Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Đây Mùa Thu Tới” # Top 12 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Đây Mùa Thu Tới” # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Đây Mùa Thu Tới” được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm , Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Lưu Trọng Lư , Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Nói thế, không có nghĩa là Xuân Diệu không dành một quan niệm riêng cho cái mùa của những bông cúc vàng ẩn dật này. Trong cảm quan của thi sĩ, thiên nhiên cũng như một giai nhân đầy nhan sắc. Thời kì rực rỡ hoàng kim là thuộc về mùa xuân. Qua hạ vào thu là bước vào kì tàn phai. Một sự tàn phai không thể tránh khỏi. Mùa thu là mùa phôi pha. Nhưng đối với thi sĩ này, thì ngay trong độ phai tàn, giai nhân ấy vẫn cứ kiêu sa, đài các, lộng lẫy. Cũng không riêng chuyện cảm quan. Đây mùa thu tới còn thuộc về một cảm hứng rất Xuân Diệu: cảm hứng nghiêng về thời gian. Như cái tên của nó, Đây mùa thu tới đã chọn một thời điểm riêng để đến với mùa thu. ấy là thời điểm giao mùa. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ với chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến sẽ thấy rõ hơn cảm hứng này của Xuân Diệu. Trong chùm thơ nổi tiếng của mình, Tam nguyên Yên Đổ viết về một mùa thu đã hoàn toàn định hình, đã ngự trị từ lâu ở làng cảnh Việt Nam. Thi nhân chỉ đi tìm kiếm những gì là đặc trưng nhất để vẽ lên bức tranh thu. Nghệ thuật của Nguyễn Khuyến có phần nghiêng về không gian, nghiêng về cái tĩnh. Còn thi sĩ Xuân Diệu thì chờ cái lúc mùa thu từ phương xa về, đáp xuống xứ sở này, dần dần từng bước xâm chiếm toàn bộ thiên nhiên, cây cỏ và con người. Ngòi bút Xuân Diệu bám từng bước đi của thời gian, nắm bắt cái dáng vẻ, cái trạng thái sự vật đang ngả dần sang thu, đất trời cứ thu dần thu dần để thành thu hẳn. Nghệ thuật Xuân Diệu, rõ ràng, nghiêng về thời gian, nghiêng về cái động. Trong cái thế giới riêng của bài thơ, cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liễu – nó lập tức biến thành liễu thu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Hành trình xâm lấn của mùa thu, từ đó, dường như cứ lan dần, loang dần ra những khu vườn, những rặng núi, những dòng sông, những tầng trời… và cuối cùng, nó xâm chiếm lòng người. Khi đã tràn ngập những tâm hồn thiếu nữ, ấy là lúc mùa thu đã đi trọn một con đường của nó. Và, mùa thu tới, cảnh sắc cũng theo đó phôi pha. Sắc lá rũa phai đi, cành nhánh gầy guộc đi, trăng ngẩn ngơ đi, dáng núi nhạt nhoà hơn, sông vắng vẻ hơn, khí trời lạnh lẽo hơn, lòng người u sầu hơn… Khi những thiếu nữ cũng “buồn không nói, tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, ấy là lúc mùa thu đã làm xong phần việc của nó: chuyển toàn bộ xứ sở này thành thu. Chẳng phải mùa thu cũng là mùa phai đó ư? Như thế, hành trình của mùa thu cũng chính là trình tự cấu tứ của Đây mùa thu tới. * Ta vừa thấy dấu ấn Xuân Diệu in đậm lên tổng thể tứ thơ. Ta còn thấy dấu ấn ấy in cả lên từng chi tiết nhỏ nhất của bài thơ nữa. Đúng là mỗi thi sĩ thường tìm cho mình những tín hiệu riêng để nhận biết mùa thu. Người xưa thấy thu về trong một chiếc lá ngô đồng rụng. Nguyễn Du thấy thu về trong sắc đỏ lá phong. Nguyễn Khuyến nhận ra thu trong dáng cần trúc lơ phơ. Lưu Trọng Lư nghe thấy tiếng thu trong tiếng lá kêu xào xạc. Nguyễn Đình Thi nhận ra thu trong làn hương cốm mới. Trần Đăng Khoa biết thu về khi hoa cau rụng vào những thoáng heo may… Còn Xuân Diệu? ấy là dáng liễu. Khi rặng liễu bắt đầu mang dáng đứng chịu tang, thi sĩ biết rằng mùa thu đã hiện diện ở xứ sở này:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới – mùa thu tới: Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Chúng ta biết Thơ Mới bắt đầu mới trong cảm xúc. Cảm xúc mới nảy nở, bùng nổ, nó phải kiếm tìm thi pháp mới. Ở Xuân Diệu – “mới nhất trong các nhà Thơ mới” – cảm xúc và thi pháp đã giúp nhà thơ làm mới những thi liệu cũ. Nét dễ thấy ở đây là một lối liên tưởng mới. Chính lối liên tưởng này đã tạo ra một vẻ đẹp mới cho đối tượng cũ. Ai cũng biết, liễu là hình ảnh đã quá quen thuộc trong thơ cổ điển. Trong thật nhiều những dáng liễu đẹp:

Lơ thơ tơ liễu buông mành

Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Trong các câu thơ trên của Nguyễn Du, liễu có phần nghiêng về vẻ đẹp khách quan, liễu hiện lên chủ yếu bằng vẻ đẹp của bản thân liễu. Nhà Thơ Mới Xuân Diệu không chịu làm thế. Ông đã “áp đặt” vào liễu một vẻ đẹp chủ quan, liễu mang trong nó vẻ đẹp người. Dáng liễu là dáng người. Từng dòng lá liễu rủ xuống mang trong nó những dòng tóc đang buông xuống và trăm nghìn giọt lệ đang tuôn xuống. Tâm trạng liễu là tâm trạng người. Cảm nhận liễu, người ta cứ thấy phảng phất trong liễu bóng dáng những giai nhân đài các, kiêu sa mà âu sầu buồn bã. Trước Xuân Diệu, xem ra, chưa có một dáng liễu nào giống thế. Trước tín hiệu báo mùa ấy, thi sĩ đã kêu lên: “Đây mùa thu tới mùa thu tới”. Câu thứ ba đúng là một tiếng reo. Nhưng không phải reo vui như có người tưởng. Làm sao có thể reo vui khi cảnh buồn đến thế. Đó chỉ có thể là tiếng reo ngỡ ngàng. Vì sững sờ nhận ra thế là mùa thu đã về, ngay nhỡn tiền đây thôi. Cũng còn vì: dẫu là mùa tàn phai, mà thu vẫn cứ yêu kiều thế – Với áo mơ phai dệt lá vàng. Trong cảm nhận của Xuân Diệu, mùa thu vốn vô hình đã trở nên hữu hình. Và, dường như mùa thu cũng về trong bóng hình, phong thái của của một giai nhân. Ta không nhìn thấy rõ khuôn mặt nàng, nhưng ta nhận ra nàng trong cái vũ điệu bay đến và trong sắc áo hư ảo, chừng như dệt bằng lá vàng và nắng vàng của nàng:

Đây mùa thu tới mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng

Nó gợi ta nhớ đến hình ảnh trăng trong bài thơ

… Trăng từ viễn xứ Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn.

