng chảy của lịch sử, thơ ca đã lặng lẽ nảy mầm và dồng hành cùng con người trong mọi thời đại. Văn học đã gắn bó với tuổi thơ của chúng ta từ những câu ca dao mượt mà: “Con cò mà đi ăn đêm”, “Đêm qua tát nước đầu đình”, từ những câu chuyện cố tích trữ tình về một cô Tấmxinh đẹp, thảo hiền; về một chàng Thạch Sanh dũng cảm; một chú mèo vui nhộn. Con người trưởng thành dần lên với những câu chuyện, những bài thơ ca ngợi cái đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và con người, nguyền rủa và xa lánh những điều xấu xa độc ác. Đối với con người, văn chương trở thành món ăn tinh thần, món ăn không thể thiếu được. Văm chương đi suốt chiều dài lịch sử loài người. Văn chương bầu bạn, thoe con người mà lớn lên. Thơ ca đồng hành cùng con người qua những cuộc xâm lăng của Tổ quốc, nó thục giục và cổ vũ con người đứng lên giành lại quyền sống và giữ gìn nền độc lập dân tộc.

“Đất nước

Phải chặt tre đóng cọc mà giữ lấy

Đất nước

Phải đan phên đổ đất mà giữ lấy

Đất nước

Phải phá nhà, chặt cây vườn vác ra mà giữ lấy

Đất nước

Phải neo người xuống sông, chặn nước mà giữ lấy

Đất nước

Đất nước không thể trôi được!”

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Phải chăng từ sâu thẳm trong từng vần thơ như chứa đựng một nỗi đau da diết? Từng câu thơ, ý thơ cất lên như mang theo nỗi sầu thời thế, một tâm trạng khắc khoải khôn nguôi trước cảnh “nước mất nhà tan”. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm dường như ý thức được những sự hi sinh cao cả của lớp lớp thế hệ đi trước để bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ xâm lược, thi sĩ đã rõ ràng nhìn thấy máu và nước mắt của biết bao người anh hùng đã ngã xuống trên từng tất đất quê hương. Người nghệ sĩ phải sáng tác văn chương bằng đôi mắt nhìn thấu hiện thực bẽ bàng và trái tim ấm áp của chính mình để dệt nên những vần thơ vàng óng ánh. Mỗi vần thơ của người nghệ sĩ phải là liều thuốc độc về trái tim. Con người đến với thơ ca để cảm nhận một nỗi đau da diết, cơn đau cắt xé trong từng tấc thịt của chính mình, nỗi đau về thể xác hòa quyện với sự xoa dịu về tinh thần khiến cho con người thức tỉnh trước những mộng cảnh tối tăm, mịt mù của cuộc đời. Và từ nơi vực sâu thăm thẳm ấy, thì sẽ là kẻ mang những vần thơ sáng chói diễm lệ rọi đường và cứu vớt con người ra khỏi cái bóng đêm của mộng cảnh. Họ sẽ biết ý thức về nhwungx sự hi sinh của biết bao nhiêu cuộ đời đã ngã xuống, con người tự biết rằng: họ cần phải sống, cần tiếp tục sống. Bởi lẽ có một sứ mệnh cao cả ngày đêm chờ đợi họ hoàn thành. Đó há chẳng phải là một minh chứng rõ ràng khi thơ ca là một “bến đò gió nổi”, “một khao khát sang sông” hay sao?

Tôi lại nhớ đến câu nói của Maia cốp xki: “Trên đời có những vấn đề chỉ có thể giải quyết bằng thơ”. Phải chăng đôi cánh của thơ ca chính là dòng tình cảm chân thật và đằm thắm? Thơ ca mang những tâm trạng đến với những tâm trạng, thơ ca có khả năng bao quát sâu rộng không gian và thời gian. Từ đó, gợi mở trong lòng người đọc những gì chưa có. Những cái đó sẽ ở rất lâu trong lòng ta, có những lúc nó sẽ bùng lên dữ dội, nó sẽ giúp ta hiểu và đánh giá chính ta và những con người xung quanh ta. Từ đó, thơ ca sẽ giúp chúng ta cải tạo và nâng con người ta lên:

“Khi ta đã say mùi hương chân lí

Đời đắng cay không một chút ngọt bùi

Đời đau buồn không một tiếng cười vui

Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng!”

(Như những con tàu – Tố Hữu)

Hiện thực như sóng nhạc cuồn cuộn, những ý thơ nổi lên như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Một đoạn thơ nếu chỉ nghe thôi thì chưa hiểu hết cái hay, phải đọc nó lên, phải cho tất cả khả năng của nó biểu hiện ra trên nhạc điệu xô bồ của thực tại. Trước mọi “đắng cay”, “đau buồn” của cuộc sống, con người tìm đến thơ ca như một lối đi duy nhất để tìm đường gaiir thoát. Từng vần thơ, ý thơ nguoiừ nghệ sĩ như ý thức được hết thảy những gì mà con người phải trải qua để rồi anh gieo vào từng lời thơ của mình một sự đồng cảm sâu sắc. Có thể nói: thơ ca vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà người nghệ sĩ mong trong lòng. Nghệ sĩ giới thiệu với chúng ta một cảm giác tình tự, tư tưởng bằng cách làm sống hiển hiện ngay lên tâm hồn của chúng ta một cảm giác tình tự, tư tưởng ấy. Nói như Nguyễn Đình Thi: “Nghệ thuật không đứng bên ngoài trơ vẽ cho chúng ta đương đi, nghệ thuật vào đốt lửa bên trong lòng chúng ta, khiến chúng ta phải bước lên trên đường ấy”. Phải chăng, chính thơ ca đã góp phần giải phóng con người thoát khỏi biên giới của chính mình?

Xuyên suốt trong quá trình sáng tác văn học, thơ ca không phải ngẫu nhiên mà bay đến đồng cảm với tâm hồn người nghệ sĩ. Mà chính anh phải nhìn thấy lớp váng động của cuộc đời để thổi chúng vào thơ. Bởi thế mà thơ anh khơi dậy trong lòng người đọc lớp lớp những đợt sóng cuộn trào và muôn vàn cung bậc cảm xúc tình cảm: yêu thương, căm giận, xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng khuâng. Bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ không phải là một thứ tôn giáo cao siêu, huyền bí, cũng không phải là những ghi chép tủn mủn, vặt vãnh, vô giá trị về cuộc đời, về con người quanh ta. Thi sĩ không thể làm thơ nếu của lòng đóng khép, nếu không “mở hồn ra đón nhận lấy tất cả váng động của đời”. Thơ của anh sẽ chẳng còn là thơ nữa nếu nó không phải là một lời thức tỉnh về cuộc đời, nếu nó không làm cho người đọc mở ra một vùng trời mới tốt đẹp hơn, nhân tính hơn:

“Đi bạn ơi, đi! Sống đủ đầy

Sống trào sinh lực, bốc men say

Sống tung sóng gió thanh cao mới

Sống mạnh dù trong một phút giây

Đi, bạn ơi, đi! Cả cuộc đời!

Của ta nào chỉ của ta thôi

Đã vay dòng máu thơm thiên cổ

Phải trả cho ta mạch giống nòi!”

Tôi đọc những dòng thơ của Tố Hữu vào một buổi trưa yên tĩnh và tôi thấy rằng thi sĩ của chúng ra chưa hoàn toàn thất vọng về cuộc sống. Cũng như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua, tôi cảm nhận được những luồng gió vô tình trong từng vần thơ của anh như một lời thúc giục con người thoát khỏi một cuộc sống bế tắc, không lối thoát để hướng họ đến những lối sống đẹp. Có lẽ, anh cũng như bao người nghệ sĩ khác, một con người biết nâng niu và cực khổ chắt chiu trong từng vần thơ của mình là một lời khuyên nhủ, răn dạy con người đi đến một chân trời mới. Bởi lẽ trong nhận thức của chính mình, người nghệ sĩ vẫn khao khát được sống, được yêu, được hạnh phúc. Và họ chắc chắn rằng, hạnh phúc của chính mình phải bắt nguồn từ thơ ca. Chẳng phải Chế Lan Viên đã từng khao khát khẳng định:

“Em nhắn về: sao anh chẳng làm thơ?

Anh đang bận,

Bận gì? Bận làm thi sĩ!

Bận dời lòng anh đến những sao trời, ra canh bể

Nơi những ngã tư đời, nơi những ngã ba!”

(Số tay thơ – Chế Lan Viên)

Nếu văn học nói chung là vẽ bằng từ thì rong thơ ca chủ yếu vẽ bằng nhạc điệu của lời nói, nhạc điệu của đời sống, của tâm hồn kết tinh vào lời nói. Để rồi, từ khối kết tinh ấy thi sĩ sẽ mang tâm hồn người đọc hướng về cái trắng tinh khiết của bể muối, để gạn lọc những hạt sạn của hiện thực và đưa con người về với chính mình! Há chẳng phải thơ ca là một “cái cớ” hoàn mỹ cho sự thay đổi của con người sao?

Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” nghĩa là trong thơ có họa, hàm trog đó là một lời khen lớn. Và người đời sau cũng có thể khen: trong họa có thơ, có nhạc. Tính tạo hình trong thơ ca là sự kết tinh từ đường nét và am thanh, từ họa và nhạc. Mà họa lại chính là phác họa của cuộc sống, nhạc chính là giai điệu của tình yêu. Nói cách khác: thơ ca mang con người đến gần nhau hơn, hiểu nhau hơn khi họ thực sự yêu thương nhau, cảm thông cho nhau. Bởi lẽ tình yêu là một thứ cảm xúc thăng hoa, đẹp đẽ của con người, khi yêu, khi thương con người mới thực sự tìm ra cho mình những khát vọng mới, một chân trời mới ngập tràn tin yêu! Thứ cảm xúc tóe lên đôi khi chỉ cần một chút đồng cảm, một chút sự sgioosng nhau giữa người với người:

“Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tưới thắm vô ngần

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước

Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn!”

