Xu Hướng 6/2023 # Bài Học: Các Phương Châm Hội Thoại # Top 15 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bài Học: Các Phương Châm Hội Thoại # Top 15 View

Bạn đang xem bài viết Bài Học: Các Phương Châm Hội Thoại được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nội dung

I – PHƯƠNG CHÂM VỀ LƯỢNG 1. Đọc đoạn đối thoại sau và trả lời câu hỏi. An: – Cậu có biết bơi không? Ba: – Biết chứ, thậm chí còn bơi giỏi nữa. An: – Cậu học bơi ở đâu vậy? Ba: – Dĩ nhiên là ở dưới nước chứ còn ở đâu. Khi An hỏi “học bơi ở đâu” mà Ba trả lời “ở dưới nước” thì câu trả lời có đáp ứng điều mà An muốn biết không? Cần trả lời như thế nào? Từ đó có thể rút ra bài học gì về giao tiếp? 2. Đọc truyện cười sau và trả lời câu hỏi.

LỢN CƯỚI, ÁO MỚI Có anh tính hay khoe của. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm. Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to: – Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không? Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra bảo: – Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả! (Theo truyện cười dân gian Việt Nam)

Vì sao truyện này lại gây cười? Lẽ ra anh có “lợn cưới” và anh có “áo mới” phải hỏi và trả lời thế nào để người nghe đủ biết được điều cần hỏi và cần trả lời? Như vậy, cần phải tuân thủ yêu cầu gì khi giao tiếp? Ghi nhớ Khi giao tiếp, cần nói cho có nội dung; nội dung của lời nói phải đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc giao tiếp, không thiếu, không thừa (phương châm về lượng). II – PHƯƠNG CHÂM VỀ CHẤT Đọc truyện cười sau và trả lời câu hỏi.

QUẢ BÍ KHỔNG LỒ

Hai anh chàng đi qua một khu vườn trồng bí. Một anh thấy quả bí to, kêu lên: – Chà, quả bí kia to thật! Anh bạn có tính hay nói khoác, cười mà bảo rằng: – Thế thì đã lấy gì làm to. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều. Có một lần, tôi tận mắt trông thấy một quả bí to bằng cả cái nhà đằng kia kìa. Anh kia nói ngay: – Thế thì đã lấy gì làm lạ. Tôi còn nhớ, một bận tôi trông thấy một cái nồi đồng to bằng cả cái đình làng ta. Anh nói khoác ngạc nhiên hỏi: – Cái nồi ấy dùng để làm gì mà to vậy? Anh kia giải thích: – Cái nồi ấy dùng để luộc quả bí anh vừa nói ấy mà. Anh nói khoác biết bạn chế nhạo mình bèn nói lảng sang chuyện khác. (Theo truyện cười dân gian Việt Nam)

Truyện cười này phê phán điều gì? Như vậy trong giao tiếp có điều gì cần tránh? Ghi nhớ Khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có bằng chứng xác thực (phương châm về chất). III – LUYỆN TẬP 1. Vận dụng phương châm về lượng để phân tích lỗi trong những câu sau: a) Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà. b) Én là một loài chim có hai cánh. 2. Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống(a) (Đối với các bài tập điền chữ cái, dấu thanh, tiếng, từ ngữ,… vào chỗ trống trong Ngữ văn 9, học sinh chép lại và làm vào vở bài tập): a) Nói có căn cứ chắc chắn là /…/ b) Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là /…/ c) Nói một cách hú hoạ, không có căn cứ là /…/

Từ Vựng Và Hội Thoại Học Tiếng Hàn Qua Truyện Ngắn Song Ngữ

Học tiếng Hàn qua truyện tranh

Học tiếng Hàn qua truyện cười song ngữ

Mẩu truyện cười 1:

생물시간, 선생님이 물었다: (Trong giờ sinh vật, thầy giáo hỏi học sinh):

A: 여러분, 동물의 왕은 누구일까요?(Các em hãy cho biết vị vua của các loài động vật là con gì?

학생들이 대답했다 : (Học sinh trả lời):

B: 동물원 사장입니다! (Dạ thưa, đó là giám đốc của sở thú ạ.)

