Xu Hướng 6/2023 # Bài Thơ Tây Tiến (Quang Dũng) – Nỗi Nhớ Nhung Đồng Đội Da Diết Và Sự Hi Sinh Lớn Lao # Top 6 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bài Thơ Tây Tiến (Quang Dũng) – Nỗi Nhớ Nhung Đồng Đội Da Diết Và Sự Hi Sinh Lớn Lao # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Bài Thơ Tây Tiến (Quang Dũng) – Nỗi Nhớ Nhung Đồng Đội Da Diết Và Sự Hi Sinh Lớn Lao được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nội Dung

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Phù Lưu Chanh, 1948

Hiểu rõ về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến giúp các em học sinh có thể hiểu rõ hơn hoàn cảnh, thời gian và những sự vật, con người được miêu tả trong bài thơ.

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Quang Dũng gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội trưởng.

Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu.

Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng.

Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến” in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”.

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng được chia thành 4 phần:

Phần 1: gồm 14 câu thơ đầu: Nội dung của đoạn này miêu tả cuộc hành quân của các chiến sĩ và khung cảnh núi rừng Tây Bắc

Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo: nêu lên những kỉ niệm đẹp của tác giả đối với đồng đội ở chiến khu

Phần 3: 7 câu thơ tiếp theo: đoạn thơ nói về nỗi nhớ da diết của tác giả với đồng đội với chiến khu.

Phần cuối: phần còn lại: sự gắn bó với đoàn quân tây tiến của tác giả.

Bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng nổi bật trong nội dung tư tưởng cũng như tính nghệ thuận của tác phẩm chính là cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến chính là nỗi nhớ, là cảm hứng sáng tác nên tác phẩm. Bên cạnh đó, nó còn được thể hiện qua tô đậm cái phi thường và ấn tượng mạnh mẽ về những người anh hùng.

Cảm hứng bi tráng trong Tây Tiến được thể hiện những thủ pháp tài tình được Quang Dũng sử dụng. Đó là thủ pháp cường điệu hóa và đối lập hóa được dùng rộng rãi trong toàn bài. Cảm hứng bi tráng còn là hình ảnh về thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, là những cuộc hành quân gian khổ của những người lính…

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.

Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Bài thơ gồm 4 đoạn, mỗi đoạn mang một cảm xúc, nội dung khác nhau, nhưng giữa các đoạn vẫn có sự liên kết mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ Tây Tiến được viết trong hoàn cảnh nỗi nhớ đa diết của nhà thơ đối với đồng đội, đốiv ới đoàn quân tây tiến. Những nỗi nhớ ấy, gắn liền với khung cảnh thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc. Tây Tiến – Quang Dũng được viết bằng hồi ức, trong hồi ức ấy chất chứa nỗi nhớ đồng đội, những kỉ niệm, hình ảnh đồng đội… không thể nào quyên.

Mở đầu bài thơ là sự thể hiện nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:

Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nỗi nhớ đồng đội cũ, đơn vị cũ không thể dấu nổi, nhà thơ đành thốt lên thành lời. Hai chữ “chơi vơi” là sự thể hiện nỗi nhớ, đến mòn mỏi, đó cũng chính là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của các câu thơ tiếp theo. Hình ảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ tiếp theo:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Với 4 cầu thơ, nhưng tác giả đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng về sự hùng vĩ nhưng không kém phần hiểm trở, heo hút của núi rừng Tây bắc. Tác giả sử dụng những từ láy “khúc khủy”, “Heo hút” “Cồn mây mang đầy giá trị tạo hình càng tô đậm nên sự đắc địa hiểm trở của núi rừng.

“Súng ngửi trời” một hình ảnh nhân hóa được tác giả sử dụng vô cùng táo bạo tạo nên sự trùng điệp của núi rừng. Núi cao tưởng chừng có thể chạm đến mây, mũi súng chạm đến đỉnh trời. Câu thơ thứ ba, Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ có sự phối hợp nhịp nhàng với nhau tạo nên một âm hưởng mạch thơ vô cùng đặc biệt. Ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc nhưng sang đến câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại, làm xoa dịu đi tâm hồn của người đọc.

Tiếp đến, vẻ hoang vu, dữ đội và đầy ghê rợn của núi rừng miền Tây xuất hiện dưới ngòi bút của Quag Dũng trở nên bi hùng hơn. Những hình ảnh ấy, không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Qua ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng, cảnh núi rừng miề tây hiện lên với đủ những cung bậc, cảm xúc. Bên cạnh đó là những tên những địa điểm xuất hiện: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… chỉ nghe đến những địa điểm này cũng một phần nào hiểu được sự xa xôi hiểm trở của núi rừng nơi đây.