Hay đó chỉ đơn giản là một thứ xúc cảm nảy nở lên từ tình yêu tha thiết với quê hương này:

“Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ

Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ!

Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển

Xanh trời, xanh của những giấc mơ…

Tôi bay giữa màu xanh giải phóng

Tầng thấp, tầng cao, chiều dài, chiều rộng

Ôi! Việt Nam yêu suốt một đời

Nay mới được ôm người trọn vẹn, người ơi!”

(Vui thế, hôm nay – Tố Hữu)

Tiếng nói của thơ có lúc giống như những lời tâm tình, làm sống dậy trong lòng ta những kỉ niệm của đất nước, của quá khứ xa xôi. Thơ nói với ta có lúc bằng giọng ngọt ngào của người chiến sĩ đối với quê hương, có lúc lại bằng giọng thủ thỉ, tâm tình của người yêu. Thi sĩ đi từ cái hữu hạn của đời người để đến với cái đẹp, mà cái đẹp là từ đời sống mà ra. Vì thế, trong cái vô hạn của thơ ca, nó dường như mang đời sống và tâm hồn của con người vào chính mình. Khi thơ ca đã trở thành một dãy cảm xúc dạt dào trong trái tim của mỗi người thì hết thảy những gì mà nó chứa đựng: yêu thương, xót xa, căm giận luyến tiếc sẽ theo chúng ta mà đồng hành trên cuộc đời. Những cảm xúc thăng hoa của tình yêu sẽ giúp con người thoát khỏi vực sâu của cuộc sống, hướng họ đến những chan trời mới đfầy niềm tin yêu và ngập tràn hạnh phúc.

Tôi tự hỏi: Không biết đôi cánh nào của thơ ca đã bay đến cùng tôi, cùng cacsc bạn, để đốt lên trong chúng ta ngọn lửa tôi yêu và gột rửa trong ta những vết hằn của thời gian? Tôi cũng không biết tự bao giờ và từ lúc nào, chỉ biết thơ ca đến với tôi bằng những xúc cảm rất đỗi chân thực, đôi cánh của thơ ca đã nhiều lần nâng đỡ tôi ra khỏi cái bể khổ của cuộc đời! Thi sĩ ơi! Dù phải theo ngã nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: thơ ca phải là “một bến đò gió nổi”, “một khao khát sang sông”, là một vùng trời mới với những ước mơ và khát vọng mới.

Lê Đạt đã đưa ra một quan niệm văn học sáng suốt về chức năng giáo dục của văn chương. Ông cho rằng: thơ phải cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ luồng gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nen đẹp đẽ và gieo vào lòng người đọc một khát khao đổi mới, hướng đến một chân trời tốt đẹp. Một nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề, lặn sâu vào đại dương cuộc sống để gạn lọc những xô bồ của hiện thực, từ đó giáo dục và nâng đỡ con người được “khao khát sang sông”. Nghề sáng tác văn chương là một sứ mệnh cao cả, không phải bất kì người nghệ sĩ nào cũng có thể thực hiện được, văn chương sáng tác nên phải hay, phải mang tính giáo dục và nuôi dưỡng tâm hồn của con người. Đó mới chính là sứ mệnh, trách nhiệm vĩ đại của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

Bài văn sưu tầm

Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Những Bài Thơ Hay Tâm Trạng Đứng Trước Biển Một Mình Mới Nhất

Tác giả: Dạ Thế Nhân

Đứng trước biển ta thấy mình vô nghĩa Cuộc trần ai.. tan vỡ..vỡ tan rồi Ta chợt thấy mộng đời là hư ảo Cuộc trăm năm, như chiếc áo bạc màu

Đứng trước biển ta thấy hồn ngơ ngác Mong một lần vượt thoát chốn u mê.

BÀI THƠ: MẮT BUỒN

Tác giả: Huỳnh Ny

BÀI THƠ: VU VƠ VỚI BIỂN

Tác giả: Thiên Ân

Em đứng một mình trước biển Nghe sóng và bờ xô nhau Nghe dòng thời gian tan biến Nghe từng giọt lệ thương đau

Em đứng muôn chiều không nói Tóc bay vội vã theo mùa Bờ cát hờn hờn, tủi tủi Chào em cô bé ngày xưa!

Em đứng đời lên tiếng gọi Hải âu phiêu bạt nơi nào?Con người ắp đầy giận dỗi Xin thời gian hãy qua mau!

BÀI THƠ: BIỂN VÀ TA

Tác giả: Ho Nhu

Anh cũng muốn biển thôi đừng mặn chát Nhường ngọt ngào cho cơn khát yêu thương Để thuyền tình đi đến những thiên đường Đẹp lộng lẫy giữa đại dương sâu thẳm

BÀI THƠ: CÔ GÁI BÊN BỜ BIỂN

Tác giả: Hàn Tuyết

BÀI THƠ: BÊN BIỂN NHỚ NGƯỜI

Tác giả: Phạm Hiếu

THƠ TÌNH: BIỂN VÀ TA

Tác giả: Nguyễn Mận

BÀI THƠ: BIỂN GỌI TÊN EM

Tác giả: Thiên Ân

Em đứng bơ vơ giữa biển trời Thả hồn theo gió biển mù khơi Thân mềm,dáng mỏng ươm mơ ước Bao trái tim người lại chơi vơi

Em đứng hồn nhiên gieo ý thơ Cát vàng sóng vỗ dạt đôi bờ Ôm bàn chân nhỏ ru nhè nhẹ Biển hờn trách móc chuyện vu vơ

BÀI THƠ: LỜI TẠ TỪ VỚI BIỂN

Tác giả: Nguyễn Mận

Người vẫn bảo người cho ta hết thảy, Ôm thân gầy hòa tan chảy niềm đau, Hét thật to trước bát ngát một màu, Trước thứ nước đục ngàu khi xanh mát.

Biển kìm nén cơn lửa tình nóng bỏng Nghe tim sầu lạc lõng giữa trùng khơi. Biển… Biển ơi… Ta say cả cuộc đời, Mà xa quá tay với hoài chẳng tới…

BÀI THƠ: SUY TƯ TRƯỚC BIỂN

Tác giả: Nguyễn Đình Huân

BÀI THƠ: MỘT MÌNH

Tác giả: Đức Trung – TĐL

Đợi chờ người mãi người ơi! Chỉ còn sóng biển hát lời du dương Người đi xa cách bốn phương Có nghe tiếng sóng yêu thương dội về…?

BÀI THƠ: VỀ VỚI BIỂN…!

Tác giả: Ngọc Hân

Tiếng lòng em giờ nghe sao lạ quá Nỗi nhớ nhung tím cả một lối về Con đường dài gió thổi lạnh tái tê Trong gió thoảng mơ anh về chung lối!

Theo chúng tôi

Nghị Luận: Một Câu Thơ Hay Là Một Câu Thơ Có Sức Gợi (Lưu Trọng Lư)

Nghị luận: “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi” (Lưu Trọng Lư)

Nhà văn nguyễn Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Nghĩa là phải có sức khơi gợi ở người đọc những cung bậc tình cảm sâu thẳm. Bàn về điều đó, nhà thơ Lưu Trọng Lư từng khẳng định: “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi “.

Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần, nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen, độc hại…. Người “phu chữ” của cuộc đời hẳn đã phải như chàng trai Samet trong tác phẩm của Pautovski đi khắp nơi để gom bụi quý tạo thành một bông hồng vàng giá trị. Và công việc ấy lại càng khó khăn hơn bởi khi nó hoàn thành, người đánh giá nó không ai khác ngoài độc giả. Câu thơ có tồn tại được hay không, có chỗ đứng trong lòng người đọc hay không còn phụ thuộc vào việc “sức gợi” mà nó tạo ra trong lòng người.

Nói về thơ có rất nhiều ý kiến, có người dùng những ngôn từ trau chuốt để bày tỏ quan điểm sáng tác của mình, nhưng cũng có những quan điểm thật hàm súc như của Lưu Trọng Lư. Quan niệm “hay” hay “dở” thật ra nằm trong một phạm vi rất chủ quan. Nhưng những sự chủ quan đó luôn có một điểm giao nhau và Lưu Trọng Lư đã dùng câu này để nói về điểm giao nhau đó, là điều kiện cần để câu thơ được người ta đánh giá cao.

“Sức gợi” tức là những khoảng trắng trong tác phẩm văn học, là những tín hiệu nghệ thuật mang hàm ý sâu thôi thúc người ta đọc và suy ngẫm. Gợi cho độc giả những tư tưởng, tình cảm mới mẻ cũng là gợi mở cho- người đọc đi tìm một cách hiểu khác, ở bất cứ cách hiểu nào, đó cũng là cách ta đánh giá một câu thơ hay, một nhà thơ bậc tài. Thơ hay, thơ bắt nguồn từ cảm xúc và tìm đến cảm xúc cũng là lí lẽ muôn đời của người cầm bút, như nhà phê bình Hoài Thanh nhận định: “Cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

Qua quá trình tiếp nhận mang bản chất là đồng sáng tạo nên người đọc chính là người tạo nên số phận thứ hai cho tác phẩm. Nếu bỏ qua yếu tố này, thi tác phẩm sẽ không có sức sống vì một tác phẩm không có sức gợi là một tác phẩm chết. Đặc điểm thơ muôn đời vẫn là “ý tại ngôn ngoại” và những ý ở ngoài lòi đó là nơi cần độc giả sử dụng tài năng và tâm huyết của minh, để lấp đầy “khoảng trắng” mà đến với tư tưởng tác giả. Đối với con người bình thường, ta đã thấy gì mà người ta có quá dễ dàng thì sẽ không biết quý trọng và mau chán nản.