Mẩu truyện cười 2:

생물시간에 선생님이 물었다: (Trong giờ sinh học cô giáo hỏi):

A: 왜 병아리는 계란 껍질을 깨고 밖으로 나올까요?(Các em hãy cho biết tại sao con gà con lại mổ vỏ trứng rồi sau đó mới chui ra ngoài?

B: 선생님, 그것은 병아리가 계란과 함께 후라이가 되는것이 무서워서 입니다! (Dạ em thưa cô, vì con gà nó sợ sẽ bị chiên lên cùng với trứng ạ.)

Mẩu truyện cười 3:

학교에서 돌아온 아이가 엄마를 불렀다: (Cậu bé nọ đi học về và cất tiếng gọi mẹ):

A: 엄마, 제가 10점 받으면 사탕 열개 준다고 하셨죠?(Mẹ ơi, có phải mẹ nói rằng nếu như con được điểm mười thì mẹ sẽ cho con mười cái kẹo đúng không ạ?

B: 응, 그럼 오늘 10점 받았니? (Đúng rồi, con đã được điểm 10 à?)

A: 아니오, 오늘은 사탕 한개면 되요 (Không ạ, ngày hôm nay mẹ chỉ cần cho con 1 cái kẹo mút thôi)

Với những mẩu chuyện ngắn nhưng hài hước và đem về tiếng cười, bạn chắc chắn sẽ thấy việc học của mình trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Ngoài các mẩu truyện SOFL vừa chia sẻ, các bạn có thể học tiếng Hàn qua truyện tranh như: doraemon bằng tiếng Hàn, Zippy Ziggy, Kid Gang hay Change Guy.

Một cách học từ vựng và hội thoại tiếng Hàn qua truyện song ngữ cực kỳ hiệu quả đó chính là các bộ phim. Khi tự học tiếng Hàn tại nhà, các bạn có thể chọn cho mình những bộ phim có phụ đề song ngữ, sau đó học theo.

Lợi ích khi học tiếng Hàn qua phim song ngữ đó là:

Bạn không cảm thấy chán nản, mệt mỏi giống như khi học theo giáo trình

Bạn có thể vừa đọc sub song ngữ, vừa có thể luyện nghe cách phát âm và đọc theo

Bạn có thể dừng lại bất cứ khi nào để ghi chép từ mới tiếng Hàn và ngữ pháp tiếng Hàn cơ bản.

Bạn có thể xem và ôn tập lại các nội dung trong bộ phim song ngữ Hàn Việt ở bất cứ đâu.

​Danh Sách Các Thành Viên Hội Đồng Lý Luận Trung Ương Qua Các Nhiệm Kỳ

​Danh sách các thành viên hội đồng lý luận trung ương qua các nhiệm kỳ

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN TRUNG ƯƠNG QUA CÁC NHIỆM KỲNHIỆM KỲ THỨ NHẤT (1996 – 2000)

(Theo Quyết định số 06-QĐ/TW, ngày 30-10-1996 của Bộ Chính trị)

01 Nguyễn Đức Bình Chủ tịch Hội đồng02 Phạm Minh Hạc Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng03 Nguyễn Khánh Phó Chủ tịch Hội đồng04 Nguyễn Duy Quý Phó Chủ tịch Hội đồng05 Hữu Thọ Phó Chủ tịch Hội đồng06 Đặng Hữu Ủy viên07 Nguyễn Khoa Điềm Ủy viên08 Nguyễn Phú Trọng  Ủy viên09 Tô Huy Rứa  Ủy viên10 Phạm Quang Nghị Ủy viên11 Đỗ Hoài Nam Ủy viên12 Hà Đăng Ủy viên13 Trần Trọng Tân Ủy viên14 Đặng Xuân Kỳ Ủy viên15 Nguyễn Duy Gia Ủy viên16 Trần Xuân Trường Ủy viên17 Phạm Xuân Nam Ủy viên18 Lê Hữu Tầng Ủy viên19 Đào Duy Quát Ủy viên20 Lê Hữu Nghĩa Ủy viên21 Phạm Tất Dong Ủy viên22 Hà Học Hợi           Ủy viên23 Trần Ngọc Hiên Ủy viên24 Phan Huy Lê Ủy viên25 Phùng Hữu Phú Ủy viên26 Nguyễn Thanh Tuyền Ủy viên27 Nguyễn Quang Điển Ủy viên28 Dương Phú Hiệp Ủy viên29 Lương Xuân Quỳ Ủy viên