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hai câu thơ là sự thể hiện cảnh tưởng thật đầm ấm, sau bao nhiêu gian khổ vượt qua biết bao núi đèo, hiểm trở, những người lính của đoàn quân Tây Tiến được tạm nghỉ chân, tại một bản làng nào đó là được quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Hương thơm của nồi nếp xôi ở Mai Châu làm xua tan đi vẻ mệt mỏi, cực nhọc trên gương mặt người lính.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của núi rừng miền Tây. Núi rừng miền tây xuất hiện ở đoạn thơ thứ hai này khiến cho người đọc không khỏi cảm thấy bất ngờ. Đó chính là vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

Phải chăng hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh vật ấy, những con người ấy qua lời thơ của Quang Dũng càng trở nên lung linh hơn, huyền ảo và có hồn hơn

Ở đoạn thơ thứ hai là sự miêu tả cảnh đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

Doành trại bừng lên hội đuốc hoa. Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,vừa mê say, vui sướng. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, hình những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ làm cho biết bao chàng lính si mê.

Những câu thơ tiếp miêu tả cảnh sông nước miền Tây mênh mang và mờ ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc.

Với ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không gian thiên nhiên và cảnh phật trở nên có hồn hơn. Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.

Đọc đoạn thơ này, tác giả như đưa ta như lạc vào thế giới của cảnh đẹp, thế giới của cõi mơ.  Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến.

Trên cái nền của sự hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của cảnh vật miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, là sự xuất hiện những hình ảnh người lính Tây Tiến đầy chất bi tráng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xành màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Những câu thơ miêu tả gương mặt chung của cả đoàn quân, kết hợp với cái b và cái hùng tạo nên bức tượng đài người lính Tây Tiến vô cùng bi tráng.

Nhà thơ Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.

Những cái đầu lính không mọc tóc do hậy quả của căn bệnh sốt rét, chứa đựng sự nghiệt ngã của một thời kì kháng chiến. Hơn nữa để thuận tiện cho việc hành quân, kháng chiến, những người lính Tây Tiến, nhiều người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng.

Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng,vô cùng bi tráng. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương.

Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hàn

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba  trong bài thơ Tây Tiến là sự thiể hiện  sự trang trọng, tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thắm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Những người lính Tây Tiến vì nghĩa vụ cao cả, đi không hẹn ước, sẵn sàng hi sinh tính mạng, tuổi thanh xuân của mình để mang đến độc lập và hòa bình cho đất nước. Ở khổ thơ cuối, thành công của Quang Dũng là đã xây dựng lên bức tượng đài bất hủ của người lính bằng thơ. Giờ đây khi lên tây bắc, những kỉ niệm đẹp về đồng đội, chiến trường xưa lại ùa về.

Bài thơ Tây Tiến qua ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung vô hạn của các đồng đội, chiến trường xưa. Tây Tiến – một bài thơ kháng chiến bất hủ. Thể hiện rõ lý tưởng, sự hi sinh cao cả của người lính Tây Tiến là công lao vô cùng to lớn đối với dân tộc ta, đất nước ta. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi! 

Cảm Nhận Nỗi Nhớ Tây Tiến Của Người Lính Qua 14 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Cảm nhận nỗi nhớ Tây Tiến của người lính qua 14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

Mở bài:

Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ là kí ức miên man của nhà thơ về miền tây Tiến xa xôi, nơi ông đã từng chiến đấu, từng trải qua những tháng ngày gian khổ, những kỉ niệm ấm lòng cùng đồng đội, đồng chí. Hình ảnh người lính Tây Tiến thử ấy được khắc họa đậm nét qua 14 câu thơ đầu bài thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. 

Thân bài:

Nỗi nhớ của cựu chiến binh Tây Tiến hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua đó, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến. Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của cả bài thơ, đó là nỗi tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm tháng quá khứ không thể nào quên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 với sự hiện diện của cả miền Tây và trung đoàn Tây Tiến: “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!”

Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt Lào thuộc các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa. Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây; sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa sĩ tử, sông Mã đựng đầy kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa.

Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp điệu 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngưng lặng để nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi sông Mã xa rồi, rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi ấy không dừng lại mà như được ngân nga tiếp nối trong những vần ơi của từ láy “chơi vơi”. Phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng… Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt trào dâng trong câu thơ tiếp :

“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Từ “nhớ” lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, miên man, ám ảnh, không thể nguôi ngoai… Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “ nhớ về rừng núi” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…, những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ; và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây, nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất. Vế sau câu thơ dành miêu tả sắc thái của nỗi nhớ.

“Nhớ chơi vơi” là cách nói mới mẻ của nhà thơ. Dường như nỗi nhớ ấy cứ mênh mang, tràn ngập trong tâm hồn, trong không gian, thời gian bất tận, lúc nào cũng nhớ. Nỗi nhớ thật khó định hình bởi những tháng ngày ở nơi rừng núi mờ sương vừa khốc liệt vừa hết sức yêu thương. Chơi vơi là từ láy vần với 2 thanh không, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, là một từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây; hơn nữa, từ láy chơi vơi còn gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô tình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, khôn nguôi…

Toàn bộ đoạn thơ sau đó là nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua những nét vẻ tài hoa vừa chân thực vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ thơ mộng và xiết bao kì thú. Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức Quang Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, và đó hình như cũng không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ thương:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Bút pháp hiện thực trong câu trên đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây qua hình ảnh một đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ lấp – một động từ có sức gợi tả màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả gian nan.