Một câu thơ hay cũng như là một báu vật vô giá trị vậy, thôi thúc người ta tìm chiếc chìa khóa cho nó để tiếp cận tư tưởng của nhà văn. Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ảm ảnh”. Sở dĩ có sự ảm ảnh bởi vì câu thơ ấy thôi thúc người ta suy nghĩ về nó, hòa tâm của mình vào bài thơ và trăn trở tìm cho ra chiếc chia khóa thơ còn được cất giữ trong ngõ ngách tâm hồn. Cùng một câu thơ nhưng nhiều người, nhiều hoàn cảnh, nhiều số phận có nhiều cách hiểu khác nhau. Chính vì thế mà thơ có sức sống bất diệt nối tiếp từ thời đại này sang thòi đại khác, số phận này sang số phận khác.

Kết thúc bài thơ Đồng chí, nhà thơ Chính Hữu viết: “Đầu súng trăng treo” hết sức ấn tượng. Chỉ bốn từ thôi mà gợi ra nhiều cách hiểu. Tác giả đã ca ngợi hình ảnh đẹp hiện lên giữa rừng khuya, đồng thời gợi cho độc giả liên tưởng: ánh trăng tượng trưng cho ánh sáng của hòa bình, đầu súng là một hình ảnh của chiến hanh. Giữa rừng khuya này, các anh chiến sĩ đang chiến đấu vì hòa bình nhân loại.

Lưu Trọng Lư hẳn đã nhiều năm gắn với nghiệp làm thơ rồi mới có thể đưa ra một định nghĩa đúng đắn như thế. Bởi đây không chỉ là tiêu chí đánh giá một câu thơ hay, mà còn là tiêu chí đánh giá một nhà thơ thực tài nữa. Trong thế giới thợ ca, người ta có thể quên đi anh là ai, anh đã sống cuộc đời như thế nào, nhưng trong hoàn cảnh mà tiếng nói thường ngày rơi vào bế tắc, người ta bỗng nhớ đến anh, và người ta ghi nhớ tên anh bằng những tình cảm, cảm xúc không lẫn lộn bao giờ.

Nhà thơ cần phải trau dồi và không ngừng nâng cao năng lực sáng tác để tạo ra những thi phẩm hay, sống với thời gian. Những tín hiệu nghệ thuật là những hình ảnh, từ ngữ, dấu câu, biện pháp tu từ khiến tác phẩm giàu sức gợi. Chính vì yêu cầu đặt ra với một câu thơ hay này mà lúc sáng tác người làm thơ luôn phải lưu ý đến tính hàm súc trong thơ. Đây là điểm phân biệt rõ giữa thơ và văn xuôi. Thơ cần một sự cô đọng rất lớn trong ngôn từ, cũng vì thế mà giàu sức gợi. Như Maiakovski từng nói: ” Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ mới thu về một chữ mà thôi. Nhưng chữ ấy làm cho rung động Triệu trái tỉm trong hàng năm dài”.

Để phát huy tối đa sức mạnh của thơ ca, để “sức gợi” của tác phẩm lan tỏa rộng ra và sâu hơn, người viết và người đọc luôn cần một sự phối hợp và thấu hiểu. Để câu thơ có sức gợi, người viết cần có đủ tâm và tài để tạo sức sống cho chính tác phẩm của mình, viết những câu thơ sâu sắc, không hời hợt, không quá bí hiểm. Người đọc cần trau dồi trình độ cảm thụ tác phẩm cùng sự thấu hiểu nhà văn để chạm đến cái tư tưởng ẩn sau lớp chữ ấy. Sự đồng điệu, cộng cảm muôn đời vẫn là cứu cánh của văn chương.

Để phát huy tối đa sức mạnh của thơ ca, để “sức gợi” của tác phẩm lan tỏa rộng ra và sâu hơn, người viết và người đọc luôn cần một sự phối hợp và thấu hiểu. Để câu thơ có sức gợi, người viết cần có đủ tâm và tài để tạo sức sống cho chính tác phẩm của mình, viết những câu thơ sâu sắc, không hời hợt, không quá bí hiểm. Người đọc cần trau dồi trình độ cảm thụ tác phẩm cùng sự thấu hiểu nhà văn để chạm đến cái tư tưởng ẩn sau lóp chữ ấy. Sự đồng điệu, cộng cảm muôn đời vẫn là cứu cánh của văn chương. Như Lep.Tônx tôi khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng,bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”.

Nhật Tiến Thềm Hoang Vẫn Một Tráng Sinh Lên Đường

Nguyễn Du

Ngày “Tuyên Hứa” để được gia nhập phong trào Hướng Đạo Việt Nam là một dấu ấn quan trọng trong cuộc đời nhà văn nhà giáo Nhật Tiến. Lễ tuyên hứa được tổ chức tại Chùa Láng cách Hà Nội 5 km. Trong Hồi k. của Nhật Tiến, tuy đã hơn 60 năm sau, anh vẫn còn nguyên vẹn xúc động khi hồi tưởng lại phút được “tuyên hứa” như điều mơ ước đã trở thành hiện thực.

“Tôi hồi hộp tiến lại lá cờ Đoàn. Tất cả các anh em đều yên lặng, nghiêm trang theo dõi cử chỉ của tôi. Tôi đứng thẳng người trước lá cờ. Tay phải tôi chào theo kiểu Hướng Đạo, tay trái tôi nắm nhẹ lấy một góc của lá cờ, và tôi cất giọng dõng dạc:

Trước Quốc kỳ, tượng trưng cho Tổ quốc, trước Đoàn kỳ tượng trưng cho tinh thần Hướng Đạo, tôi xin lấy danh dự của tôi để tuyên hứa:

– Thứ Nhất : Trung thành với Tổ Quốc.

– Thứ Nhì : Giúp ích mọi người

– Thứ Ba: Tuân theo Luật Hướng Đạo.

Sau khi lấy được bằng Hạng Nhì, tôi được giao phó nhiệm vụ làm đội trưởng đội Én. Một trong những đội sinh của tôi là anh Đỗ Tiến Đức, sau này trở thành nhà văn, năm 1969 anh được Giải Văn Học Nghệ Thuật với tác phẩm Má Hồng, và còn là đạo diễn kiêm Giám Đốc Nha Điện Ảnh, anh hiện chủ trương tờ Thời Luận ở Los Angeles, trước là báo in, sau này trở thành báo Online.

Tôi lên Kha đoàn năm 17 tuổi, ở dự bị Tráng năm 18. Sau di cư 1954, tôi sinh hoạt nhiều năm trong Tráng Đoàn Bạch Đằng gồm 4 Toán: Chương Dương, Vân Đồn, Hàm Tử và Tây Kết. Tôi được giao nhiệm vụ Toán trưởng

Toán Vân Đồn [trong Toán có anh Trương Trọng Trác sau này lên tới chức Ủy Viên Ngành Thiếu của Hướng Đạo Việt Nam và khi ra hải ngoại, anh là người chủ trương tờ báo Ngày Nay với bút hiệu Trọng Kim ở Houston,

Texas cho đến khi anh qua đời 2009].

“Mùa hè năm 1970, tại một trại của Tráng Đoàn Bạch Đằng tổ chức tại Thủ Đức, tôi được trao cho cây gậy mà ở đầu có 2 gạc của Tráng Sinh Lên Đường, cũng là đẳng cấp mà một Hướng Đạo Sinh mơ ước đạt được. Từ

nay, trong giao dịch sinh hoạt Hướng Đạo tôi có thể ky tên: Én nhanh nhẹn

RS – RS là chữ viết tắt của Rover Scout / Anh hay Routier Scout / Pháp, cũng có nghĩa là Giúp ích / Rendre Service đúng với châm ngôn của ngành Tráng.

Hai chữ Hướng Đạo đối với tôi bao giờ cũng thiêng liêng, nó gợi cho tôi bao tình cảm thắm thiết, bao kỷ niệm khó phai mờ và bao nhiêu anh em đồng đội đã không chỉ chia xẻ với nhau trò chơi Hướng Đạo mà còn ở trong sự nghiệp ở ngoài đời”.

Đến nay cũng đã trên 65 năm trôi qua, Nhật Tiến vẫn thuộc hát bài ca Đoàn, vẫn sống theo tinh thần Hướng Đạo với châm ngôn “Sắp Sẵn” và “Giúp Ích” trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo tôi, tinh thần Hướng Đạo ấy đã có ảnh hưởng sâu xa tới nghề giáo và trên nghiệp văn của Nhật Tiến trong suốt những năm về sau này. Hãy nghe chính Nhật Tiến kể lại:

“Những người áo trắng” được sáng tác vào khoảng năm 1955 khi tôi đang dậy học ở Bến Tre. Đấy là những kỷ niệm của thời hướng đạo sinh ở Hà Nội, chúng tôi thường đi làm các công tác từ thiện, như mùa đông thì đẩy xe bò qua các đường phố để quyên góp quần áo của bà con đem giúp những người nghèo. Hoặc chúng tôi tình nguyện ra đứng ở bờ Hồ Gươm bán tác phẩm của kịch tác gia Văn Thuật để gây quỹ giúp đồng bào bão bị lũ lụt thời đó. Chúng tôi cũng thường hay tới sinh hoạt tại trại mồ côi trên đường Hàng Đẫy; trong thời gian này hình ảnh những trẻ mồ côi mặc quần áo trắng, những bức tường trắng và những cô gái lớn tuổi hơn trông đàn em nhỏ đã gây cho tôi nhiều xúc động. Và tôi đã dùng những hình ảnh ở trại mồ côi đó để viết tác phẩm đầu tay”Những người áo trắng”.

Như vậy, có thể nói một cách khá đoan chắc, nếu Nhật Tiến không có những năm sinh hoạt Hướng Đạo, sẽ không có Những Người Áo Trắng và rồi những tác phẩm khác như Thềm Hoang sau này.