Cảm xúc thẩm mỹ mới về mùa thu của Xuân Diệu, rõ ràng, đã gắn liền với một khía cạnh thi pháp mới, đó là một trường liên tưởng tân kì: vẻ đẹp tạo vật thiên nhiên được qui chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân. * Chỉ bốn câu đầu đã là bức tranh thu trọn vẹn và mới mẻ. Không chỉ thế, lắng nghe kĩ còn thấy trong bức tranh kia đang ngân lên một điệu nhạc nào nữa. Đúng thế, Xuân Diệu đã triệt để khai thác nhạc tính của ngôn ngữ để tạo ra chất thơ và chuyển tải cảm xúc của mình. Chúng ta đều biết chủ trương của thi phái tượng trưng là xem nhạc tính như yếu tố huyền diệu bậc nhất của ngôn từ. Thơ thoát ra từ sự giao động bất tuyệt giữa âm thanh và ý nghĩa của chuỗi ngữ ngôn. Tinh thần này thấm rất sâu vào Xuân Diệu. Có thể nói trong suốt thi nghiệp của mình, Xuân Diệu đã tỏ ra là thi sĩ nắm được cái hồn của tiếng Việt. Những sáng tạo của Xuân Diệu về âm điệu trong khổ thơ này có thể xem là một minh chứng. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy ba chuỗi vần được phối hiệp nhuần nhuyễn với nhau trong khổ thơ. Vần “iu” (cận thể là “yêu”) với các từ: liễu, đìu, hiu, chịu…; vần “an” (cận thể là “ang”) với: tang, ngàn, hàng, vàng…; vần “uôn” (cận thể là”uông”) với: buồn, buông, xuống… Đáng nói là chúng vừa kế tiếp vừa đan xen, gợi được thế nương theo nhau, nối đuổi nhau, vừa díu dan ràng níu, vừa trì kéo lẫn nhau, giúp Xuân Diệu tạo hình được những dòng lá liễu đang rủ xuống và cả những thân liễu như đang muốn trùng xuống, trĩu xuống tựa hồ những dáng liễu buồn sầu không mang nổi tâm trạng của chính mình. Cả nhịp điệu ở câu thứ ba cũng phụ hoạ vào lối tạo hình ấy. Câu thất ngôn thường đi nhịp 2/2/3. ở đây Xuân Diệu ngắt thành 4/3:

Đây mùa thu tới / mùa thu tới

Cơ hồ nhịp điệu đã mô phỏng được cả ngữ điệu của một tiếng kêu ngỡ ngàng, cả vũ điệu luân chuyển nào đó rất vô hình của mùa thu nữa. (Trong khổ tiếp theo, ta còn được thấy việc khai thác nhạc tính như thế trong chuỗi phụ âm “r” khi Xuân Diệu viết “Những luồng run rẩy rung rinh lá”). Dùng âm nhạc của ngôn ngữ để tạo hình như vậy, Xuân Diệu đã tỏ rõ thi pháp tượng trưng ngấm vào ngòi bút của mình nhuần nhị như thế nào. * Tuy nhiên, nói đến Xuân Diệu là còn phải nói đến một hồn thơ nhạy cảm với những biến thái tinh vi mơ hồ trong hồn người và hồn tạo vật. Mùa thu chạm vào rặng liễu và làm liễu biến đổi. Mùa thu đi vào vườn, cảnh vật trong vườn cũng từng bước biến suy. Trong cái vẻ biến đổi quen thuộc, thi nhân đã nhận ra những điều thật khó thấy:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Tôi không muốn nói đến vẻ tân kì, vẻ Tây trong việc dùng các chữ “hơn một” và “rụng cành”. Điều muốn nói và đáng nói hơn chính là chữ “rũa[1]”. Có người đã hiểu đây là chữ “rữa”. Không phải! Xuân Diệu đâu có diễn tả sự phân huỷ của xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi và thanh nhã hơn nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa bằng việc chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây, Nguyễn Du từng có câu:

Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

Cùng thời với Xuân Diệu,

Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Sau này, Tố Hữu cũng có những câu tinh tế:

Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Gần nhau đến thế mà mỗi chữ vẫn mang một sắc thái riêng, một vẻ thần tình riêng. “Nhuốm” mới bắt đầu, đang diễn ra, chưa hoàn kết; còn “nhuộm” hình như đã kết thúc, hoàn tất. Một chữ xem chừng động hơn, nói được nỗi buồn lan ra từ cuộc chia li Kiều – Thúc vương phủ lên rừng phong, khiến màu cây biến sắc. Chữ “nhuộm” có lẽ tĩnh hơn (dĩ nhiên là trong văn cảnh này), nói cái thời gian của kẻ tương tư dài đằng đẵng đến nỗi đủ làm cây héo úa, làm người héo hon. Chữ “đổ” lại nhấn mạnh sắc thái mau lẹ. Những ngày cuối của mùa xuân, phách hãy còn xanh. Thế mà khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, rừng phách đã nhất loạt trổ hoa vàng. Ngỡ có ai đem đổ cả một bình màu lớn khiến rừng phách kia lênh láng sắc vàng. Và cũng trong những tiếng ve ấy, hoa phách rụng như trút vàng xuống đất, như những cơn mưa hoa, cơn mưa vàng vậy. Còn câu thơ và chữ nghĩa Xuân Diệu thì sao? Thi sĩ này không lặp lại sự biến màu trên toàn cục, mà có phần nghiêng về sự biến màu trên mỗi chiếc lá. Thậm chí sự phôi pha trong từng hạt diệp lục. Chữ “rũa” là thế. Ta không chỉ thấy mùa thu về trên những vòm là, những dòng sông, những chân trời, những tầng trời. Mà còn thấy thu đến trong từng hạt diệp lục đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu đỏ là mùa thu. Trên từng chiếc lá, thi sĩ thấy thu về và đương tranh chấp với mùa hạ. Màu đỏ lấn tới đâu làm màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan tới đâu, mùa hạ lùi bước tới đó. “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, câu thơ như đã thu nhỏ cả cuộc đổi mùa lớn lao vào một góc vườn, vào từng chiếc lá đang phai. Cũng ở trong vườn, trước một hình ảnh ngỡ quá quen thuộc này, vẫn có những cảm nhận thật mới lạ:

Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Có người đã hiểu sự cách tân của Xuân Diệu ở đây là: thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng run rẩy” (!) Nếu thi sĩ có làm thế thật, thì cũng chẳng mới được là bao. Nhưng, cái Xuân Diệu định nói ở đây chính là luồng run rẩy. Vâng, chính là thoáng rùng mình của những thân cành mảnh mai gầy guộc trước làn hơi giá của mùa thu đang lan trong không trung một cách vô hình. Cảm nghe được cả những sóng âm mang hơi thu mơ hồ ấy, thì những nhánh cây mùa thu kia thật nhạy cảm biết nhường nào. Luồng rung động toàn thân ấy gợi ta nhớ đến cái thoáng “Linh lung bóng sáng bỗng rung mình” hay cái trạng thái “Tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”, “Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái”… rất đặc trưng cho thi cảm Xuân Diệu. Như một người quay phim tinh tế, thi sĩ đã ghé sát ống kính của thơ mình để đặc tả thật cận cảnh, khiến cho những cành nhánh nhỏ nhoi mảnh mai nhất cũng như đang run rẩy lên tựa dây đàn trên dòng thơ. Và ta có thể thấy rõ không chỉ bằng thị giác mà bằng cả thính giác và xúc giác nữa cái luồng rung động tinh vi ấy đang truyền theo nhịp rung qua một chuỗi bốn âm “r” kế tiếp. Cứ kĩ lưỡng tinh vi như thế, Xuân Diệu thả hồn mình cảm nhận những nét đang tượng hình, đang hiện hình trong mỗi tạo vật thiên nhiên càng lúc càng lan xa mãi:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ… Non xa khởi sự nhạt sương mờ Đã nghe rét mướt luồn trong gió… Đã vắng người sang những chuyến đò

Đến đây ta mới thật sự bị cái giá lạnh của mùa thu xâm chiếm, cái cảm giác thu đã thành sắc nét trên da thịt ta. Mùa thu cứ lan ra, xa nhất, rộng nhất, cao nhất với dòng sông, ngọn núi, với mây trời, cánh chim và cả nàng trăng nữa. Nhưng chỉ đến khi xâm chiếm tâm hồn các thiếu nữ thì mùa thu mới chiếm ngự được nơi sâu nhất của cõi này:

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì

Mùa thu – mùa phôi pha đã gieo buồn vào hồn người? Đã đánh thức dậy nỗi cô đơn? Tựa cửa nhìn xa với khao khát lứa đôi? Hay mùa phôi pha phai lạt đang đánh thức dậy một dự cảm mơ hồ về cái độ phai tàn tuy còn xa xôi mà đã như diễu qua nhỡn tiền đó? Làm sao ta biết được! Chỉ biết rằng khuất sâu trong cái dáng “buồn không nói”, “tựa cửa nhìn xa” ngỡ bất động kia lại chất chứa biết bao xôn xao thấm thía vào bậc nhất của cõi thu này.

Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời. Câu nói ngỡ như một trò chơi chữ này của người xưa hoá ra đã thể hiện được mối tương thông kì lạ giữa mùa thu và thơ ca. Có phải vì thế mà trong bốn mùa, thơ ca thiên vị với mùa thu hơn cả và mùa thu cũng ban tặng cho thi nhân nhiều thi tứ hơn? Mùa thu gắn bó với thi ca đến nỗi chỉ cần xem xét thơ viết về mùa thu qua các thời đại cũng có thể thấy được phần nào các thời đại thơ ca. Kể tên những áng thơ thu đẹp nhất trong thơ Việt, người ta phải nhắc đến những Nguyễn Trãi Tố Hữu … và không thể không nhắc đến Xuân Diệu . Thoạt nhìn, dễ nghĩ Xuân Diệu chỉ là thi sĩ của mùa xuân. Thậm chí, đọc bài Xuân không mùa , chúng ta có thể quyết rằng: Xuân không mùa – ấy là Xuân Diệu! Thực thì, Xuân Diệu còn là thi sĩ của mùa thu. Không chỉ vì ông nhiều bài thơ thu đặc sắc. Điều cốt yếu là, với thi sĩ, Xuân hay Thu cũng đều là mùa Tình.Nói thế, không có nghĩa là Xuân Diệu không dành một quan niệm riêng cho cái mùa của những bông cúc vàng ẩn dật này. Trong cảm quan của thi sĩ, thiên nhiên cũng như một giai nhân đầy nhan sắc. Thời kì rực rỡ hoàng kim là thuộc về mùa xuân. Qua hạ vào thu là bước vào kì tàn phai. Một sự tàn phai không thể tránh khỏi. Mùa thu là mùa phôi pha. Nhưng đối với thi sĩ này, thì ngay trong độ phai tàn, giai nhân ấy vẫn cứ kiêu sa, đài các, lộng lẫy. Đây mùa thu tới có lẽ là thi phẩm được nảy sinh trực tiếp từ cảm quan ấy.Cũng không riêng chuyện cảm quan.còn thuộc về một cảm hứng rất Xuân Diệu: cảm hứng nghiêng về thời gian. Như cái tên của nó,đã chọn một thời điểm riêng để đến với mùa thu. ấy là thời điểm giao mùa. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ với chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến sẽ thấy rõ hơn cảm hứng này của Xuân Diệu. Trong chùm thơ nổi tiếng của mình, Tam nguyên Yên Đổ viết về một mùa thu đã hoàn toàn định hình, đã ngự trị từ lâu ở làng cảnh Việt Nam. Thi nhân chỉ đi tìm kiếm những gì là đặc trưng nhất để vẽ lên bức tranh thu. Nghệ thuật của Nguyễn Khuyến có phần nghiêng về không gian, nghiêng về cái tĩnh. Còn thi sĩ Xuân Diệu thì chờ cái lúc mùa thu từ phương xa về, đáp xuống xứ sở này, dần dần từng bước xâm chiếm toàn bộ thiên nhiên, cây cỏ và con người. Ngòi bút Xuân Diệu bám từng bước đi của thời gian, nắm bắt cái dáng vẻ, cái trạng thái sự vật đang ngả dần sang thu, đất trời cứ thu dần thu dần để thành thu hẳn. Nghệ thuật Xuân Diệu, rõ ràng, nghiêng về thời gian, nghiêng về cái động.Trong cái thế giới riêng của bài thơ, cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liễu – nó lập tức biến thành liễu thu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Hành trình xâm lấn của mùa thu, từ đó, dường như cứ lan dần, loang dần ra những khu vườn, những rặng núi, những dòng sông, những tầng trời… và cuối cùng, nó xâm chiếm lòng người. Khi đã tràn ngập những tâm hồn thiếu nữ, ấy là lúc mùa thu đã đi trọn một con đường của nó. Và, mùa thu tới, cảnh sắc cũng theo đó phôi pha. Sắc lá rũa phai đi, cành nhánh gầy guộc đi, trăng ngẩn ngơ đi, dáng núi nhạt nhoà hơn, sông vắng vẻ hơn, khí trời lạnh lẽo hơn, lòng người u sầu hơn… Khi những thiếu nữ cũng “buồn không nói, tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, ấy là lúc mùa thu đã làm xong phần việc của nó: chuyển toàn bộ xứ sở này thành thu. Chẳng phải mùa thu cũng là mùa phai đó ư? Như thế, hành trình của mùa thu cũng chính là trình tự cấu tứ củaTa vừa thấy dấu ấn Xuân Diệu in đậm lên tổng thể tứ thơ. Ta còn thấy dấu ấn ấy in cả lên từng chi tiết nhỏ nhất của bài thơ nữa.Đúng là mỗi thi sĩ thường tìm cho mình những tín hiệu riêng để nhận biết mùa thu. Người xưa thấy thu về trong một chiếc lá ngô đồng rụng. Nguyễn Du thấy thu về trong sắc đỏ lá phong. Nguyễn Khuyến nhận ra thu trong dáng cần trúc lơ phơ. Lưu Trọng Lư nghe thấy tiếng thu trong tiếng lá kêu xào xạc. Nguyễn Đình Thi nhận ra thu trong làn hương cốm mới. Trần Đăng Khoa biết thu về khi hoa cau rụng vào những thoáng heo may… Còn Xuân Diệu? ấy là dáng liễu. Khi rặng liễu bắt đầu mang dáng đứng chịu tang, thi sĩ biết rằng mùa thu đã hiện diện ở xứ sở này:Chúng ta biết Thơ Mới bắt đầu mới trong cảm xúc. Cảm xúc mới nảy nở, bùng nổ, nó phải kiếm tìm thi pháp mới. Ở Xuân Diệu – “mới nhất trong các nhà Thơ mới” – cảm xúc và thi pháp đã giúp nhà thơ làm mới những thi liệu cũ. Nét dễ thấy ở đây là một lối liên tưởng mới. Chính lối liên tưởng này đã tạo ra một vẻ đẹp mới cho đối tượng cũ. Ai cũng biết, liễu là hình ảnh đã quá quen thuộc trong thơ cổ điển. Trongthật nhiều những dáng liễu đẹp:Trong các câu thơ trên của Nguyễn Du, liễu có phần nghiêng về vẻ đẹp khách quan, liễu hiện lên chủ yếu bằng vẻ đẹp của bản thân liễu. Nhà Thơ Mới Xuân Diệu không chịu làm thế. Ông đã “áp đặt” vào liễu một vẻ đẹp chủ quan, liễu mang trong nó vẻ đẹp người. Dáng liễu là dáng người. Từng dòng lá liễu rủ xuống mang trong nó những dòng tóc đang buông xuống và trăm nghìn giọt lệ đang tuôn xuống. Tâm trạng liễu là tâm trạng người. Cảm nhận liễu, người ta cứ thấy phảng phất trong liễu bóng dáng những giai nhân đài các, kiêu sa mà âu sầu buồn bã. Trước Xuân Diệu, xem ra, chưa có một dáng liễu nào giống thế. Trước tín hiệu báo mùa ấy, thi sĩ đã kêu lên: “Đây mùa thu tới mùa thu tới”. Câu thứ ba đúng là một tiếng reo. Nhưng không phải reo vui như có người tưởng. Làm sao có thể reo vui khi cảnh buồn đến thế. Đó chỉ có thể là tiếng reo ngỡ ngàng. Vì sững sờ nhận ra thế là mùa thu đã về, ngay nhỡn tiền đây thôi. Cũng còn vì: dẫu là mùa tàn phai, mà thu vẫn cứ yêu kiều thế – Với áo mơ phai dệt lá vàng. Trong cảm nhận của Xuân Diệu, mùa thu vốn vô hình đã trở nên hữu hình. Và, dường như mùa thu cũng về trong bóng hình, phong thái của của một giai nhân. Ta không nhìn thấy rõ khuôn mặt nàng, nhưng ta nhận ra nàng trong cái vũ điệu bay đến và trong sắc áo hư ảo, chừng như dệt bằng lá vàng và nắng vàng của nàng:Nó gợi ta nhớ đến hình ảnh trăng trong bài thơ Lời kỹ nữ , cũng dáng điệu ấy, phong thái ấy:Cảm xúc thẩm mỹ mới về mùa thu của Xuân Diệu, rõ ràng, đã gắn liền với một khía cạnh thi pháp mới, đó là một trường liên tưởng tân kì: vẻ đẹp tạo vật thiên nhiên được qui chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân.Chỉ bốn câu đầu đã là bức tranh thu trọn vẹn và mới mẻ. Không chỉ thế, lắng nghe kĩ còn thấy trong bức tranh kia đang ngân lên một điệu nhạc nào nữa. Đúng thế, Xuân Diệu đã triệt để khai thác nhạc tính của ngôn ngữ để tạo ra chất thơ và chuyển tải cảm xúc của mình. Chúng ta đều biết chủ trương của thi phái tượng trưng là xem nhạc tính như yếu tố huyền diệu bậc nhất của ngôn từ. Thơ thoát ra từ sự giao động bất tuyệt giữa âm thanh và ý nghĩa của chuỗi ngữ ngôn. Tinh thần này thấm rất sâu vào Xuân Diệu. Có thể nói trong suốt thi nghiệp của mình, Xuân Diệu đã tỏ ra là thi sĩ nắm được cái hồn của tiếng Việt. Những sáng tạo của Xuân Diệu về âm điệu trong khổ thơ này có thể xem là một minh chứng. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy ba chuỗi vần được phối hiệp nhuần nhuyễn với nhau trong khổ thơ. Vần “iu” (cận thể là “yêu”) với các từ: liễu, đìu, hiu, chịu…; vần “an” (cận thể là “ang”) với: tang, ngàn, hàng, vàng…; vần “uôn” (cận thể là”uông”) với: buồn, buông, xuống… Đáng nói là chúng vừa kế tiếp vừa đan xen, gợi được thế nương theo nhau, nối đuổi nhau, vừa díu dan ràng níu, vừa trì kéo lẫn nhau, giúp Xuân Diệu tạo hình được những dòng lá liễu đang rủ xuống và cả những thân liễu như đang muốn trùng xuống, trĩu xuống tựa hồ những dáng liễu buồn sầu không mang nổi tâm trạng của chính mình. Cả nhịp điệu ở câu thứ ba cũng phụ hoạ vào lối tạo hình ấy. Câu thất ngôn thường đi nhịp 2/2/3. ở đây Xuân Diệu ngắt thành 4/3:Cơ hồ nhịp điệu đã mô phỏng được cả ngữ điệu của một tiếng kêu ngỡ ngàng, cả vũ điệu luân chuyển nào đó rất vô hình của mùa thu nữa. (Trong khổ tiếp theo, ta còn được thấy việc khai thác nhạc tính như thế trong chuỗi phụ âm “r” khi Xuân Diệu viết “Những luồng run rẩy rung rinh lá”). Dùng âm nhạc của ngôn ngữ để tạo hình như vậy, Xuân Diệu đã tỏ rõ thi pháp tượng trưng ngấm vào ngòi bút của mình nhuần nhị như thế nào.Tuy nhiên, nói đến Xuân Diệu là còn phải nói đến một hồn thơ nhạy cảm với những biến thái tinh vi mơ hồ trong hồn người và hồn tạo vật. Mùa thu chạm vào rặng liễu và làm liễu biến đổi. Mùa thu đi vào vườn, cảnh vật trong vườn cũng từng bước biến suy. Trong cái vẻ biến đổi quen thuộc, thi nhân đã nhận ra những điều thật khó thấy:Tôi không muốn nói đến vẻ tân kì, vẻ Tây trong việc dùng các chữ “hơn một” và “rụng cành”. Điều muốn nói và đáng nói hơn chính là chữ “rũa”. Có người đã hiểu đây là chữ “rữa”. Không phải! Xuân Diệu đâu có diễn tả sự phân huỷ của xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi và thanh nhã hơn nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa bằng việc chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây, Nguyễn Du từng có câu:Cùng thời với Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng viết:Sau này, Tố Hữu cũng có những câu tinh tế:Gần nhau đến thế mà mỗi chữ vẫn mang một sắc thái riêng, một vẻ thần tình riêng. “Nhuốm” mới bắt đầu, đang diễn ra, chưa hoàn kết; còn “nhuộm” hình như đã kết thúc, hoàn tất. Một chữ xem chừng động hơn, nói được nỗi buồn lan ra từ cuộc chia li Kiều – Thúc vương phủ lên rừng phong, khiến màu cây biến sắc. Chữ “nhuộm” có lẽ tĩnh hơn (dĩ nhiên là trong văn cảnh này), nói cái thời gian của kẻ tương tư dài đằng đẵng đến nỗi đủ làm cây héo úa, làm người héo hon. Chữ “đổ” lại nhấn mạnh sắc thái mau lẹ. Những ngày cuối của mùa xuân, phách hãy còn xanh. Thế mà khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, rừng phách đã nhất loạt trổ hoa vàng. Ngỡ có ai đem đổ cả một bình màu lớn khiến rừng phách kia lênh láng sắc vàng. Và cũng trong những tiếng ve ấy, hoa phách rụng như trút vàng xuống đất, như những cơn mưa hoa, cơn mưa vàng vậy.Còn câu thơ và chữ nghĩa Xuân Diệu thì sao? Thi sĩ này không lặp lại sự biến màu trên toàn cục, mà có phần nghiêng về sự biến màu trên mỗi chiếc lá. Thậm chí sự phôi pha trong từng hạt diệp lục. Chữ “rũa” là thế. Ta không chỉ thấy mùa thu về trên những vòm là, những dòng sông, những chân trời, những tầng trời. Mà còn thấy thu đến trong từng hạt diệp lục đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu đỏ là mùa thu. Trên từng chiếc lá, thi sĩ thấy thu về và đương tranh chấp với mùa hạ. Màu đỏ lấn tới đâu làm màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan tới đâu, mùa hạ lùi bước tới đó. “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, câu thơ như đã thu nhỏ cả cuộc đổi mùa lớn lao vào một góc vườn, vào từng chiếc lá đang phai.Cũng ở trong vườn, trước một hình ảnh ngỡ quá quen thuộc này, vẫn có những cảm nhận thật mới lạ:Có người đã hiểu sự cách tân của Xuân Diệu ở đây là: thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng run rẩy” (!) Nếu thi sĩ có làm thế thật, thì cũng chẳng mới được là bao. Nhưng, cái Xuân Diệu định nói ở đây chính là luồng run rẩy. Vâng, chính là thoáng rùng mình của những thân cành mảnh mai gầy guộc trước làn hơi giá của mùa thu đang lan trong không trung một cách vô hình. Cảm nghe được cả những sóng âm mang hơi thu mơ hồ ấy, thì những nhánh cây mùa thu kia thật nhạy cảm biết nhường nào. Luồng rung động toàn thân ấy gợi ta nhớ đến cái thoáng “Linh lung bóng sáng bỗng rung mình” hay cái trạng thái “Tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”, “Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái”… rất đặc trưng cho thi cảm Xuân Diệu. Như một người quay phim tinh tế, thi sĩ đã ghé sát ống kính của thơ mình để đặc tả thật cận cảnh, khiến cho những cành nhánh nhỏ nhoi mảnh mai nhất cũng như đang run rẩy lên tựa dây đàn trên dòng thơ. Và ta có thể thấy rõ không chỉ bằng thị giác mà bằng cả thính giác và xúc giác nữa cái luồng rung động tinh vi ấy đang truyền theo nhịp rung qua một chuỗi bốn âm “r” kế tiếp.Cứ kĩ lưỡng tinh vi như thế, Xuân Diệu thả hồn mình cảm nhận những nét đang tượng hình, đang hiện hình trong mỗi tạo vật thiên nhiên càng lúc càng lan xa mãi:Đến đây ta mới thật sự bị cái giá lạnh của mùa thu xâm chiếm, cái cảm giác thu đã thành sắc nét trên da thịt ta. Mùa thu cứ lan ra, xa nhất, rộng nhất, cao nhất với dòng sông, ngọn núi, với mây trời, cánh chim và cả nàng trăng nữa. Nhưng chỉ đến khi xâm chiếm tâm hồn các thiếu nữ thì mùa thu mới chiếm ngự được nơi sâu nhất của cõi này:Mùa thu – mùa phôi pha đã gieo buồn vào hồn người? Đã đánh thức dậy nỗi cô đơn? Tựa cửa nhìn xa với khao khát lứa đôi? Hay mùa phôi pha phai lạt đang đánh thức dậy một dự cảm mơ hồ về cái độ phai tàn tuy còn xa xôi mà đã như diễu qua nhỡn tiền đó? Làm sao ta biết được! Chỉ biết rằng khuất sâu trong cái dáng “buồn không nói”, “tựa cửa nhìn xa” ngỡ bất động kia lại chất chứa biết bao xôn xao thấm thía vào bậc nhất của cõi thu này.