NHIỆM KỲ THỨ HAI (2001 – 2005)

 (Theo Quyết định số 13-QĐ/TW, ngày 10-11-2001 của Bộ Chính trị và Quyết

định số 24-QĐ/TW, ngày 22-01-2002 của Ban Bí thư)

01 Nguyễn Phú Trọng  Chủ tịch Hội đồng02 Đỗ Hoài Nam Phó Chủ tịch Hội đồng03 Lê Hữu Nghĩa Phó Chủ tịch Hội đồng04 Đặng Xuân Kỳ Phó Chủ tịch chuyên trách05 Hồng Hà Tổng thư ký06 GS Nguyễn Đức Bình Ủy viên07 chúng tôi Nguyễn Duy Quý Ủy viên08 chúng tôi Lê Hữu Tầng Ủy viên09 TS Đào Duy Quát Ủy viên10 chúng tôi Nguyễn Ngọc Long Ủy viên11 chúng tôi Nguyễn Quang Điển Ủy viên12 GS Lê Xuân Tùng Ủy viên13 chúng tôi Nguyễn Thị  Mơ      Ủy viên14 chúng tôi Chu Văn Cấp   Ủy viên15 chúng tôi Lương Xuân Quỳ      Ủy viên16 Ngô Văn Dụ      Ủy viên17 chúng tôi KH Nguyễn Văn Đặng    Ủy viên18 TS Lê Thế Giới Ủy viên19 chúng tôi Phạm Minh Hạc Ủy viên20 TS Hồng Vinh Ủy viên21 TS Phạm Quang Nghị Ủy viên22 TS Lê Duy Đồng Ủy viên23 chúng tôi Nguyễn Thị Doan Ủy viên24 chúng tôi Phan Xuân Biên Ủy viên25 TS Phan Hồng Giang Ủy viên26 chúng tôi Tô Huy Rứa Ủy viên27 Lê Đức Bình Ủy viên28 chúng tôi Đào Trí Úc Ủy viên29 TS Trần Hậu Ủy viên30 TS Đỗ Quang Tuấn Ủy viên31 chúng tôi Nguyễn Trọng Phúc Ủy viên32 chúng tôi Vũ Văn Hiền Ủy viên33 chúng tôi Dương Phú Hiệp Ủy viên34 TS. Lê Minh Vụ Ủy viên35 chúng tôi Lê Văn Cương Ủy viên36 Hoàng Thụy Giang Ủy viên

NHIỆM KỲ THỨ BA (2006 – 2010)

(Theo Quyết định số 40-QĐ/TW, ngày 15-3-2007 của Ban Bí thư)

01 chúng tôi Tô Huy Rứa Chủ tịch Hội đồng02 chúng tôi Lê Hữu Nghĩa Phó Chủ tịch kiêm nhiệm Hội đồng03 GS,TS Đỗ Hoài Nam Phó Chủ tịch kiêm nhiệm Hội đồng04 chúng tôi Nguyễn Văn Đặng Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng05 TS Nguyễn Viết Thông Tổng thư ký06 chúng tôi Hoàng Chí Bảo Ủy viên07 chúng tôi Phan Xuân Biên Ủy viên08 TS Tạ Minh Châu           Ủy viên09 Ths Nguyễn Quang Chiến Ủy viên10 chúng tôi Nguyễn Thị  Doan Ủy viên11 Ngô Văn Dụ        Ủy viên12 chúng tôi Nguyễn Quang  Điển Ủy viên13 chúng tôi Phạm Văn Đức Ủy viên14 chúng tôi Vũ Minh Giang Ủy viên15 chúng tôi Lê Thế Giới Ủy viên16 chúng tôi Phạm Xuân Hằng Ủy viên17 chúng tôi Vũ Văn Hiền Ủy viên18 chúng tôi Nguyễn Văn Huyên Ủy viên19 TS Đinh Thế Huynh Ủy viên20 TS Trần Du Lịch Ủy viên21 chúng tôi Lê Bộ Lĩnh Ủy viên22 chúng tôi Ngô Quang Minh Ủy viên23 chúng tôi Phùng Hữu Phú Ủy viên(1)24 chúng tôi Tạ Ngọc Tấn Ủy viên25 chúng tôi Mạch Quang Thắng Ủy viên26 chúng tôi Lê Minh Thông Ủy viên27 chúng tôi Nguyễn Văn Thường Ủy viên28 TS Lê Đình Tiến Ủy viên29 TS Nguyễn Thanh Tuyền Ủy viên30 chúng tôi Đào Trí Úc Ủy viên31 chúng tôi Ngô Doãn Vịnh Ủy viên32 chúng tôi Lê Minh Vụ Ủy viên33 TS Trương Như Vương Ủy viên34 chúng tôi Trần Quốc Toản Ủy viên(2)35 TS Nguyễn Mạnh Hùng Ủy viên(3)36 TS Nguyễn Văn Hùng Ủy viên(4)37 chúng tôi Dương Văn Quảng Ủy viên(5)38 TS Nguyễn Văn Thạo Ủy viên(6)