Thuở mơ làm văn sĩ

Nhật Tiến cầm bút rất sớm, từ thuở học sinh đã mơ làm văn sĩ, lập bút nhóm có tên là “Gieo Sống”, có truyện ngắn đầu tay “Chiếc nhẫn mặt ngọc” được đăng trên báo Giang Sơn, năm ấy Nhật Tiến mới 15 tuổi.

Di cư vào Nam năm 1954; ban đầu sống ở Đà Lạt, Nhật Tiến viết kịch truyền thanh cho Đài tiếng nói Ngự Lâm Quân [thời còn Hoàng Triều Cương Thổ]. Ít lâu sau đó, gia đình Nhật Tiến dọn về Sài Gòn. Không tốt nghiệp trường sư phạm nào nhưng năm 21 tuổi anh đã bắt đầu đi dạy học môn Lý Hoá tại các trường trung học tư thục, ban đầu ở các tỉnh Miền Tây như Bến Tre, Mỹ Tho ba năm sau đó mới về sống hẳn ở Sài Gòn. Truyện dài đầu tay Những Người Áo Trắng được khởi viết và hoàn tất khi Nhật Tiến đang còn là một thầy giáo tỉnh lẻ.

Nghề giáo như nguồn sinh kế của gia đình nhưng có lẽ nghiệp văn mới là giấc mộng lớn của Nhật Tiến. Anh liên tục viết rất khoẻ từ truyện ngắn, truỵện dài và cả một tiểu thuyết kịch đăng trên các tạp chí: Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Đông Phương, Bách Khoa, Văn, Văn Học; chủ trương nhà xuất bản Huyền Trân từ năm 1959, chủ bút tuần báo Thiếu Nhi do nhà sách Khai Trí xuất bản từ 1971 tới 1975; năm 1979 trong một chuyến vượt biển thừa sống thiếu chết Nhật Tiến qua được Thái Lan rồi định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1980.

Tới Mỹ, không còn sống bằng nghề dạy học, Nhật Tiến đi học về máy điện toán/ hardware và sau đó làm cho một hãng Nhật đủ 15 năm trước khi nghỉ hưu. Tại hải ngoại, Nhật Tiến tiếp tục viết và xuất bản sách, sinh hoạt Hướng Đạo, hoạt động cứu trợ thuyền nhân. Hiện cư ngụ ở Nam California.

Tác phẩm đã xuất bản:

– Xuất bản trong nước trước 1975: Những Người Áo Trắng (truyện dài,

Huyền Trân 1959), Những Vì Sao Lạc (truyện dài, Phượng Giang 1960),

Thềm Hoang (truyện dài, Đời Nay 1961), Người Kéo Màn (tiểu thuyết kịch, Huyền Trân 1962), Mây Hoàng Hôn (truyện dài, Phượng Giang 1962), Ánh Sáng Công Viên (tập truyện, Ngày Nay 1963), Chuyện Bé Phượng (truyện

dài, Huyền Trân 1964), Vách Đá Cheo Leo (truyện dài, Đông Phương 1965), Chim Hót Trong Lồng (bút k., Huyền Trân 1966), Giọt Lệ Đen (tập truyện, Huyền Trân 1968), Tay Ngọc (bút k., Huyền Trân 1968), Giấc Ngủ Chập Chờn (truyện dài, Huyền Trân 1969) Quê Nhà Yêu Dấu (Huyền Trân 1970), Theo Gió Ngàn Bay (Huyền Trân 1970), Tặng phẩm của dòng sông (tập truyện, Huyền Trân 1972), Thuở mơ làn văn sĩ (Huyền Trân 1974)…và một

số truyện viết cho tuổi thiếu nhi như: Lá Chúc Thư, Đường lên Núi Thiên Mã…

– Xuất bản ở hải ngoại sau 1975: Tiếng kèn (1981), Hải tặc trong vịnh Thái Lan (viết chung với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy, 1981), Một thời

đang qua (1985), Mồ hôi của đá (1988), Cánh cửa (1990), Quê nhà Quê người (viết chung với Nhật Tuấn, ấn hành ở trong nước, 1994), Thân Phận Dư Thừa (2002), bản dịch cuốn The Unwanted của Kiên Nguyễn, Hành Trình Chữ Nghĩa (2012) – Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác (2012) – Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi (2012) – Một Thời… Như Thế (2012)

Với hơn 20 tác phẩm đã xuất bản, với nhiều thể loại, các tác phẩm chính của Nhật Tiến đều có liên hệ tới tuổi thơ. Nhật Tiến được mệnh danh là nhà văn của tuổi thơ bất hạnh, nhà văn của khuynh hướng xã hội. Võ Phiến trong

bài viết về Nhật Tiến trong bộ Văn Học Miền Nam đã đưa ra nhận xét: “Lúc bấy giờ ai cũng biết ở Miền Nam có nhiều tác giả tên tuổi viết về giới trẻ thơ. Mỗi vị một vẻ. Trẻ em trong truyện Duyên Anh thường là những trẻ đáo

để. Đám trẻ của Lê Tất Điều hầu hết đều có nét tinh nghịch. Trong Nhật Tiến là trẻ bất hạnh”. [VHMN, truyện 2, tr.1270, Nxb Văn Nghệ 1999]

Quan niệm sáng tác

Năm 1961, Nhật Tiến đã thành danh với ba tác phẩm xuất bản: Những Người Áo Trắng 1959, Những Vì Sao Lạc 1960, Thềm Hoang 1961, Nhật Tiến trả lời cuộc Phỏng vấn Văn Nghệ của báo Bách Khoa do nhà văn Nguiễn Ngu Í thực hiện.

_ Sáng tác để làm gì, cho mình hay cho thiên hạ?

_ Sáng tác theo đường lối nhất định nào hay là tuỳ cảm hứng?

Nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến ngồi viết cáo trạng thảm cảnh biển Đông trong trại tị nạn Songkhla, Thailand 1980 Có lẽ “đường lối” ở đây là “phương pháp làm việc”. Nếu hiểu theo nghĩa ấy thì tôi không theo được cả hai. Bởi vì nói phương pháp thì phải có hệ thống, có chương trình bó buộc, còn cảm hứng thì phải có nhiều thời gian vì hứng đến với mình từng lúc. Mà riêng tôi thì vì bận bịu với nghề nghiệp [nghề giáo, ghi chú của người viết], nên có khi mệt mỏi hàng tháng không viết thêm được một dòng. Nhưng gặp trường hợp rỗi rãi, có thời gian, tôi cắm cúi viết, bất kể có hứng hay không. Tuy vậy thông thường nếu có cảm hứng, lại thêm rỗi rãi thì sáng tác dễ dàng hơn.

_ Những gì đã xảy ra từ khi tác phẩm thai nghén đến khi hình thành?

Tôi bắt đầu bằng một nhân vật sống trong một hoàn cảnh nào đem lại cho tôi nhiều rung cảm nhất. Từ nhân vật ấy tôi viết chương thứ nhất. Rồi từ đấy, tuỳ theo sự kiện đã viết trong chương trước (sự kiện này đến với tôi trong lúc viết), tôi dựng chương sau. Thường thường là viết được 9, 10 chương tôi mới nghĩ đến “kết”. Lối viết này, theo tôi tạo được nhiều khách quan hơn là xây dựng sẵn một cốt truyện có sắp đặt từ đầu. Vì nếu định trước, tác phẩm sẽ bị gò bó, do đó mất đi nhiều y mới lạ.

_ Kinh nghiệm sống và sáng tác thích nhất?

Về hình thức thì khi viết, tôi cố gắng giữ cho mình cái y nghĩ là “đừng làm văn chương”, vì thật ra tả cảnh mà không sáo thì thật là khó. Để tránh cái khó đó, tôi chọn lối hành văn giản dị. Nhưng chọn là một chuyện, mà theo được hay không lại là một chuyện khác. Cái đó theo tôi nghĩ, thuộc về phê phán của người đọc. Còn nội dung tác phẩm thì thú thật tôi còn băn khoăn nhiều, chưa dám gọi là kinh nghiệm để nêu lên mặt báo. Còn về sáng tác của tôi, tôi thích nhất thì theo thiển y, các truyện của mình tuy đã in ra, chưa hẳn là ai cũng đọc đến, để nói ra là ai cũng biết ngay; cho nên xin miễn điều ấy cho tôi. Nhật Tiến [hết trích dẫn: Bách Khoa, Số 115, 15-10- 1961, tr. 103-104]

Với bài viết ngắn giới hạn khoảng 7 ngàn chữ, với hơn 20 tác phẩm thật khó mà giới thiệu Nhật Tiến một cách đầy đủ. Trong chỗ riêng tư, khi tôi hỏi Anh nếu phải chọn 3 tác phẩm để giới thiệu, Nhật Tiến nhắc tới 3 cuốn:

Thềm Hoang, Người Kéo Màn, Giấc Ngủ Chập Chờn. Đó cũng là chọn lựa của người viết để giới thiệu tính cách đa dạng của ngòi bút Nhật Tiến.