Đây Mùa Thu Tới _ Xuân Diệu

ĐÂY MÙA THU TỚI

Xuân Diệu

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng: Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá… Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ… Non xa khởi sự nhạt sương mờ… Đã nghe rét mướt luồn trong gió… Đã vắng người sang những chuyến đò…

Mây vẩn từng không, chim bay đi. Khí trời u uất hận chia ly. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.

Xuân Diệu làm thơ rất sớm và thơ ông đã gây nên một tiếng vang lớn trong phong trào Thơ mới. Sau khi tập  Thơ Thơ ra đời vào năm 1938 (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội) thì vị trí hàng đầu của Xuân Diệu trong làng thơ bấy giờ mặc nhiên được công nhận. Hoài Thanh nhận xét: “Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh vi cố hữu của nòi giống… thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời… Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết… Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi… Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới…” (Thi nhân Việt Nam – Nhà xuất bản Văn học, tái bản năm 1988).

Thơ thơlà tập thơ đầu tiên và cũng là tập thơ tiêu biểu hay vào bậc nhất của Xuân Diệu. Bài thơ Đây mùa thu tới trích trong đó.

Mùa thu xưa nay đã làm xao động biết bao trái tim và đã hiện thành vô vàn lời thơ trong văn chương nhân loại. Những người yêu văn chương không thể không biết Thu hứng, Đăng cao của Đỗ Phủ, Thu Tầm Dươngcủa Bạch Cư Dị, Bài ca mùa thu của Véc-len, Thucủa Bô-đơ-le, và gần hơn là thu trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Huy Cận… Đủ tình đủ điệu. Có điều thu trời đất thì vậy nhưng lòng người thì ai dễ giống ai và ai nói giùm cho ai được!

Xuân Diệu có cách rung động, cách diễn đạt không giống người xưa. Trong Thơ thơ, có mấy bài nói về mùa thu: ý thu, Thơ duyên… và Đây mùa thu tới. Tuy có nét chung nhưng mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng.