(1) Theo Quyết định số 628-QĐNS/TW, ngày 09-11-2007 của Bộ Chính trị, đồng chí Phùng Hữu Phú, Ủy viên HĐLLTW, kiêm giữ chức Phó Chủ tịch thường trực HĐLLTW nhiệm kỳ 2006 – 2010. (2), (3), (4), (5), (6) Bổ sung sau khi có Quyết định số 40-QĐ/TW, ngày 15-3-2007 của Ban Bí thư.

NHIỆM KỲ THỨ TƯ (2011-2015)

(Theo Quyết định số 35-QĐ/TW, ngày 08-9-2011 của Bộ Chính trị)

01 TS. Đinh Thế Huynh Chủ tịch Hội đồng02 chúng tôi Phùng Hữu Phú Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng03 chúng tôi Lê Hữu Nghĩa Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng04 chúng tôi Vũ Văn Hiền Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng05 chúng tôi Tạ Ngọc Tấn Phó Chủ tịch Hội đồng06 chúng tôi Nguyễn Xuân Thắng Phó Chủ tịch Hội đồng07 chúng tôi Nguyễn Viết Thông Tổng thư ký08 chúng tôi Đỗ Hoài Nam Ủy viên09 chúng tôi Nguyễn Thị Doan Ủy viên10 chúng tôi Phạm Vũ Luận Ủy viên11 chúng tôi Tô Lâm Ủy viên12 chúng tôi Hoàng Chí Bảo Ủy viên13 chúng tôi Ngô Quang Minh Ủy viên14 chúng tôi Trần Văn Phòng Ủy viên15 chúng tôi Phạm Văn Đức Ủy viên16 chúng tôi Nguyễn Văn Thạo Ủy viên17 chúng tôi Trần Đình Thiên Ủy viên18 TS Đinh Xuân Thảo Ủy viên19 chúng tôi Trần Quốc Toản   Ủy viên20 chúng tôi Phạm Văn Linh Ủy viên21 chúng tôi Vũ Văn Phúc Ủy viên22 TS Nguyễn Mạnh Hùng Ủy viên23 TS. Lê Đình Tiến           Ủy viên24 TS . Đặng Kim Sơn Ủy viên25 ThS Bùi Thanh Sơn Ủy viên26 chúng tôi Lê Xuân Bá Ủy viên27 chúng tôi Nguyễn Chí Bền Ủy viên28 chúng tôi Nguyễn Văn Khánh Ủy viên29 chúng tôi Trần Ngọc Thêm Ủy viên30 chúng tôi Phạm Quang Long Ủy viên31 TS Trần Du Lịch Ủy viên32 GS,TS Trương Bá Thanh   Ủy viên33 chúng tôi Nguyễn Văn Nam   Ủy viên34 Mai Quang Phấn Ủy viên(1)35 GS.TSKH. Phan Xuân Sơn Ủy viên36 chúng tôi Nguyễn Viết Thảo Ủy viên37 chúng tôi Nguyễn Đăng Thành Ủy viên38 chúng tôi Đinh Xuân Dũng Ủy viên39 chúng tôi Đỗ Quang Hưng Ủy viên40 TS. Trần Hồng Hà Ủy viên (2)41 chúng tôi Vũ Minh Giang Ủy viên (3)42 chúng tôi Phan Xuân Biên     Ủy viên (4)

(1) Thay đồng chí Nguyễn Tuấn Dũng theo Quyết định số 593-QĐNS/TW, ngày10-9-2012 của Ban Bí thư.(2) Bổ sung theo Quyết định số 484-QĐNS/TW, ngày 23-3-2012 của Ban Bí thư(3, 4) Bổ sung theo Quyết định số 487-QĐNS/TW, ngày 27-3-2012 của Ban Bí thư.