“Thềm Hoang” là những kiếp người trong Xóm Cỏ, một xóm lao động nghèo với bùn lầy nước đọng giữa lòng thành phố Sài Gòn. Ngay khúc dạo đầu của tác phẩm Thềm Hoang là bốn câu thơ bi ai:

Ai đưa tôi đến chốn này Ban đêm thì tối ban ngày thì đen Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên Nghêu ngao mấy điệu cho quên tháng ngày

Bốn câu thơ ấy để giới thiệu nhân vật chính bác Tốn, nghệ sĩ mù kiếm sống bằng nghề hát dạo. Thằng Ích, mồ côi cha mà đã khôn lanh trước tuổi, nó là đôi mắt sáng của bác Tốn. Cô Huệ gái điếm đã hết thời xuân sắc nhưng

vẫn là nỗi mơ ước của bác Tốn qua trí tưởng tượng và sự mô tả của thằng Ích. Một U Tám goá bụa giữa chừng xuân, mê lời đường mật của một gã đàn ông, sau này trở thành Dượng Tám, hiện nguyên hình tên lưu manh sống bám vợ và cả bạo hành đối với vợ con. Lão Hói, rượu chè be bét, sống bằng bói bài tây và lúc nào cũng tin có ông trời. Tới ông Phó Ngữ goá vợ, chỉ có đứa con gái duy nhất, mong nó có được mô tấm chồng tử tế nhưng cũng chẳng xong. Rồi người lính Năm Trà phải đi đóng đồn xa, để lại vợ con cho mẹ già, người vợ trẻ đang tuổi thanh xuân không chịu được cảnh cô đơn, quyết định bỏ nhà ra đi; do không đủ tiền nuôi cháu, bà mẹ Năm Trà phải đem ba cháu nhỏ cho viện mồ côi, sau đó bà cụ phát điên… Những số phận ấy chung sống với nhau trong Xóm Cỏ tạo nên một khung cảnh xã hội nghèo khó vừa ảm đạm vừa bi thiết và không có lối thoát. Cảnh khổ là mẫu số chung của đám cư dân sống trong Xóm Cỏ. Hình ảnh bác Tốn người nghệ sĩ mù, và thằng Ích, cả hai gần như lúc nào cũng bàng bạc hiện diện trong suốt 300 trang sách.

Đỉnh cao của tấn bi kịch xã hội Thềm Hoang đánh dấu bằng sự trở về của người lính Năm Trà trong bộ quân phục bạc thếch nhếch nhác, gặp lại mẹ già thì nay đã bị mất trí không nhận ra con mình. Trước thảm kịch gia đình

tan nát đó, Năm Trà cũng nổi điên trả thù đốt nhà đốt xóm. Cả Xóm Cỏ tan hoang trong lửa đỏ hoà lẫn với những tiếng kêu khóc thảm thiết. Rồi một trận mưa lớn đổ ập xuống đống tro than như muốn rửa sạch những rác rưởi của những thềm hoang trong Xóm Cỏ. Khép lại trang sách cuối, người đọc tự hỏi liệu có một ngày mai nào tươi sáng hơn cho những Xóm Cỏ tương lai? Với nội dung ấy, với bút pháp điêu luyện của Nhật Tiến, Thềm Hoang đã được trao giải Giải Văn Chương Toàn Quốc 1961-1962.

“Người Kéo Màn” nhiều người cho rằng sở trường của Nhật Tiến là viết truyện ngắn truyện dài về những đề tài xã hội, về trẻ thơ bất hạnh. Thực sự Nhật Tiến cũng đã viết nhiều vở kịch truyền thanh, cả kịch được trình diễn trên sân khấu như “năm 1960, khi có trận bão lụt nặng nề ở Miền Tây, Tráng đoàn Bạch Đằng và Toán Nữ Tráng Thanh Quan đã tham gia công cuộc cứu trợ bằng một Đại hội Văn nghệ ở Rạp Thống Nhất, Sài Gòn. Trong Đại hội này, tôi đã sáng tác một vở kịch ba màn có tên là Cơn Giông mà diễn viên chỉ gồm toàn Tráng sinh Bạch Đằng hay Thanh Quan, một trong những diễn viên của vở kịch ấy là luật sư Trần Sơn Hà, anh hiện đang sống ở Quận Cam “. [Một Đời Hướng Đạo, Nhật Tiến].

Người Kéo Màn được Nhật Tiến gọi là “tiểu thuyết kịch”, là tác phẩm thứ tư của Nhật Tiến, đó là một quan niệm rất mới đối với “kịch” theo cái nghĩa cổ điển. Do đó cũng đã gây ra nhiều phản ứng và tranh luận. GS Nguyễn Văn Trung trong Lược Khảo Văn Học, tập II đã không tán thành tiểu thuyết kịch của Nhật Tiến, và cho rằng “tiểu thuyết kịch chỉ đưa đến sự lẫn lộn bộ môn, đồng thời xoá bỏ khả năng đặc biệt của bộ môn bị sát nhập”. Kịch tác gia Vi Huyền Đắc cũng không đồng . gọi Người Kéo Màn là kịch. Nhưng với Nhật Tiến, sau hơn nửa thế kỷ, anh vẫn cứ tâm đắc với tác phẩm Người Kéo Màn. Nhật Tiến đã khá mạo hiểm vận dụng và kết hợp cả ba kỹ thuật của tiểu thuyết, của kịch, của điện ảnh để viết Người Kéo Màn. Thay vì các nhân vật chỉ diễn xuất trên sân khấu, họ còn có vai trò trải rộng ngoài đời.

Nội dung Người Kéo Màn nói lên mối tương quan giữa các thành viên của ban kịch gồm đạo diễn, lão kéo màn, chàng nhạc công thổi kèn clarinette, nữ diễn viên cho đến đứa bé, nhà mạnh thường quân với nhân vật “tác giả” của

vở kịch, mọi sự diễn ra trong những giả dối, mua chuộc, mưu toàn lừa gạt nhau, mâu thuẫn, đầy ngộ nhận bi thảm ngay trong chính cuộc sống của họ, họ đây là giới hoạt động nghệ thuật. Mỗi nhân vật đều có vai trò không chỉ trên sân khấu, mà cả sau hậu trường nơi phòng hoá trang và ngoài cảnh đời thật của họ với đủ mọi hỉ nộ ái ố không thiếu sự lừa gạt đến nhơ nhuốc. Nhật Tiến, đang từ ngòi bút đôn hậu rào rạt tình thương của Những Người Áo Trắng, Thềm Hoang, bước sang tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn là một Nhật Tiến hoàn toàn khác, của hoài nghi bi quan tới mức tàn nhẫn.

“Giấc ngủ chập chờn” được sáng tác vào giữa thập niên 1960s, lúc bấy giờ cuộc chiến ở Việt Nam do Hà Nột phát động đã bắt đầu lan ra các tỉnh Miền Nam. Nhật Tiến viết về ấp Vĩnh Hựu, hoàn cảnh của một vùng xôi đậu tức là vùng tranh tối tranh sáng. Ban ngày thì do quốc gia kiểm soát, nhưng ban đêm thì do bên kia, dân chúng sống trong vùng đó gia đình bị phân tán, có anh em thì theo bên này, có anh em thì theo bên kia, và họ chết vì cuộc chiến tương tàn. Họ sống dở chết dở giữa hai làn đạn với oán thù chồng chất vây bủa giăng mắc họ ngày đêm. Đám thanh niên và cả con nít ở cái làng đó vốn thân thiết với nhau nhưng đến lúc cuộc chiến tràn về thì hàng xóm giết nhau, anh em cũng giết nhau, gây ra bao thảm cảnh khổ đau. Nhưng người dân quê ấp Vĩnh Hựu thì vẫn cứ gắn bó với mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình và không bao giờ muốn xa rời. Các cụ già thường nói với tụi con cháu: “Tụi bây muốn giết nhau ở đâu thì giết, nhưng cấm bắn nhau ở trong các ngõ ngách này. Chẳng dây mơ cũng rễ má, ít nhiều gì thì tụi bây cũng có liên hệ gia đình, ruột thịt hay quê hương. Giết nhau trên phần đất ông cha là nhục nhã”. [Giấc ngủ chập chờn, tr.63, Nxb Huyền Trân 1969].

Cuốn sách nói lên một sự thực là không có phong trào quần chúng bất mãn chế độ mà nổi dậy trong cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Với cái nội dung tố cáo như vậy, Hà Nội đã đánh giá cuốn sách đó là cực kỳ phản động.

Giải văn chương toàn quốc

Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc được đặt ra từ 1957. Theo Tạp chí Văn Hữu số 21 do Văn Hoá Vụ ấn hành 1962, tác giả Hàn Phong đã viết về “Lược sử Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc” thời Đệ Nhất Cộng Hoà 1954- 1963:

Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc với đặc tính không đòi hỏi một điều kiện nào về nội dung hay hình thức của các tác phẩm dự thi hay những tác phẩm được xem xét đến. Các tác phẩm phải được xuất bản trong niên khoá.

Theo nguyên tắc, giải thưởng được tổ chức hàng năm nhưng do số tác phẩm xuất bản chưa nhiều nên giải thưởng đã được tổ chức hai năm một lần:

Hội đồng Giám khảo gồm có học giả, giáo sư, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch sĩ như: Gs Nghiêm Toản, Nguyễn Thành Châu, Nguyễn Khắc Kham, Lm Nguyễn Văn Thích, Trương Công Cừu, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bà Tùng Long, Vi Huyền Đắc, Đông Hồ, Trần Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan. Chủ tịch Hội đồng là học giả Đoàn Quan Tấn. Lễ tặng giải thưởng đã được tổ chức ngày 25-8-1958 tại Dinh Độc Lập do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà trao tặng.

Tiểu Thuyết: “Tìm về Sinh Lộ” của Kỳ Văn Nguyên, “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” của Nguyễn Kiên Trung [tức Nguyễn Mạnh Côn, ghi chú của người viết], “Nếp Nhà” của Bửu Kế.

Thơ: “Anh Hoa” của Phạm Mạnh Viện, “Long Giang Thi Tập” của Trần Hữu Thanh, “Nam Trung Thi Tập” của Nguyễn Văn Bình, “Kiếp Hồng Nhan” của Quang Hân.

Kịch: “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn, “Ái Tình Bôn-Sê-Vích” của Thạch Bích, “Hai Màu Áo” của Minh Đăng Khánh.