Tới câu thơ sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương thành đêm hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc con đường hành quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc… Còn có thể hiểu hoa về trong đêm hơi là hương hoa rừng lan tỏa, phảng phất theo bước chân chiến sĩ. Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ không chỉ làm đậm thêm sắc hư ảo của màn sương rừng, sự huyền hoặc của hương hoa mà còn như tái hiện trạng thái mơ mộng bay bổng trong tâm hồn chiến sĩ. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Đọc đoạn thơ tả dốc núi miền Tây của thơ Quang Dũng, có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục trong thơ Lí Bạch xưa:

Thục đạo nan! Thục đạo nan Nan ư hướng thiên thanh

(Đường lên xứ Thục khó thay! Khó giống như lên trời xanh!)

Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”

Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ 7 chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở hiện hữu ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ dốc điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc; cũng phần nào gợi ra sự nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác đã đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh.

Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu…thăm thẳm”. Từ láy khúc khuỷu miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ; còn từ láy thăm thẳm lại gợi độ cao hun hút; độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn nhưng không cùng. Con đường lên miền Tây quả là Khó như lên trời xanh! Dốc núi miền Tây được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót:

“Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.”

Từ láy heo hút vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng, được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai tới từ Thủ đô hoa lệ. Cồn mây là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc, từ đó, câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mức cao đường như lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi, mây mờ mịt, trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu.

Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây. Địa hình heo hút, hiểm trở làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính trên đường hành quân; nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”, Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường mọi gian lao, vất vả.

Có nhà thơ còn cho rằng hình ảnh súng ngửi trời là “trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy, có con người” – và bởi nói như ca dao thời kháng chiến: Đèo cao thì mặc đèo cao – Ta trèo lên đỉnh, ta cao hơn đèo! Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao! Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp ngữ ngàn thước là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ ngàn thước và tính chất tương phản của các động từ lên – xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia, vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.

Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhưng đều được khắc họa đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải nghiệm của chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ coi thường mọi gian truân vất vả, những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.

Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng; cùng với rất nhiều âm tiết mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông dàn trải, nhạt nhòa trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Hình ảnh mưa xa khơi có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng mênh mang, xa vời hơn… Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo…

Đại từ thái phiếm chỉ “nhà ai” khiến những ngôi nhà trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người; cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng nhà mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư. Để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến lòng người xa quê.

Núi rừng miền Tây và cuộc sống con người Tây Bắc còn được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng, hết sức tài hoa của Quang Dũng ở những câu thơ sau:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Thác gầm thét và cọp trêu người là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng thác, thét mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng “Hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp.

Có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong câu dưới như lại mô phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. Chiều chiều và đêm đêm là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng.

Sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng, miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng chiều chiều và đêm đêm cũng là những thời gian xuất hiện trong chặng đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, hai câu thơ miêu tả những ấn tượng về miền Tây chỉ càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội vắng bóng con người, họ đã in dấu chân mình trên những vùng đất tưởng chỉ là vương quốc riêng của mây trời heo hút, của thiên nhiên bí ẩn thâm u, họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm.

In đậm trong tâm trí nhà thơ là kí ức về người lính Tây Tiến trên đường hành quân. Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Từ láy dãi dầu đã thể hiện tất cả những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương gió… Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là một câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội.

Tuy nhiên, có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân, nhưng súng mũ vẫn bên mình – như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoát lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong cụm từ không bước nữa và bỏ quên đời, Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàn của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng.

Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn, qua đó, nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ kiên cường sẵn sàng đương đầu với tất cả những thử thách gian truân.

Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu…, miền Tây còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp hương, nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm xếp xôi”

Hai câu thơ là những cụm từ đã được xóa đi những yếu tố kết nối, trở thành một tập hợp từ những ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác…say người. Mở đầu bằng cụm từ cảm thán Nhớ ôi…, câu thơ bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về bản làng Mai Châu, về những mẹ, những chị những em… trong mùa lúa chín.

Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những tiếng chân thú dữ rình rập đầy đe dọa, phút rừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp ấm áp, mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh Tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sĩ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong cuộc đời người lính chiến. Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi gợi ra nhiều cách hiểu.

Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các em – những cô gái Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn từ hai chữ mùa em. Người ta thường nói mùa hoa, mùa quả… đó là thời điểm căng tràn sung mãn, đầy sắp sắc hương của hoa trái… Quang Dũng tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình trong tập hợp từ mới mẻ mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa của tình quân dân sâu nặng, Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng.

Kết bài:

Qua 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa thành công nỗi nhớ Tây Tiến. Tây Tiến hùng vĩ, hoang vu với những cuộc hành quân dài đăng đẳng. Người lính Tây Tiến dũng mãnh, kiên trung, bất khuất. Con người Tây Tiến thuần hậu, chất phác. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh của anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh con mắt, rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc… Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngây ngất, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.