ở bài Đây mùa thu tới, sau khi miêu tả những cảm nhận của mình trước cảnh thu từ gần đến xa, từ hiện đến ẩn, tác giả đi vào tâm tư con người, từ con người ngoại giới đến con người bên trong. Tất cả đều nhằm biểu hiện nỗi buồn vừa man mác vừa thấm sâu, vừa mênh mông vừa tinh tế; trong cái thế chung của sự sống bên ngoài như nhạt phai, mất mát dần nhưng bên trong lại như chứa chất một sự vươn tới, một ước mong mơ hồ mà tha thiết.

Đã tạo thành sáo ngữ những lá vàng, hoa rụng, nhánh  khô gầy khi các nhà thơ động đến mùa thu xưa nay. Xuân Diệu cũng lặp lại, không có gì mới mẻ. Mói chăng là ở cách diễn đạt và cách diễn đạt này lại do cách cảm nhận không giống ai của tác giả.

Rặng liễu đứng chịu tang, tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng là mới; mùa thu tới với áo mơ phai dệt lá vàng cũng mới. Ngày xưa báo thu tới là lá ngô rụng vàng một chiếc: Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng tri thu(Ngô đồng rụng một lá, thiên hạ biết thu sang). Xuân Diệu không trở lại với hình ảnh đã thành công thức ấy. Nhà thơ cũng không báo thu sang mà cứ mở ra bằng cảnh buồn nơi rặng liễu và sau đó như sực tỉnh nhận ra: mùa thu đã tới đây và lặp lại mùa thu tớinhư một sự bất ngờ mà quan trọng cần báo cho mọi người hay. Mùa thu đến như một con người khoác áo kết bằng lá vàng nhưng nhuốm màu mơ phai nhạt. Mùa thu ấy đã thành con người và tất cả những gì của mùa thu đều sống kiếp người – thu. Liễu buồn đã đành, hoa cũng rụng cành, sắc đỏ càu nhàu với màu xanh, gió cũng run rẩy và nhánh khô gầytrơ xương mỏng manh.Phong cách học bảo đó là nhân hóa. Không đơn giản như vậy. Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu có “cuộc sống” như con người, như lòng người. Lòng thu, hồn thu cũng như chứa chất nỗi niềm gì bên trong mà biểu hiện ra bên ngoài thì toàn là tang, lệ, phai, vàng, úa, đỏ, rụng, rung, khô gầy, mỏng manh… Con người – thu ấy có chỗ nào trùng hợp với con người, tác giả không? Lòng tác giả và lòng thu có chỗ nào gần gũi không? Chưa đi ngay vào vấn đề này. Chỉ biết dùng cách nói như vậy về thu là kiểu riêng của nhà thơ, rất mới.

Sâu xa hơn và tinh vi hơn nhiều là sức cảm nhận của trái tim và trí tuệ nhà thơ. Đó là ở câu: Những luồng run rẩy rung rinh lá. Hoài Thanh nhận xét: “Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam chỉ Xuân Diệu mới để ý đến: Những luồng run rẩy rung rinh lá”…“. Chúng ta có thể nhớ tới chiếc lá rơi (Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo) của Nguyễn Khuyến, hoặc chiếc lá rơi mà Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng của Trần Đăng Khoa. Các câu thơ ấy đều tả lá chứ không tả gió, nhưng ai không thấy gió trong đó đều rất nhẹ. Đây không có gió hiện ra, chỉ có luồng run rẩy làm rung rinh lá.Lặp bốn phụ âm R là một phụ âm rung mà nghe chẳng thấy dao động mạnh mẽ gì cả, trái lại chỉ rất khẽ, khẽ rung rinh mà run rẩy cũng khẽ, cái rùng mình nhè nhẹ của gió se sẽ chuyển qua lá và lá rung rinh – ai biết lá rung rinh vì gió hay vì lạnh? Mà cái luồng run rẩy kia cũng do đâu? Gió hay lạnh? Có lẽ do cảm quan nhà thơ chỉ thấy run rẩy và rung rinh chứ không phân biệt đó là luồng gió hay luồng lạnh, bởi cả hai đều là của mùa thu. Nhưng sự ngập ngừng mơ hồ chút ít như thế đúng là chỉ hiện ra với độ tinh vi của cảm quan thơ nhanh nhạy nhất của tác giả.

Độ tinh vi ấy là một bằng chứng: lòng tác giả đã thấm sâu vào lòng thu, sự thâm nhập không dừng ở bên ngoài mà đã đi xuyên vào bên trong. Đi vào nhưng thực là để đi ra, nói ra được điều kín sâu nhất của lòng mình. Cảnh thu đó là hồn thu, hồn thu đó là hồn nhà thơ. Chưa rõ vì lẽ gì nhưng vấn đủ buồn, khóc, úa, rụng, run rẩy, khô gầy… Rất đau thương.

Từ liễu buồn, lá vàng, hoa rụng, sắc đỏ, lá xanh, nhánh khô gầy đã chuyển sang nàng trăng ngẩn ngơ, non xa nhạt sương mờ, bến đò vắng người sang, tầng không mây vẩn, chim chóc bay đi, khí trời u uấtvà thiếu nữ tựa cửa không rõ nghĩ gợi gì…

Cái cao đã thay vào cái thấp (trăngthay vườn), cái xa đổi cho cái gần (non xa đổi cho hoa vườn), cái hẹp cái nhỏ chuyển sang cái rộng lớn (rặng liễu, tóc buồn, đôi nhánh khô gầy, rung rinh lá chuyển sang non xa, sương mờ, từng không), Cái cụ thể nhòa thành cái mơ hồ, cái xác định tan trong cái vô định (chịu tang, buông lệ, rụng cành, sắc đỏ, màu xanh, run rẩy, rung rinh, khô gầy, mỏng manh là cụ thể, cố định, xác thực; còn ngẩn ngơ, nhạt sương mờ, luồn trong gió, chuyến đò vắng người sang, chim bay đi, hận chia li, buồn không nói, nghĩ ngợi gì đều là mơ hồ, vô định, không bến bờ, phương hướng). Trên kia đang là cảnh vật trong không gian, đây đã thêm thời gian: thỉnh thoảng, khởi sự, đã nghe, đã vắng… mà thời gian cũng mơ hồ, dù có bắt đầu (khởi sự), có đã qua (đã nghe, đã vắng), và lặp đi lặp lại (thỉnh thoảng).