_ Lần thứ hai 1958-59: Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc lần hai có sự đổi mới, lần này tác giả không phải gửi tác phẩm tới dự thi nữa mà do Hội đồng chọn lựa trong toàn bộ ấn loát phẩm xuất bản từ năm 1958 đến cuối năm 1959. Vì không quan niệm là một cuộc dự thi, các nhân viên Hội đồng tìm đọc tất cả các tác phẩm. Và nay Hội Đồng đổi tên thành Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-59 [thay vì danh xưng Hội Đồng Giám Khảo, ghi chú của người viết].

Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-59 bao gồm nhiều văn nhân nghệ sĩ, giáo sư như Hà Như Chi, Hà Thượng Nhân, Đái Đức Tuấn, Trần Hữu Thanh, Đỗ Đức Thu, Đông Hồ, Vi Huyền Đắc. Chủ tịch Hội Đồng là Gs Trương Công Cừu, Khoa Trưởng Đại học Văn khoa.

Khảo Luận: “Dịch Kinh Tần Khảo” của Nguyễn Mạnh Bảo, “Việt Nam Văn Học Toàn Thư” của Hoàng Trọng Miên.

Tiểu Thuyết: “Đò Dọc” của Bình Nguyên Lộc, “Thần Tháp Rùa” của Vũ Khắc Khoan, “Đời Phi Công” của Toàn Phong [Nguyễn Xuân Vinh, ghi chú của người viết], “Mưa Đêm Cuối Năm” của Võ Phiến.

Thơ: “Tập Hoa Đăng” của Vũ Hoàng Chương Riêng bộ môn Kịch không có giải thưởng.

_ Lần thứ ba 1960-61: Hội Đồng Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc lại thay đổi phương hướng và với danh hiệu mới “Hội Đồng Tuyển Trạch Giải Thưởng Văn Chương 1960-1961” do nhà biên khảo Thu Giang Nguyễn Duy

Vi huyền Đắc, Vũ Khắc Khoan, Đỗ Đức Thu, Bình Nguyên Lộc.

Hội Đồng đã họp 3 lần, cứu xét 112 tác phẩm gồm 37 cuốn biên khảo, 34 cuốn tiểu thuyết, 39 tập thơ và 3 vở kịch, kết quả như sau:

Biên khảo: Giải duy nhất “Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị” của Lê Ngọc Trụ Tiểu Thuyết: “Thềm Hoang” của Nhật Tiến, “Gìn Vàng Giữ Ngọc” của Doãn Quốc Sỹ, “Tàu Ngựa Cũ” của Linh Bảo.

Thi ca: “Đường Vào Tình Sử” của Đinh Hùng, “Hy Vọng” của Hoàng Bảo Việt, “Tổ Ấm” của Anh Tuyến, “40 Bài Thơ” của Mai Trung Tĩnh và Vương Đức Lệ.

Riêng bộ môn Kịch không có giải thưởng.

[hết lược dẫn VH21, tr. 76-81]

Tưởng cũng nên ghi lại ở đây là luôn luôn có sự cải tiến về tổ chức sau mỗi kỳ Giải Thưởng Văn Chương. Nhưng có một nguyên tắc không thay đổi là không đòi hỏi một điều kiện nào về nội dung hay hình thức của các tác phẩm. Theo tường thuật của nhà văn Nguiễn Ngu Í, Bách Khoa CXXXVIII

– 113, chủ tịch Hội đồng Giải Văn chương Toàn quốc lần thứ ba, Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã nêu lên tiêu chuẩn lựa chọn của Hội đồng, thâu tóm

trong hai chữ Văn chương có nghĩa là . hay lời đẹp và theo ông: “Tác phẩm được chọn sẽ là phản ánh của một nền văn hoá tự do, nghĩa là không bị bó buộc trong khuôn khổ của một hệ thống tư tưởng nào, hay phải theo một khuynh hướng văn nghệ hay chính trị nào cả”.

Sau khi phát giải, ông Lê Ngọc Trụ, đại diện cho các nhà văn trúng giải, lên phát biểu . kiến. Ông cho rằng sự lựa chọn ngày phát giải đúng vào ngày Chủ nhật Nguyễn Du thật là đầy . nghĩa, và gợi cho ông và các bạn văn trúng giải tinh thần trách nhiệm thiêng liêng, ấy là thiên chức của nhà văn đối với tiếng Việt và nguyện vọng của nhà văn đối với tiền đồ văn hóa Tổ quốc. [Nguiễn Ngu Í, Bách Khoa CXXXVIII – 113]

Đây là Giải Văn chương Toàn quốc lần thứ ba và cũng là giải văn chương cuối cùng của nền Đệ nhất Cộng Hoà. Do những biến động chính trị, Giải Văn Chương của Đệ Nhị Cộng Hoà 1963-75 chỉ được phục hoạt kể từ 1966.

Cũng nên ghi nhận thêm ở đây, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi năm của nền Đệ Nhất Cộng Hoà, giới làm văn hoá đã xây dựng được nền móng vững chắc ban đầu trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật của Miền Nam. Các nhà văn nhà thơ được trao giải sau này đều là những tên tuổi lớn của 20 năm Văn Học Miền Nam như: các thi sĩ Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, các nhà văn Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Nhật Tiến, Linh Bảo…

Nhật Tiến và văn hào Nhất Linh

Cuối năm 1955, qua Trương Cam Vĩnh là em nhà văn Trương Bảo Sơn, Nhất Linh nhận được bản thảo Những Người Áo Trắng cũng là tác phẩm đầu tay của Nhật Tiến. Nhất Linh nhận ra văn tài của Nhật Tiến nên đã chọn và

đưa ngay Những Người Áo Trắng cho nhà Phượng Giang xuất bản. Nhất Linh giới thiệu Nhật Tiến vào Văn Bút mà lúc đó Nhất Linh đang là Chủ tịch, và đồng thời cũng mời Nhật Tiến viết cho tạp chí Văn Hoá Ngày Nay.

Mối giao tình giữa văn hào Nhất Linh và Nhật Tiến từ 1955 tới 1963 phải nói là sâu đậm.

Có lẽ Nhất Linh đã chuẩn bị chu đáo cái chết của mình từ mấy tuần lễ trước. Bị theo dõi, nghĩ rằng bản di chúc của ông có thể bị tước đoạt, thời điểm năm 1963 chưa có máy photocopy, scanner, internet phổ biến như bây giờ. Nhất Linh đã viết thêm một bản di chúc thứ hai giao cho nhóm sinh viên. Lúc đó tôi đang học năm thứ ba Y khoa. Vào những ngày đầu của tháng Bảy, 1963 Nguyễn Tường Quý chở anh là Nguyễn Tường Vũ [con của ông Nguyễn Tường Thuỵ, người anh cả của mấy Anh Em gia đình Nguyễn Tường] xuống Đại học xá Minh Mạng tìm tôi. Quý chờ xe ở ngoài, chỉ có Nguyễn Tường Vũ vào gặp. Không nói gì nhiều, Vũ trao tay cho tôi một phong thư mỏng, cho biết đó là một trong hai bản di chúc viết tay của Nhất Linh: “Nhờ Vinh giữ, khi cần Vinh đưa lại”. Khi Nguyễn Tường Vũ ra về, tôi đã lặng lẽ cất bản di chúc thứ hai ấy – như một chứng từ lịch sử, trong tủ sách giữa những trang bộ Từ điển Đào Duy Anh bìa cứng dầy cộm do Nxb Minh Tân, Paris xuất bản.

Bản Chúc thư ngắn, cô đọng chỉ với 71 chữ:

“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự huỷ mình cũng như Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi tự do.”

Nhất Linh tuẫn tiết vào ngày 7 tháng 7 năm 1963. Chỉ một ngày sau bản tin của UPI/ United Press International do Neil Sheehan gửi đi sáng ngày 8 tháng 7, 1963 đã phổ biến rộng rãi trên báo chí thế giới:

” South Viet Nam Eminent Writer Commits Suicide” by Neil Sheehan, “South Viet Nam’s most eminent writer committed suicide today as a political protest on the eve of his trial for alledged complicity in the abortive 1960 coup against President Ngo Dinh Diem. Nguyen Tuong Tam [mispelled Pam by Sheehan] 58, who wrote under the pen name of Nhat Linh, left an eloquent testament protesting against Diem’s rule. The former nationalist leader died in a hospital after taking poison. The suicise of Tam, considered Viet Nam’s greatest writer of the 20th century, came at a time of growing political and religious unrest under Diem’s regime. His death was expected to stir further political repercussions, particularly among the country’s intellectuals… The text of Tam’s short testament said: “History alone will judge my life. I will allow no man to try me. The arrest and trial of all the nationalist opponents of the regime is a crime which will force the nation into the hands of the communists. ” UPI 7/8/1963 Bản Di chúc của Nhất Linh (trái), bản tin UPI (giữa), Nguyễn Tường Vũ (phải) thập niên 1960 [nguồn: Nguyễn Tường Quy, Nguyễn Tường Thiết]

Và như vậy là bản chúc thư thứ nhất của Nhất Linh đã tới tay báo giới ngoại quốc. Bản tôi hiện giữ không còn tầm quan trọng một-mất-một-còn như lúc Vũ trao cho tôi trước đó. Sau này, qua Ls Nguyễn Tường Bá, tôi được biết bản chúc đã được nhà báo Như Phong chuyển tay cho hãng thông tấn UPI.

Đám tang Nhất Linh diễn ra ngày 13 tháng 7, 1963. Thành phần đưa đám ông đa số là học sinh sinh viên. Nỗi xúc động của họ đa phần hướng về cái chết của một nhà văn, trong khi các đồng chí của ông thì muốn dán nhãn cho cái chết của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam như một “tuẫn tiết chính trị”.