Có Người Nói, Cảm Hứng Chủ Đạo Của Bài Thơ Tây Tiến Là Nỗi Nhớ Da Diết Của Quang Dũng Về Tây Tiến. Hãy Bình Giảng Đoạn Thơ Sau Để Làm Sáng Tỏ Ý Kiến Trên: Sông Mã Xa Rồi Tây Tiến Ơi!… Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi

– Đề yêu cầu bình giảng một đoạn thơ theo hướng chỉ định: nỗi nhớ về Tây Tiến của Quang Dũng. Vì thế, đây chính là giới hạn về kiểu bài làm văn. Thể loại vẫn là bình giảng thơ trữ tình.

– Mặc dù đề chỉ yêu cầu bình giảng phần đầu của bài thơ Tây Tiến, nhưng người viết phải hiểu rõ toàn bài. Qua việc thể hiện cảm thụ chỉ ở phần đầu của bài thơ nhưng người viết hướng cho độc giả biết nỗi nhớ chính là cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ.

Bài làm

Lâu nay, nhiều người khi tiếp xúc với Tây Tiến của Quang Dũng thường bị mê hoặc bởi một âm điệu lạ lùng.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

….

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.,

Phải chăng thế giới ấy đã chiếm một vị trí riêng có, duy nhất trong lòng nhà thơ khiến người Tây Tiến – Quang Dũng không thể nào quên?

Tây Tiến mở đầu bằng một tiếng kêu, tiếng kêu có phần thảng thốt, buộc miệng mà kêu:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Liền sau đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tràn về, bất chợt và ào ạt, đến nỗi không còn hiện tại. Con người chìm đắm trong quá khứ, sống với thời đã qua. Và thơ, đã hiện tại hóa cái thời đã mất ấy, biến nó hiển hiện trước mặt. Khả năng hiện thực hóa của thơ mạnh đến nỗi nếu ngắt đi hai câu đầu và hai câu cuối của đoạn thứ nhất, người ta nghĩ mình đang sống với Tây Tiến:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhưng thực ra, đó là hiện thực qua nỗi nhớ, hiện tại trong hoài niệm.

Trong tình cảm của con người, buồn, nhớ là những tâm trạng phức tạp, nhiều cung bậc nhất. Khi nhớ, người ta thường rơi vào trạng thái đặc biệt khôn tả, nhiều khi không rõ ràng, mất cả định hướng. Trong bài thơ Việt Bắc, một loại trữ tình tiêu biểu của Tố Hữu và của cả nền thơ kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn có những câu “lạ kỳ”:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.

hoặc:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương…

Song, đấy là những câu thơ diễn tả rất đúng tâm trạng con người.

Ở Quang Dũng, đó là nỗi “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ khiến lòng người hóa thành chông chênh, bồng bềnh, lơ lửng. Khi đã “chơi vơi” thì khoảng cách không gian như xích lại gần, thời gian đồng hiện. Vì thế, trong một đoạn thơ không dài (14 câu) nhưng xuất hiện hàng loạt địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu và có lẽ còn nhiều địa điểm vô danh khác: dốc khúc khuỷu; dốc thăm thẳm; heo hút cồn mây; ngàn thước lên cao; ngàn thước xuống; gục lên súng mũ… Nếu kể các địa danh ở những khổ thơ còn lại, Tây Tiến rất có thể là bài thơ có nhiều địa danh vào bậc nhất. Chắc chắn, các địa danh, địa điểm ấy phải ở rất xa nhau. Các sự kiện (xảy ra trong từng thời gian) cũng ào ạt xuất hiện: sương lấp; hoa về; mưa xa khơi; thác gầm thét; cọp trêu người; cơm lên khói… Lẽ dĩ nhiên, trong thực tế, các sự kiện không xẩy ra cùng lúc. Nhưng trong nỗi nhớ Tây Tiến, nó ùa về, đồng hiện và tràn ngập hồn người. Và, thật kỳ diệu, quá khứ không mất đi mà nguyên vẹn cả hình hài, vóc dáng. Với Quang Dũng, một người Tây Tiến, đã “sống” với Tây Tiến lần thứ mấy. Còn với những ai, không phải người Tây Tiến, qua thơ, Tây Tiến như đang hiển hiện. Tố Hữu từng nói, văn học giúp con người sống cuộc đời khác nhau là như vậy!

Ở trên, mới chỉ nói đến cái thế, cái uy của nỗi nhớ Tây Tiến. Bây giờ, nói rõ hơn về hiện thực mà nỗi nhớ ấy đã kéo về.