Bao nhiêu sự biến chuyển ấy đưa tới hiệu lực gì? Gần hoá xa, thấp thành cao, hẹp trở nên rộng, nhỏ biến ra to, mơ hồ, vô định thay cho cụ thể, xác định… không gian đã nới rộng ra đến không còn biết đâu là biên giới, thời gian có thuỷ mà chẳng có chung. Tất cả đều là từ bên ngoài đi vào bên trong, không gian, thời gian đều là tâm trạng của cảnh vật và tâm trạng người làm thơ, trên cái thế chung là nhạt dần, phai đi, mơ hồ đi, nghiêng đổ, mất mát một cái gì mà chính mình không biết.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Ngẩn ngơ như vừa mất một cái gì, mong một cái gì mà không tới, lơ lơ, lửng lửng, chưa thật buồn mà không còn vui. Lại là tự ngẩn ngơ. Vậy không có nguyên nhân bên ngoài mà cơ sự là bên trong, tự mình làm cho mình ngẩn ngơ. Đó là “tâm trạng” nàng trăng. Còn đây là của núi: Non xa khởi sự nhạt sương mờ. Núi cũng chẳng còn xanh biếc bình thường. Núi đã nhạt phai trong sương mờ, trở thành lạnh lẽo bên ngoài, còn bên trong ai biêt tình núi ra sao? Mà đây mới là khởi sự, mới bắt đầu, còn kéo dài bao lâu, kéo dài tới đâu, ai hay được?  Non xa đã trở nên một khối bí mật không sao hiểu nổi. Còn gió?Còn chuyến đò? Thì đây: Đã nghe rét mướt luồn trong gió – Đã vắng người sang những chuyến đò. Lạnh rồi. Những luồng run rẩy trên kia đã hiện ra là gió rồi. Và gió lạnh. Trăng ngẩn ngơ chưa phải là lạnh. Non nhạt sương mờ cũng chưa hẳn lạnh. Bây giờ là cả bầu thu quét trong gió, mênh mông và luồn vào, len vào, âm thầm, lặng lẽ cái lạnh của dất trời, không để ai biết ai hay, trừ nhà thơ biết lắng nghe và đã nghe được, bắt được cái hồn ấy của gió, cái tâm trạng của gió. Chính cái bầu trời mênh mông gió lạnh ấy đã khiến cho con đò thưa chuyến và người sang đò cũng ngại ngần mà vắng sang. Tâm trạng sâu kín của gió đã chuyển sang tâm trạng của con đò: gió thì lạnh, đò thì vắng khách sang sông.

Đất trời thu đã đầy những ngẩn ngơ, bí mật, những lạnh luồn sâu, những vắng bóng người, như vậy thì làm gì chim chócchẳng bay đivà khí trời không u uất những mối hận chia li? Ai chia li? Liễu chịu tang ai? Lệ rời tóc và tóc buông lệ. Hoa chia tay với cành, màu xanhchia tay với lá, xương xóc đã thay thịt da. Trăng sáng trăng xa đã đi biệt. Non biếc cũng phai nhạt rồi. Gió đã trở lạnh. Người đông đã bỏ bến đò. Chim đi. Mà tất cả, nào ai biết vì lẽ gì, chỉ thấy u và uất. Đến con người. Sang đò là con người ngoài đời, đang đi, đang hoạt động. Còn thiếu nữ tựa cửa buồn không nói thì mới là con người suy tư, con người tâm trạng.

Thế là cả không gian và thời gian đều ăm ắp tâm trạng. Tâm trạng là một gam cảm giác và xúc cảm đi từ ngẩn ngơ đến chia li. Nhưng chẳng rõ nguyên nhân do đâu? Dường như chỉ tại mùa thu. Thu ngoại giới và thu trong lòng. Vậy ý tứ mà nhà thơ đặt vào hình ảnh: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói ở cuối bài thơ, cuối chuỗi tâm trạng này là gì? Nếu đúng đây là mùa thu Huế thì phải chăng vì màu mắt của người con gái Huế cũng đầy thu trong đó? Dù sao tả mùa thu mà không có bóng dáng con người thì sao đủ? Phải có con người và hơn nữa, tâm trạng con người. Mà cảm thương với thu thì gì bằng lòng thiếu nữ! Quả nhiên nhà thơ tính toán không lầm. Không những một cô mà nhiều cô đều cùng một điệu. Thì ra bao nỗi niềm thu ở liễu,ở hoa, ở cảnh,ở trăng,ở non,ở tầng không,ở khí trời,ở đò,ở chim… đều dồn lại hiện ra đủ hết ở các cô: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói – Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?Tới đây mới thấy tất cả hồn thu đã đi vào hồn người. Thiếu nữ buồn nhưng không nói, chỉ tự cửa nhìn xa, còn nghĩ ngợi gì chẳng ai hay biết. Cái im lặng thật kì diệu. Ngôn ngữ nghệ thuật có cái lại. Cần nói nhiều nhất, có khi đủ nhất, thấm nhất, người ta lại nhờ cái lặng câm. Cái im lặng của các cô lại nói năng nhiều biết bao! Tự cửa là để nhìn ra mà cũng để đón vào. Nhìn ra và đón vào thì biết bao cảnh vật trước mắt, cái gần cái xa, cái thấp cái cao, cái rộng cái hẹp, cái cụ thể cái mơ hồ, cái xác định cái vô định, cái bên trong cái bên ngoài, cái ngoại giới cái tâm tư… Tất cả đều úa phai, rơi rụng, khô gầy, ngẩn ngơ, nhạt mờ,lạnh vắng, chia li, mà chẳng biết duyên do gì, hầu như một thứ định mệnh. Nhận hết thảy vào lòng, các cô chỉ có buồn, chứ chẳng nói gì. Nói làm sao được? Bởi các cô tự dưng cũng thấy mình không khác gì trời đất, cũng chỉ thấy buồn mà nào có hiểu từ đâu!

Đó, cảnh thu và tình thu là như thế.

Thực ra, chìm sâu trong tâm trạng nhà thơ là một nỗi buồn mà biểu hiện là những ngẩn ngơ, những chia li,những úa tàn, rụng rơi, mất mát như trên đã phân tích. Nó là một tâm trạng hiện thực, nó có mặt và thấm sâu vào trong xương tuỷ. Cả thế hệ có chút học vấn, nhất là những ai mon men đến với văn chương, đều thấy nó ngự trong tâm hồn mình không biết tự bao giờ mà mình không hiểu nó từ đâu tới. Hoặc giả như người xưa đã nói: nó là mối sầu vạn cổlâu bền như loài người, và hễ tài hoa bao nhiêu thì càng bị nó bám chặt bấy nhiêu.

Căn nguyên của mối sầu vạn cổấy chắc không ngoài niềm thương đối với bao bất hạnh trong xã hội bóc lột. Kẻ có tâm huyết không ai dửng dưng nên sinh ra sầu. Đối với thế hệ Xuân Diệu, trên mối sầu ấy còn chồng lên một nỗi buồn khác mà những kẻ không gặp được Cách mạng đều không nhận thức ra, đó là nỗi buồn mất nước lẩn vào trong xương thịt mà mình không hay, không biết; chỉ thấy nó hiện lên trong tâm hồn mình và thấm vào cảnh vật thiên nhiên một cách bất ngờ khiến mình tưởng đó là nỗi buồn tự thân của thiên nhiên. Các cô thiếu nữ trong bài thơ chỉ buồn và ôm ấp mối buồn mà không nói ra được, và dù có nghĩ suy đi nữa cũng chưa dễ đã tìm ra nguyên nhân rất sâu của nó.