Bấy lâu, từ những thập niên 1930, Nhất Linh đã là một khuôn mặt của quần chúng / public figure về cả hai phương diện văn học và chính trị. Phần nào văn học hay chánh trị đậm nét hơn là do tâm cảnh của từng người. Tôi vẫn thấy đậm nét văn học của đám tang Nhất Linh ngày hôm đó. Bức hình chụp chân dung Nhất Linh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, câu đối viếng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương với toàn tên tác phẩm của Nhất Linh:

Chân dung Nhất Linh by Nguyễn Gia Trí “Người quay tơ, đôi bạn, tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt Đời mưa gió, lạnh lùng, bướm trắng, buổi chiều vàng đâu chỉ nắng thu” Cái chết của mỗi nhà văn tự thân bao giờ cũng là một bi kịch nếu không muốn nói là một thảm kịch. Theo một nghĩa nào đó, mỗi nhà văn đã chết từng phần trên mỗi tác phẩm của họ. Hãy trân trọng những cái chết đó, xem đó như một mẫu số chung hàn gắn thay vì phân hoá. Chế độ chính trị nào rồi cũng qua đi, nhà văn thì vẫn cứ trường tồn với tác phẩm của họ.

Điếu văn của nhà văn trẻ Nhật Tiến lúc đó mới 27 tuổi, giữa vòng vây của mật vụ thời ấy, Nhật Tiến đã can đảm phát biểu với tính cách một nhà văn độc lập cho dù lúc đó Anh đang là phó Chủ tịch Văn Bút. Nhật Tiến đã ràn rụa nước mắt với hết tâm can nói tới cái chết của nhà văn Nhất Linh:

“Văn hào đã hình thành sứ mạng cao quy của người cầm bút. Văn hào đã nêu cao sĩ khí bất khuất của truyền thống những nhà văn chân chính.”

Ít ngày sau đám tang Nhất Linh khi gặp lại, tôi trả Nguyễn Tường Vũ và Tường Qu. bản di chúc thứ hai ấy. Nguyễn Tường Vũ rất nghệ sĩ, cũng là người trình bày cho tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, anh đã mất ngày 19 tháng 5, 1991 khi anh đang làm công tác thiện nguyện thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc lo việc cứu trợ thuyền nhân ở Palawan, Phi Luật Tân.

Nguyễn Tường Qu. thì nay vẫn còn nhớ khi đưa Vũ xuống Đại học xá gặp tôi để Vũ đã giao cho tôi giữ một bản di chúc của “Bác Tam” ngày hôm đó.

Từ Sài Gòn tới đảo quỷ Ko Kra

Kẹt lại sau năm 1975, trường ốc chưa mở, nhà in Huyền Trân phải ngưng hoạt động rồi lại phải gác bút, cả gia đình Nhật Tiến ra đường bán quán để kiếm sống.

Mai Thảo và Duyên Anh ít ngày sau 30 tháng tư 1975 đã tới ngồi ăn ở quán vỉa hè này, bên cạnh đấy là một quán khác của Loan Mắt Nhung Nguyễn Thuỵ Long, cũng trên đường Duy Tân. Mai Thảo viết:

Nhật Tiến nhà văn cũng phải đi dự một khoá học tập chính trị một tháng cùng với nhiều văn nghệ sĩ Miền Nam khác như Hoài Bắc, Thái Thanh, Nguyễn Thị Vinh, Đỗ Phương Khanh, Nguyễn Thuỵ Long… Là thầy dạy lý hoá không phải môn văn, sau này Nhật Tiến được đi dạy học trở lại nơi ngôi trường tư thục cũ. Nhưng rồi không thể tiếp tục sống làm nhà giáo của Một Thời Nhếch Nhác, tháng 11 năm 1979 Nhật Tiến đã quyết định vượt biển ra đi, cùng chuyến đi có thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, nguyên Giám đốc Nxb Lá Bối [và tiếp tục trên đất Mỹ điều hành Nxb Văn Nghệ những năm về sau này].

Nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến ngồi viết cáo trạng thảm cảnh Biển Đông trong trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan 1980

Nhật Tiến Én nhanh nhẹn R.S. 80 tuổi

Còn một tuần lễ nữa 24-08-2023 là sinh nhật thứ 80 của Nhật Tiến. Sinh nhật thứ 80 ở Mỹ, cũng là tuổi Nhật Tiến phải thi lại bằng lái xe. Chuẩn bị cho ngày ấy, Anh đã tới bác sĩ nhãn khoa để được điểu trị laser võng mạc mắt trái, trước đó Anh cũng đã qua hai cuộc mổ cườm mắt/ cataract, nay với kính progressive cận/ lão Anh vẫn đạt mức thị lực 20/20, Anh cũng đang chuẩn bị ráo riết thi lại phần viết của Nha Lộ Vận / DMV để đổi bằng lái xe mới. Ở tuổi nào thì Anh cũng vẫn sốt sắng gắn bó với đời sống theo đúng tinh thần Hướng Đạo. Ngay cả ở tuổi 80 mà vẫn còn chăm chỉ học bài để vác bút đi thi! Tôi nghĩ Anh cũng sẽ dễ dàng bước qua kỳ thi này.

Bài viết vội với hơn 7 ngàn chữ gửi tới Anh, phải kể là quá ngắn so với cuộc đời rất phong phú và đa dạng của Anh: một nhà văn, một nhà giáo, và một đời hướng đạo. Nhật Tiến rất trực tính và can đảm. Không phải ai cũng chia xẻ và đồng tình với cách hành xử của Anh. Và không ít lần Anh đã phải trả giá cho những ngộ nhận và cả vùi dập cho những điều Anh phát biểu.

Nhưng có điều chắc chắn đó là tiếng nói lương tâm của Nhật Tiến. Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng – chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến – Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường.

California 24-08-2023

© Ngô Thế Vinh

Hãy Viết Một Bài Văn Tả Một Nhân Vật Trong Truyện Cổ Tích

Trong kho tàng các câu chuyện dân gian việc nam, có rất nhiều nhân vật quen thuộc, mỗi nhân vật đều đều mang lại cho ta một bài học cuộc sống thật sâu sắc. Nhưng nhân vật mà em yêu tich nhất đó chính là nhân vật ông bụt trong câu truyện: Cây Tre trăm đốt.

Ngày xưa có một anh trai cày khoẻ mạnh, chăm chỉ. Vì nhà nghèo nên phải đi làm thuê cho lão bá hộ. Vốn tính keo kiệt, bủn xỉn, và nhàm hiệm, một hôm hắn gọi anh trai lại và nói: Con hãy ráng làm việc đi, ta sẽ gã con gái cho. Tưởng thật, anh trai cày lao vào làm việc quần quật, Hai năm sau, nhờ công của anh mà lão bá hộ tậu được rất nhiều nhà cửa, ruộng vườn, Hắn lại gọi anh lại và bảo:Hai năm qua con đã làm việc thật vất vả, nay ta se gả con gái cho con. Nhưng con hãy vào rừng kiếm cho bằng được cây tre trăm đốt. Anh trai cày liền chạy vội vào rừng, chặt mãi chặt mãi mà không thấy. Biết bá hộ lưà mình, anh oà khóc. Trong lúc đó, lão bá hộ cho nguời chuẩn bị hôn lễ cho con mình và cậu con trai nhà giàu làng bên Bổng lúc đó, một làn khói trắng toả ra che lấp cả mặt trời chói chang. Đằng xa, một ông bụt đầu tóc bạc phơ bắt đầu hiện ra. Ông có khuôn mặt hình chữ điền cùng chiếc cằm chẻ trông rất hiền lành và cái tráng cao chưá đầy những nếp nhăn hằng sâu đến lạ. phía sau khoé mắt hình chân chim là đôi mắt to tròn, luôn ánh lên một cái nhìn nhân hậu. Nằm cân đối giưã hai gò má đồi mồi đã nhan nhúm đi nhiều là một chiếc mũi khoằm trông rất ngộ nghĩ. Hàm răng ông tuy không được trắng bóng nhưng lại đều như hạt bắp, nằm ẩn sau đôi môi đầy đặn, hồng hào. Nhưng điều khiến ông trông thật gần gủi là hàm râu dài đến ngực và cũng trắng trẻo một mầu.

Qua hình ảnh ông tiên trong câu truyện này và nhiều câu truyện khác nữa. Người xưa muốn khuyên dạy chúng ta: Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác. Ông tiên luôn là người xuất hiện để giúp đở những người nghèo khó trườc sự tàn bạo cuả bọn phú hộ. Hình ảnh ông đã gắn liền với các câu truyện Việt Nam. Sau này, lớn lên, em sẽ kể cho con nghe các câu truyện dân gian này để chúng sẽ là người lưu giữ và bảo tồn văn hoá dân tộc.