Đầu tiên là cảnh vật, thiên nhiên vùng Tây Bắc mà ngay từ đầu tác giả đã định danh: “rừng núi”, tức là một không gian rộng lớn, ngút ngàn. Ở đó, có sương khói lấp cả bóng người, có đèo dốc khúc khuỷu, có vực sâu thăm thẳm, có cồn mây heo hút, có gió mưa mịt mù… Rõ ràng là một địa hình phức tạp với khí hậu nghiệt ngã, đúng là nơi chốn người xưa thường nói: ma thiêng nước độc! Nhưng với nhiều tâm hồn lãng mạn, dũng mãnh, ưa khám phá, thiên nhiên ấy có lẽ khá kỳ vĩ, thậm chí đẹp nữa. Vả lại, vùng đất ấy còn có “hoa về trong đêm hơi”, có bóng nhà thấp thoáng “mưa xa khơi”, có mùi thơm ấm nồng của “nếp xôi”. Cảnh vật thiên nhiên kỳ vĩ, mới lạ nhưng hấp dẫn hồn người. Nếu bài thơ dừng lại ở câu Mai Châu mùa em thơm nếp xôi hoặc tiếp tục phát triển theo hướng đó thì bảo đây là bài thơ “thơ đướng rừng” cũng chẳng sai. Có lần, Quang Dũng tâm sự, hồi còn đi học, nhà thơ rất say mê Thơ mới. Trong số các nhà Thơ mới, Thế Lữ là người ông thích hơn cả, “đặc biệt bài thơ Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Nhà thơ còn nói: Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và sau vô tình tôi mới nhận ra…

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Cái nhà của khổ thơ là nói về địa hình trắc trở, không một ngôn từ nào chỉ người (trừ đại từ ai chỉ nơi xa) nhưng bóng dáng con người vẫn hiện ra. Hơn nữa, đó là cuộc hành quân khó khăn, đầy thử thách. Đọc đoạn thơ, người ta không chỉ hình dung từng bước đi khó khăn mà cả hơi thở gấp gáp, mệt mỏi lẫn thế đứng chênh vênh của người vượt dốc. Xưa nay, nhiều người khi phân tích đã chỉ ra rất đúng sự khó khăn của địa hình đối với người lính Tây Tiến trên đường hành quân: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Ở câu thơ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống có sự cân đối giữa chiều cao và chiều sâu: lên hay xuống đều ghê gớm cả! Song, cấu trúc của ba câu thơ này còn nhiều đặc biệt hơn nữa, không hẳn là sự đối xứng mà là sự gia tăng, chất chồng:

Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây / súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống.

Đối với người lính Tây Tiến, đường hành quân dường như gian nan cứ dài lên mãi và con người lại phải vượt lên, cứ phải đi tới. Điều lạ là họ không bị địa hình quái ác ấy khuất phục. Phút giây ngắm nhìn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi càng chứng tỏ đó là những người băng rừng vượt dốc, nhưng không bị gian nan đè chặt tâm hồn, con đường không biến thành nỗi sợ hãi. Bởi vậy, đoạn thơ kế tiếp nêu lên những “thế lực” khác vây lấy người lính Tây Tiến mà chẳng ai sợ hãi:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.

Có lẽ, nỗi sợ hãi được thay thế bằng sự tò mò, khám phá. Nên nhớ, những thập niên 30, 40 của thế kỉ trước, nhiều thanh thiếu niên Việt Nam rất thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích rày đây mai đó để thoát khỏi cuộc sống chật hẹp, nhàm chán. Trước năm 1945, Quang Dũng đã là người như thế. Còn nhiều anh bộ đội Tây Tiến vốn là các chàng trai của đất Hà thành. Ở môi trường mới, hoàn cảnh mới những nét tính cách kia vẫn còn chăng? Và một khi được khám phá cái mới lạ, dù nguy hiểm, con người vẫn thích thú hơn là sợ hãi.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Câu thơ diễn tả khung cảnh thật thanh bình, dường như không hề có chiến tranh. Đó là những khoảnh khắc có thật, dù ít ỏi đi chăng nữa, trên con đường hành quân khắc nghiệt của đoàn quân Tây Tiến. Thời gian càng lùi xa, càng phủ lên làn khói cơm chiều ấy vẻ đẹp của sự bình yên và thân thuộc, càng gây thêm mùi nhớ của hương vị nếp xôi thơm nồng. Câu thơ trên với ba vần trắc (nhớ, Tiến, khói) như chạm khắc làn khói cơm chiều vào bầu trời ký ức. Câu thơ thứ hai hầu hết là vần bằng (chỉ có một vần trắc: nếp) lại đưa đẩy, khuếch tán cái vị ngọt ngào ấy vào sâu tâm hồn con người.

Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cũng có một từ đặc biệt: mùa em. Khi tiếp xúc với Tây Tiến, ai cũng thừa nhận chính từ ấy đã làm cho câu thơ trở nên lạ lùng và… khó hiểu! Chắc là trước Quang Dũng chưa ai sử dụng mỹ từ đó. Điều mà mọi người đều thừa nhận là khi đã trở thành anh Vệ quốc quân, nhà thơ của chúng ta vẫn là chàng trai hào hoa và… lãng mạn. Ở bài thơ viết năm 1949, sau Tây Tiến một năm, Đôi mắt người Sơn Tây, một bài thơ nói về những mất mát trong chiến tranh còn thảm khốc hơn nhiều, Quang Dũng vẫn còn có những hình ảnh và ngôn từ sang trọng, không kém phần mĩ lệ:

Vầng trán em mang trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương…

Chiến tranh không làm mất đi nét hào hoa và lãng mạn ở Quang Dũng. Có lẽ, ở nhà thơ này còn có một thước đo riêng. Đó là thước đo của cái Đẹp và từ phía Đẹp. Thiên nhiên, thời gian cũng được nhà thơ đo bằng thước đo ấy. Người đời đã có mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Quang Dũng, với Tây Tiến, có thêm ít nhất một mùa nữa. Mùa ấy có chiều kích ở đôi mắt và tâm hồn của chính thi nhân.