NHIỆM KỲ THỨ NĂM (2016-2021)

(Theo Quyết định Số 35-QĐ/TW, ngày 16 tháng 8 năm 2016 của Ban Bí thư)

1- Chủ tịch Hội đồng:

Đồng chí TS Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư.

2- Phó Chủ tịch Hội đồng:

– Đồng chí chúng tôi Phùng Hữu Phú, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng.– Đồng chí chúng tôi Tạ Ngọc Tấn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng.– Đồng chí chúng tôi Vũ Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Văn Thạo, nguyênTrợ lý Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội đồng(1).– Đồng chí chúng tôi Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng.

3- Tổng thư ký kiêm Ủy viên thường trực Hội đồng: Đồng chí chúng tôi Nguyễn Viết Thông.

4- Ủy viên Hội đồng:

– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Thị Doan, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước.– Đồng chí Thượng tướng, chúng tôi Bùi Văn Nam, Ủy viên Trung ươngĐảng, Thứ trưởng Bộ Công an.– Đồng chí Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.– Đồng chí chúng tôi Đoàn Minh Huấn, Ủy viên dự khuyết Trung ươngĐảng, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng Sản.– Đồng chí chúng tôi Lê Hữu Nghĩa, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. – Đồng chí TS Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyênPhó Trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương.– Đồng chí Nguyễn Thế Trung, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyênPhó Trưởng ban thường trực Ban Dân vận Trung ương.– Đồng chí ThS Lê Quang Vĩnh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.– Đồng chí chúng tôi Lê Bộ Lĩnh, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.– Đồng chí TS Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.– Đồng chí TS Đặng Đình Quý, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.– Đồng chí chúng tôi Trần Quốc Toản, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Viết Thảo, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.– Đồng chí chúng tôi Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.– Đồng chí Thiếu tướng, chúng tôi Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an nhân dân, Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân.– Đồng chí Thiếu tướng, chúng tôi Nguyễn Bá Dương, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội và Nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng.– Đồng chí chúng tôi Đinh Xuân Thảo, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.– Đồng chí chúng tôi Trương Ngọc Nam, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.– Đồng chí chúng tôi Trần Văn Phòng, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.– Đồng chí TS Nguyễn Quốc Dũng, Giám đốc Học viện Chính trị khu vực IV, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.– Đồng chí chúng tôi Bùi Văn Huyền, Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.– Đồng chí TS Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viên nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Mạnh Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứuChâu Phi và Trung Đông, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.– Đồng chí TS Nguyễn Duy Thụy, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.– Đồng chí TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. – Đồng chí chúng tôi Trần Công Phong, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Thế Chinh, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên – Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.– Đồng chí TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng  Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.– Đồng chí chúng tôi Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.– Đồng chí chúng tôi Trần Thọ Đạt, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.– Đồng chí chúng tôi Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.– Đồng chí chúng tôi Nguyễn Mạnh Toàn, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.– Đồng chí chúng tôi Phan Xuân Biên, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.– Đồng chí TS Nguyễn Văn Phong, Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội.

(1) Ngày 02/3/2018, Bộ Chính trị quyết định, đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 – 2021 thôi giữ chức Thường trực Ban Bí thư và Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 – 2021 để tiếp tục chữa bệnh dài hạn. Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch phụ trách Hội đồng Lý luận Trung ương được phân công giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016 – 2021. 

Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh thi thoại là tác phẩm thứ 14 của Nhà văn Nguyễn Khôi, trước đó năm 1995 ông cho in tập thơ Trai Đình Bảng,  gồm 30 bài thơ dành riêng nói về làng Đình Bảng quê hương ông, tuy không phải nơi ông sinh ra nhưng là nơi ông được gửi về quê “ở vú” (U nuôi) gắn bó với bao kỷ niệm thời ấu thơ: “Vượt biển, chơi hồ, trở quá giang/ Bỗng dưng lại thấy nhớ Ao làng/Cái đêm hè ấy Ai ra tắm/ Để cả bầu trời phải tắt trăng”. 