Có Một Tượng Đài Thơ…

KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH – LIỆT SĨ (27/7/1947 – 27/7/2023)

Có một tượng đài thơ…

(Đọc một số bài thơ viết về thương binh – liệt sỹ)

Đọc lại những bài thơ viết về đề tài thương binh liệt sỹ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ gần giống nhau trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ nhưng triển khai theo một cách riêng mang dấu ấn của thời đại, của tâm hồn người Việt trong những hoàn cảnh khác nhau. Ví như bài “Viếng bạn” của Hoàng Lộc và “Mồ anh hoa nở” của nhà thơ Thanh Hải. Cả hai bài thơ đều viết theo thể thơ 5 chữ với lối tự sự, trữ tình. Cũng là nỗi đau nghẹn thắt, nghẹn ngào trước sự hy sinh của đồng đội nhưng “Viếng bạn” là tác giả được chôn cất người đã mất “Hôm nay đã chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ”. Còn ở “Mồ anh hoa nở” thì: “Hôm qua chúng giết anh/ Xác phơi đầu ngõ xóm” và: “Mắt trừng còn dọa dẫm/ Thằng này là cộng sản/ Không được đứa nào chôn”. Nhưng khi chúng quay đi thì bà con làng xóm đã đưa anh về yên nghỉ trên đồi cao bất chấp cả lời đe dọa của lũ giặc. Và trên nấm mộ của người chiến sỹ đó luôn được đắp lên những bó hoa hồng: “Hoa hồng nở và nở/ Hương thơm bay và bay”. Bài thơ của Hoàng Lộc viết trong thời kỳ chống Pháp mộc mạc mà không đơn sơ, lời thơ như chạm khắc ký thác. Còn nhà thơ Thanh Hải viết trong thời kỳ chống Mỹ đã nâng tứ thơ lên trở thành biểu tượng như là một tượng đài có vẻ đẹp bất tử. Gần đây nhất, tôi lại được đọc bài thơ “Mộ gió” của nhà thơ Trịnh Công Lộc viết về sự hy sinh của những người chiến binh giữ biển đảo không về. Không về cả về thể xác và chỉ có cuộc chiến đấu trên biển mới có những ngôi mộ gió – ngôi mộ mà dưới đó hình nhân được làm bằng đất sét: “Mộ gió đây đất thành xương cốt/ Cứ gọi lên là rõ hình hài ” và: “Chạm vào gió như chạm vào da thịt/ Chạm vào nhói buốt Hoàng Sa”. Có những ngôi mộ gió trên biển đảo khơi xa thì lại có hàng ngàn ngôi mộ vô danh trên dãy Trường Sơn trong bài thơ “Khát vọng Trường Sơn” của nhà thơ quân đội Nguyễn Hữu Quý. Với lối cấu trúc điệp chữ và điệp ý như những điểm nhấn là cả một dư ba vang vọng và day dứt, thiết tha và ngưng đọng: “Mười nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng/ Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn”. Có thể nói bài thơ như chạm khắc một tượng đài trùng điệp trải dài ngút ngàn nhưng không vô vọng với: “Mười ngàn đồng đội nằm rải Trường Sơn/ Mười ngàn hài cốt chưa về khói hương/ Mười ngàn khát vọng cùng về bên nhau…”. Các anh khi ngã xuống vẫn ở trong tư thế: “Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng anh vẫn đứng lên tựa vào xác trực thăng/ Và anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Một hình tượng thật đẹp, một vẻ đẹp bi tráng hào hùng của người chiến sĩ trong thời đại Hồ Chí Minh tỏa ra không chỉ là hào quang chiến thắng mà còn là hào quang của vẻ đẹp lý tưởng. Nhà thơ Lê Anh Xuân, tác giả bài thơ nổi tiếng này sau đó cũng đã hy sinh trong một tư thế tiến công như thế. Chính ngọn súng cũng là ngọn bút và máu các anh cũng là mực của những dòng viết này…

Trong các bài thơ viết về thương binh liệt sỹ, những bài hay và thành công nhất có sức lan tỏa rộng nhất, dễ thuộc nhất là những bài có cốt truyện như: “Núi Đôi” của Vũ Cao trong kháng chiến chống Pháp và “Quê hương” của Giang Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cả hai đều kể về câu chuyện tình yêu thật cảm động với một cô gái cụ thể và sự hy sinh trong những hoàn cảnh cụ thể. Với Vũ Cao: “Mới đến đầu thôn, tin sét đánh/ Giặc giết em rồi dưới gốc thông/ Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa/ Em sống trung thành chết thủy chung” thì ở Giang Nam: “Giặc giết em rồi quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi!/ Đau đớn lòng anh chết nửa con người”. Giọng thơ Vũ Cao điềm tĩnh, đau đớn tột cùng nghẹn nuốt vào trong, còn Giang Nam là tiếng kêu xé ruột nghẹn thắt. Có một tượng đài bất tử được dựng lên từ sự hy sinh của hai cô gái đó. Một tượng đài thơ và chỉ có thơ mới lưu dấu mãi trong tâm hồn. Đó là: “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa xanh ngát cánh hoa thơm” trong “Núi Đôi” và: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi” trong “Quê hương”. Có một Núi Đôi sừng sững thành địa danh chung trong lòng mỗi người thật ấn tượng thì lại có một Quê hương thật thấm đẫm, trong sự hy sinh hóa thân vào mỗi cành cây, ngọn cỏ cội nguồn đất đai sông núi. Không phải ngẫu nhiên mà có những cặp bài thơ như một cặp bài trùng nổi tiếng của hai thời kỳ kháng chiến. 

Có hai bài thơ dài khá thành công của hai nhà thơ nổi tiếng sau này viết khi họ còn là những người lính trực tiếp câm súng đánh giặc. Và viết về chính sự hy sinh của những người thân của mình đó là bài “Phan Thiết có anh tôi” của nhà thơ Hữu Thỉnh và “Nấm mồ và cây trầm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Người anh trai của Hữu Thỉnh hy sinh ở Phan Thiết khi cùng mọi người đi lấy nước cho đồng đội: “Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ/ Mặt anh còn cách nước một vài gang”. Cái khoảng cách giữa lấy nước (cho sự sống) và cái chết thật mỏng manh: “Vài bước nữa/ Thế mà không thể khác/ Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi”. Còn người bạn thân đồng đội tên là Hùng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì: “Nhận cái chết cho đồng đội sống/ Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng/ Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi”. Cứ ngỡ đây cả hai thi sĩ không làm thơ nữa mà họ chỉ ghi lại, gọi lên những phút giây oanh liệt ấy, những thời khắc lịch sử ấy. Để rồi thăng hoa một chiêm nghiệm sự sống hồi sinh từ cái chết hữu hình. Với Hữu Thỉnh người anh trai vẫn sống trong ký ức của nhà thơ: “Không nằm trong nghĩa trang/ Anh ở với đời anh xanh vào cỏ/ Cỏ ở đây thành nhang khói nhà mình/ Đồi ở đây cũng là con của mẹ”. Ở Nguyễn Đức Mậu có một biểu tượng: “Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn/ Cây trầm cháy dở thay nén nhang”. Và : “Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ/ Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị/ Thân hy sinh thơm đất, thơm trời”. Đó cũng chính là tượng đài bất tử sống mãi với thời gian, sống mãi trong ký ức, sống mãi như là một sự trường tồn trong văn học.

 Thơ viết về thương binh, những người “Tàn mà không phế”, những người không chỉ mất một phần máu thịt mà còn mang trong mình những cơn sốt sét rừng âm ỉ, những di chứng của chất độc da cam. Tôi thật ấn tượng khi chọn hai bài thơ viết về những người thương binh cụt chân bắt đầu từ giai điệu thiết tha “Vết chân tròn trên cát” của nhạc sỹ Trần Tiến. Đôi chân đối với mỗi con người thật quan trọng, vì luôn phải hoạt động trong môi trường cuộc sống xã hội thường ngày. Đôi bàn chân đã mất đó từng cùng họ hành quân qua bao chiến trường khói lửa. Tướng quân Huỳnh Văn Nghệ là một thi sĩ, trong thời kỳ chống Pháp đã viết bài thơ “Tiếng hát giữa rừng” kể về một chiến sĩ bị thương phải cưa chân bằng cưa thợ mộc không thuốc gây mê. Để quên đi nỗi đau đớn tột cùng đó anh đã hát vang bài Quốc ca với một sự chịu đựng phi thường đáng khâm phục: “Cưa cứ cưa, xương cứ đứt/ Máu cứ rơi trong từng vết đỏ bông/ Hai bàn tay xiết chặt đôi hông/ Dồn hết phổi vào trong câu hát/ Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc/ Đã hát đi hát lại bao lần/ Vẫn chưa đứt xương chân/ Vẫn chưa ngừng máu đỏ”. Trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ “Bàn chân thầy giáo”: “Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh/ Hay Tây Ninh, Đồng Tháp/ Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc/ Cho lẽ sống làm người”. Người thầy giáo thương binh trở về giảng đường với những trang sách và các em thơ với đôi nạng gỗ xếp bên bàn. Chính cái đôi nạng gỗ ấy đã vỡ vạc ra bao điều, đã gieo vào tâm hồn các em những ý nghĩ sâu sắc có sức thuyết phục hơn cả những bài học luân lý mà ở lứa tuổi học trò Trần Đăng Khoa đã nhận ra: “Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo/ Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo/ Như nhận ra cái chưa hoàn hảo/ Của cả cuộc đời mình”. Lại có những “vết thương lòng” chia cắt không chỉ là thể xác mà cả tâm hồn, sự trống vắng cô đơn, sự thiếu hụt tình cảm của bao cô thanh niên xung phong trở về quá tuổi và vào chùa thành sư nữ. Nhà thơ Phạm Tiến Duật trong trường ca “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” viết thật xúc động về người nữ thương binh từng bị những mảnh bom xuyên vào đầu đau nhức những khi trái gió trở trời: “Sao sư thầy không gõ mõ/ Lại vừa tụng kinh vừa gõ đầu mình/ Có thể nào những giây phút thời bình/ Còn có thể làm vết thương thủa nào tái phát”. 

Chiến tranh đã đi qua nhưng khi trở lại dòng sông Thạch Hãn, người cựu chiến binh Lê Bá Dương đã nức nở, thổn thức: “Đò lên Thạch Hãn xin… chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Cũng như năm xưa trong kháng chiến chống Pháp, nhà thơ – Người lính Tây tiến Quang Dũng đã từng độc hành khúc tráng ca lẫm liệt bi thiết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hóa thân vào mỗi ngọn núi, dòng sông đất nước, đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim mỗi người…

NGUYỄN NGỌC PHÚ 

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn Hay Của Hsg :Đọc Một Câu Thơ Hay, Ta Thường Có Cảm Giác Đứng Trước Một Bến Đò Gió Nổi, Một Khao Khát Sang Sông, Một Thúc Đẩy Lên Đường Hướng Thiện Với Những Vùng Trời Tốt Đẹp Hơn, Nhân Tính Hơn trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!