GS: Lê Trí Viễn

Cái Nhìn Nghệ Thuật Mới Trong Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới

Khi chưa đọc Đây mùa thu tới, tâm trí tôi cứ vẩn lên, cảm nghĩ rằng mùa thu chỉ thích hợp với những hồn thơ cổ điển, với những vần thơ lắng đọng. Còn Xuân Diệu, nhà thơ của mùa xuân, với sự phát triển cảm giác trực tiếp (Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi) thì không. Hoặc nếu thi sĩ có viết về mùa thu thì đấy cũng chỉ là hòa điệu với cung đàn xưa.

Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm Hây hây thục nữ mắt như huyền Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu

Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.

(Thu)

Quan hệ mới xuất hiện trước hết bởi sự đan cài bài thơ những từ ngữ mới, thậm chí dịch trực tiếp từ tiếng Tây sang, trong khi tiếng Việt không thiếu đồng nghĩa: hơn một = nhiều (hơn một loài hoa đã rụng cành), ít nhiều = một vài (ít nhiễu thiếu nữ buồn không nói). Sau đó là những cách nói mới mẻ, lạ lẫm như hoa rụng cành, những luồng run rẩy (luồng gió), sự nhạt sương mờ, đôi nhánh khô gầy (nhành cây). Người Việt xưa nay chỉ quen với gió lùa, gió luồn vào một cái gì đó. Còn Xuân Diệu, nhà thi sĩ – cách tân, thì lại nghe được rét mướt luồn trong gió. Luồn vào một thứ chuyên đi luồn, chẳng những nghe ngộ nghĩnh, tân kì, mà chộp đúng được cái thần thái lén lút của mùa đông đang xâm nhập trái phép vào lãnh địa của mùa thu. Những sáng tạo mới này, tuy thoạt đầu có làm cho thơ Xuân Diệu bị coi là một loại “ông Tây An Nam”, nhung đã giác quan hóa, cụ thể hóa được những chuyển đổi vô hình của thời tiết, tạo vật lúc thu sang và quan trọng hơn, bọc lộ một cái nhìn nghệ thuật mới của Xuân Diệu con người và nhà thơ.

Thơ cổ điển, mà tiêu biểu là ba bài Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm của Nguyễn Khuyến, nói về mùa thu như một khoảnh lặng giao thời giữa hạ và đông. Lúc này, sau những vật vã của nóng đã qua và lạnh sắp tới, tạo vật dường như thiếp đi trong sự ngưng nghỉ. Thơ Yên Đổ, bởi thế, tràn ngập không gian với một bầu trời xanh đầy ám ảnh (Thu vịnh – Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao; Thu điếu – Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt…). Thơ Xuân Diệu ngược lại, tràn ngập những vận động chuyển mùa. Những vận động ở hình thái qua độ thường mang dáng vẻ im lìm đã được “con mắt thời gian” của nhà thơ phắt hiện.

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Tạo vật mùa thu tất cả đang nằm ở trạng thái phai và rụng. Sự hao gầy bắt đầu từ màu sắc đến hình thể: rặng liễu đìu hiu đứng buông tóc buồn như hàng lệ nhỏ. Màu xanh bị lấn dần (rũa) bởi sắc đỏ héo úa, cành cây hè mập mạp nay trơ xương mỏng manh, dáng núi xa mới ngày nào còn như chạm khắc lên trời giờ đã nhòe sương nhạt khói… Rồi sau đó là sự rơi rụng, chia iìa: hoa rụng cành, chim bay đi, trời hận chia li, người đã vắng trên những chuyến đò ngang…

Thế ổn định mỏng manh của mùa thu – một chiếc cầu thanh mảnh như tơ nhện chăng giữa hai bờ dằn dữ – được Xuân Diệu gợi lên bằng đôi nhánh khô gầy, còn sự chông chênh của nó được nhà thơ biểu đạt bằng bốn phụ âm rung “r” liên tiếp nhau trong một câu thơ bảy chữ:

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Mùa thu, tóm lại là mảnh đất bị xâm lược từ cả hai phía. Mùa hè chưa “cắt cầu” (đang còn màu xanh, đang còn “Đây mùa thu tới”…) thì khuôn mặt mùa đông đã thấp thoáng phía xa:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò.

Sự ngắt nhịp 4-3 ở câu sau đã tạo ra một im lặng chứa đầy âm thanh tiếng ngân (dư thanh) của mùa thu và những tiếng gọi bên trong của con người. Đó cũng chính là sự im lặng hàm súc mà Ma-lac-mê (Mallarmé) đã nói: “Sáng tạo sự im lặng hàm sức trong một bài thơ cũng hay như cấu tạo một câu thơ”.

Đó là tiếng gọi của thời gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc: Đây mùa thu tới – mùa thu tới. Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại” chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định lượng không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Xuân Diệu trong toàn bộ sáng tác của anh mà Đây mùa thu tới là một trường hợp cụ thể.

Hôm nay trời nhẹ lên cao.

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. (Chiều)

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh người thiếu nữ (chứ không phải người thiếu phụ trong thơ cổ điển) tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Nàng có thể nghĩ ngợi? Như ở Lê-ô-na-dơ Vanh-xi, bức chân dung đã hoàn thành, nhưng nụ cười bí hiểm của La Giô-công-dơ thì như còn thách đố với người xem, mặc cho mỗi người lí giải theo cách hiểu của riêng mình. Nhìn xa, có thể là nhìn ra xa, nhìn mông lung, nhìn mà không thấy gì cả (cái nhìn vào nội tâm), cũng có thể là nhìn xa trông rộng với nghĩa là thấy trước, biết trước, lường trước tất cả. Và bên tai là tiếng gọi hối hả của thời gian Đây mùa thu tới. Người thiếu nữ, bình minh của mùa xuân, còn có thể nghĩ gì ngoài tình yêu…

Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Vội Vàng”

Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy. * Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ. 2. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi” – lập thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, xưng “ta” – đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm. * Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên – một ước muốn không thể:

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi

Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên. Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một một người tình rạo rực, trinh nguyên. Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời – gian – tuần – hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời – gian – tuyến – tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn. Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính “lạ hoá” về thời gian và không gian:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” (Correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư – hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị – hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi! Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ – hiện tại – tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là thời tươi và thời phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược qui bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây… dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của “độ phai tàn” (thời phai) và “thời tươi”:

Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.

Cho no nê thanh sắc của thời tươi.

Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó. Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống:

Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao gì nữa… Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây, phần luận giải của tuyên ngôn Vội vàng đã đủ đầy luận lí! * Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là Vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:

Ta muốn ôm:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ:“Ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi s! Câu thơ:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi

cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:

– Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say. Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!

1. Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp.Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị.cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ.2. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi” – lập thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, xưng “ta” – đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên – một ước muốn không thể:Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trongvừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một một người tình rạo rực, trinh nguyên.Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời – gian – tuần – hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời – gian – tuyến – tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính “lạ hoá” về thời gian và không gian:Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” () của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư – hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị – hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ – hiện tại – tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là thời tươi và thời phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược qui bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây… dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của “độ phai tàn” (thời phai) và “thời tươi”:Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống:Đến đây, phần luận giải của tuyên ngônđã đủ đầy luận lí!Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy làtrong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ:“Ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi s!Câu thơ:cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là,chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Đây Mùa Thu Tới” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!