Sông Mã xa rồi… thơm nếp xôi là một trường đoạn trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến.

Nỗi nhớ ấy làm hiện lên một vùng đất với thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa khắc nghiệt, vừa đầy thơ mộng vừa hết sức nguy nan. Nhưng xao động lòng người vẫn là chân dung của những người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng và hào hoa. Cho dù thời gian có biến tất cả trở thành quá khứ nhưng Tây Bắc và người lính Tây Tiến qua thơ Quang Dũng vẫn còn đọng lại mãi.

Nỗi Nhớ Cảnh Và Người Tây Bắc Trong Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Nỗi nhớ cảnh và người Tây Bắc trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

Bài làm

1. Đặt vấn đề:

Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến. Ở đó, có những kỉ niệm hiện lên đẹp đẽ, lung linh hơn bao giờ hết:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

2. Giải quyết vấn đề:

Nếu khổ thơ thứ nhất là nỗi nhớ chơi vơi về mảnh đất miền Tây thì đến đây, nỗi nhớ lắng đọng trong đêm hội đuốc hoa đậm đà tình nghĩa và trong kí ức về con người Châu Mộc. Đọc Tây Tiến, tôi thấy toàn bài thơ là tiếng nói bổi hồi, tha thiết trong nỗi nhớ của tâm hồn. Nỗi nhớ chơi vơi, dàn trải vô định. Nỗi nhớ như từng đợt sóng, khi ào ạt. khi lặng lẽ xô vào lòng người: nhớ từ cảnh thiên nhiên hùng vĩ với dốc cao, vực sâu, thác ngàn dữ dội, nhớ đến cảnh thiên nhiên mĩ lệ, trữ tình. Và ở khổ thơ này, nỗi nhớ của Quang Dũng đã in đậm trong đêm hội đuốc hoa đậm đà tình nghĩa cùng vẻ đẹp của những người dân nơi đây.

Mở đầu đoạn thơ là những kí ức của Quang Dũng về đêm lien hoan lửa trại đậm đà tình nghĩa:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Giữa những năm tháng gian nan của cuộc kháng chiến, những đêm lien hoan lửa trại giữa người lính và đồng bào Tây Bắc diễn ra đơn sơ nhưng đậm nghĩa, đậm tình. Thế nhưng với những người lính đang từng giây từng phút đối mặt với gian nan, thậm chí cả mất mát, hy sinh thì những đêm đơn sơ ấy lại trở thành buổi dạ tiệc huy hoàng “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Doanh trại bừng lên, cả núi rừng hoang vu, âm u bỗng chợt bừng sáng, tưởng như có hàng ngàn, hàng vạn ngọn đuốc đang bao phủ núi rừng. Cảnh vật bừng tỉnh, núi rừng bừng tỉnh bởi lung linh ánh sáng, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn, tiếng hát, của tiếng nói, tiếng cười. Trong câu thơ, Quang Dũng sử dụng một từ cổ để diễn tả không khí của đêm trại – đuốc hoa. Đây là hình ảnh thường để chỉ ngọn nến được thắp lên trong phòng cưới đêm tân hôn, như Nguyễn Du xưa kia từng viết “Đuốc hoa chỉ thẹn với chàng mai xưa”. Hình ảnh xuất hiện trong câu thơ của Quang Dũng đã tạo nên màu sắc vừa trẻ trung, vừa hiện đại, vừa lãng mạn, vừa cổ kính, thiêng liêng, ấm áp nghĩa tình keo sơn gắn bó. Trên nền ánh sáng lung linh, rực rỡ, nổi bật lên dáng vẻ uyển chuyển, mềm mại của nàng sơn nữ “Kìa em xiêm áo tư bao giờ”. Ẩn sau những từ ngữ:kìa em, xiêm áo tự bao giờ là ánh mắt ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui sướng của những chàng lính trẻ. Họ say sưa, ngây ngất chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người thiếu nữ miền Tây trong trang phục lộng lẫy, trong bước đi uyển chuyển của những điệu múa làm say lòng người. Quang Dũng đã khéo miêu tả nét đẹp riêng của những nàng tiên nữ nơi núi rừng này. Những từ ngữ ấn tượng giàu sức gợi: “xiêm áo, man điệu” toát lên hương vị nơi xứ lạ, mang cái hồn riêng của miền sơn cước. Đối với những chàng trai của mảnh đất Hà Thành, đó là vẻ đẹp có sức quyến rũ kì lạ. Trong không khí tưng bừng náo nhiệt, trước vẻ đẹp huyền bí của người thiếu nữ Tây Bắc, tâm hồn người lính Tây Tiến dạt dào bao cảm xúc lãng mạn “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Các anh thả hồn mình theo tiếng nhạc. Lòng người xây bao mộng ước về ngày chiến thắng, mơ về ngày mai tươi sáng, mơ về những phút giây được cùng đồng bào Viên Chăn nắm tay vui múa trong ngày thắng lợi. Vì thế, dòng thơ được thi sĩ sử dụng thanh bằng, tựa như âm điệu xao suyến, âm vang. Bốn câu thơ đem lại cho lòng người ấn tượng khó phai, không chỉ bằng tình thơ lãng mạn mà còn bằng cách dùng từ rất duyên dáng của Quang Dũng: “đuốc hoa, xiêm áo, man điệu, e ấp”. Tất cả tạo cho thơ Quang Dũng dấu ấn của một phong cách riêng: hào hoa, lãng mạn, tinh tế và chân thực vô cùng.

Bên cạnh kỉ niệm về đêm liên hoan đậm đà tình nghĩa, ấn tượng để lại sâu sắc trong lòng Quang Dũng còn là cảnh song nước miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Trong suốt bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng gửi hồn mình vào từng mảnh đất, nơi đoàn quân đã đi qua. Mỗi địa danh mang một dáng vẻ, một nét riêng in sâu trong kí ức của nhà thơ. Nhớ từ dòng sông Mã, nhớ đến vùng đất Sài Khao, nhớ đến vùng Mường Lát ngạt ngào hoa rừng, nhớ từ thanh âm cọp true người trên mảnh đất Mường Hịch nhớ đến cơn mưa rừng giăng giăng trên lưng núi Pha Luông. Mỗi mảnh đất là một kỉ niệm, một dấu ấn khó quên. Để rồi trong đoạn thơ này, hồn thơ Quang Dũng lắng chìm trong vùng quê Châu Mộc vào một buổi chiều sương – gợi nên chất thơ riêng của miền rừng núi. Khi chiều buông xuống, cả đất trời chìm trong màn sương khói mờ ảo, lãng đãng. Màn sương giăng bồng bềnh trong không gian, bao trùm mọi cảnh vật. Giữa khung cảnh ấy, Quang Dũng đặc tả vẻ đẹp của dòng sông giữa chiều sương ” Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Người lính bắt gặp cái thần của cảnh nơi rừng biên giới là ở bạt ngàn hoa lau trắng. Những bông lau phớt phơ trong chiều sương ẩn trong tất cả sự hoang sơ, tính lặng và yên ả của cảnh sắc nơi đây. “Cảnh bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “Cảnh hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Lau biên giới không chỉ xôn xao trong nỗi niềm thơ Quang Dũng mà sắc trắng tinh khôi, mềm mại đó từng rung động biết bao trái tim người thi sĩ “Ai lên biên giới theo lòng ta theo với / Thăm ngàn lau chỉ đứng có một mình / Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi / Suốt một đời cùng với gió giao tranh” (Lau biên giới – Chế Lan Viên). Có điều, trong câu thơ của mình, Quang Dũng không dùng từ ngàn lau, bãi lau mà là “hồn lau”. Nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp của cảnh không chỉ bằng trực quan của mình mà bằng cả thế giới tâm linh để rồi nắm bắt được cả cái hồn của thiên nhiên sông núi phảng phất trong buổi chiều sương. Cách diễn đạt đem đến cho không gian thơ một ấn tượng mơ hồ, nhạt nhòa, vừa gây cảm giác lâng lâng bềnh bồng như chính tâm hồn con người chơi vơi theo từng cảnh vật. Đồng thời chỉ với từ “hồn lau”, nhà thơ đã làm sống dậy vẻ đẹp thiêng liêng của sông nước nơi này. Hồn lau – hồn của cảnh hay cũng gợi lên hồn người cảm giác bang khuâng, nao nao buồn. Dù cho cuộc chiến có nhiều gian khổ, dù hằng ngày phải cận kề với những hy sinh nhưng chẳng thể khiến tâm hồn người lính trở nên chai sạn. Các anh vẫn xôn xao cảm xúc trước một buổi chiều sương, vẫn rung động tâm hồn trước vẻ đẹp hoang sơ của lau biên giới, vẫn nôn nao cảm xúc trước vẻ đẹp của một cành hoa bé nhỏ trên dòng sông. Tất cả làm nên vẻ đẹp lãng mạn, tinh tế trong tâm hồn người lính.

Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng và hoang sơ làm nền cho sự xuất hiện của con người Tây Bắc “Có nhớ dáng người trên độc mộc / Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Quả là minh chứng về bút pháp thi trung hữu họa! Hai dòng thơ tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Hình ảnh thơ từng gợi nhiều hướng cảm nhận khác nhau. Song có lẽ cảm xúc mà Quang Dũng muốn tô đậm nhất vẫn là vẻ đẹp của con người Tây Bắc và nét đẹp trong tâm hồn của người lính Tây Tiến. Dưới con mắt của các anh, dòng sông hiển hiện trong sự dữ dằn của mùa nước lũ. Cái dữ dội, cái âm thanh gầm gào, cuồn cuộn như chất chứa tất cả vẻ khắc nghiệt của thiên nhiên nơi này. Trên dòng nước cuồn cuộn trôi, hình ảnh con người nổi bật trên chiếc thuyền độc mộc giữa mênh mang sông nước. “Có nhớ dáng người trên độc mộc” – con người trở thành trung tâm của bức tranh. Nhưng ở đây, nhà thơ chỉ viết “dáng người”, nhà thơ không chú trọng ngoại hình mà đặc biệt tô đậm sức sống tâm hồn, ý chí dẻo dai, phi thường của con người khi đối diện với thiên nhiên dữ dội. Đọc câu thơ, tôi mường tượng hình ảnh bé nhỏ, mảnh mai của con người trên con thuyền đang lao nhanh giữa dòng nước lũ. Cái khắc nghiệt của thiên nhiên chẳng thể nào khuất phục con người. Dáng vẻ của con người duyên dáng, mảnh mai, dẻo dai và kiêu hãnh vô cùng. Nét đẹp của họ lồng lộng trong tư thế làm chủ giữa mien man sông nước. Dòng sông càng dữ dội bao nhiêu, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc lại càng đem đến cho tôi cảm giác than phục và gợi nhiều cảm xúc bấy nhiêu.

Tôn lên vẻ đẹp của con người là hình ảnh “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Không phải là nhành hoa trôi nổi bị cuốn theo dòng nước mà là nhành hoa bé nhỏ vẫn tồn tại, vẫn cố bám trụ trong dòng nước cuồn cuộn trôi. Thủ pháp tương phản đã được vận dụng triệt để. Ngôn ngữ tạo hình “đong đưa” được Quang Dũng vận dụng vừa gợi hình vừa gợi cảm: gợi dáng vẻ ngả nghiêng không được vững vàng nhưng vẫn không bị cuốn trôi. Cũng xuất phát từ hai chữ “đong đưa” khiến tâm hồn tôi lien tưởng: Nhành hoa nghiêng ngả, lả lướt, tình tứ đong đưa như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Cảnh gợi tả vô cùng! Một vẻ đẹp mềm mại nhưng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Như thế, hoa là hình ảnh ẩn dụ, tô đậm cho nét đẹp của con người. Thiên nhiên nơi đây cũng như con người vậy, ẩn giấu vẻ đẹp huyền bí vô cùng. Nó hấp dẫn, lôi cuốn tâm hồn chàng lính trẻ, đem lại cho anh những cảm nhận tinh tế, lãng mạn và đầy chất thơ. Góp phần khắc họa vẻ đẹp mơ màng của cảnh sắc nơi đây còn là giọng thơ của thi sĩ. Quang Dũng vận dụng lien tiếp các điệp từ “có nhớ, có thấy” ở đầu hai câu thơ đem lại cảm giác nỗi nhớ thi nhau ùa về, khơi gợi trong lòng người ấn tượng khó quên về cảnh sắc thiên nhiên. Điệp khúc “có nhớ, có thấy” kết hợp với từ láy “độc mộc, đong đưa” cùng cách diễn đạt “hồn lau” đem lại cho 4 câu thơ âm điệu ngân nga như hát. Đọc đoạn thơ, tôi thấy mình như lạc vào cõi mơ của một bức tranh thủy mặc, lạc vào khung cảnh chiều sương, chiều mơ, chiều thơ và chiều họa. Hơn bao giờ hết, chất thơ và chất họa đã hòa trong nhau để làm nên thế giới nhạc và hình nên thơ như chính dòng cảm xúc say sưa trong tâm hồn thi sĩ. Có biết bao buổi chiều sương đã di vào thơ ca, đã biết bao cảnh dòng sông đắm mình trong sương được dệt nên bởi thế giới ngôn từ. Quả thật, ai đó đã rất có lý khi cho rằng “Trong thơ Quang Dũng, ta bắt gặp 1 nhạc sĩ, 1 họa sĩ, con người nào cũng thật lãng mạn, hào hoa”.

Trong đoạn thơ, Quang Dũng đã khám phá và thể hiện được chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến. Đằng sau cảnh sông nước miền Tây đẹp như bức họa thời tiền sử, đằng sau nét đẹp con người Tây Bắc là những rung cảm tinh tế trong tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ kiên cường trước những khó khắn, gian khổ, kiên dũng, bất khuất, oai nghiêm trước quân thù. Nhưng trong tâm hồn họ, vẫn vẹn nguyên bao xúc cảm trẻ trung, thơ mộng.

Đọc xong những ý thơ mà tôi có cảm giác vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây còn chập chờn, mien man đâu đó. Quả thật bằng tình cảm sâu đậm của mình với mảnh đất này, Quang Dũng đã tạo nên mối tơ tình đồng điệu, gắn bó giữa độc giả với nhà thơ, giữa độc giả với thiên nhiên, con người miền Tây trong những năm tháng kháng chiến gian nan. Quả là ” Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Thơ Tây Tiến (Quang Dũng) – Nỗi Nhớ Nhung Đồng Đội Da Diết Và Sự Hi Sinh Lớn Lao trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!