Năm 1963, tốt nghiệp Đại học Nông Nghiệp, ông được điều động lên công tác tại Sơn La, được tiếp cận với văn hoá nhiều vùng miền, tình yêu quê hương lớn dần theo năm tháng, trái tim ông luôn thổn thức nghĩ về quê hương! Năm ông hai mươi bảy tuổi (1967), trên đường đi công tác tại biên giới Việt Lào, lòng rạo rực nhớ quê hương: “Tôi đi bao miền quê/ Ngày về trông xa lắc/ Bỗng gặp cánh chim chiều/ Gửi hồn về Kinh Bắc” (Miền quê Kinh Bắc) và “Ai thổi sáo? Lặng nghe lòng thổn thức/ Hồn vi vu giỡn mây trắng núi Chè? Yêu đeo đẳng tình quê người Quan họ” (Váy Đình Bảng) 

Quê hương Kinh Bắc đã hun đúc bao tài năng xuất chúng đứng đầu cả nước về danh nhân khoa bảng với “một giỏ ông Ðồ, một bồ ông Cống, một đống ông Nghè, một bè Tiến sĩ, một bị Trạng nguyên, một thuyền Bảng nhãn”. Kinh Bắc xưa đã có 645 vị tiến sĩ, gần 20 vị trạng nguyên, góp 5 vì sao trong Tao đàn nhị thập bát tú – Một tao đàn quốc gia đầu tiên của nước Đại Việt, thế kỷ XV do vị vua anh minh và cũng thông tuệ thi ca là Lê Thánh Tông làm chủ suý. Hình như với một tập thơ chưa đủ giãi bày tình yêu nồng nàn của ông với quê hương trầm lắng nhiều tầng văn hoá, Nhà văn Nguyễn Khôi đã miệt mài cặm cụi 8 năm liền sưu tầm, nghiên cứu và biên tập Bắc Ninh thi thoại, cuốn sách in lần đầu vào năm 1997, lần thứ hai vào năm 2000, lần thứ ba vào năm 2004, mỗi lần in ông lại sửa chữa, bổ sung ngày càng hoàn chỉnh. Một tác phẩm bàn về thơ và người làm thơ một miền đất cổ – quê hương ông, trong hơn một nghìn năm, không chỉ được phổ biến ở trong nước mà còn hiện diện tại thư viện Congress – Washington (Hoa kỳ) cho thấy bản sắc độc đáo của văn hoá Kinh Bắc đã và đang được lan toả trong lòng bạn bè thế giới! 

Thi thoại là nói về thơ, bàn về nhà thơ, “là thể loại phê bình mang tính chất tuỳ bút “nhàn đàm về thơ”. Biên soạn thi thoại là việc làm công phu, đòi hỏi người nghiên cứu, biên tập phải là người có tài, phải đọc nhiều sách, nghiền ngẫm, từng trải, quen biết nhiều thi nhân, bản thân không những làm thơ hay mà viết văn cũng thông thạo. Người phê bình thơ phải có cách nhìn lịch lãm để cảm nhận hết chiều sâu của văn hoá dân tộc thể hiện qua các bài thơ…

Ở nước ta, những lời đàm luận về thơ chủ yếu tồn tại ở dạng nói trong lúc “trà dư, tửu hậu”. Trước năm 1945, loại sách này không nhiều, nổi tiếng chỉ có “Chương Dân thi thoại” của (Chương Dân là tên hiệu và bút danh của Phan Khôi). Tập sách này tuy mỏng, nhưng với tinh thần nhập thế và niềm say mê cái mới Phan Khôi đã trở thành thi nhân hai lần đi tiên phong, vừa là “ông tổ thơ mới” vừa là “ông tổ thi thoại” ở nước ta. Sau Chương dân thi thoại là Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Hầu hết các thi thoại đều đề cập đến thơ ca trong phạm vi cả nước, Bắc Ninh thi thoại chỉ bàn về thơ và người làm thơ trong phạm vi một tỉnh của Nguyễn Khôi là một trường hợp cá biệt. Gọi là ghi chép về văn chương của một tỉnh, nhưng người đọc hiểu biết về Kinh Bắc đều có cảm nhận cuốn sách phản ánh văn chương của cả dân tộc, bởi Kinh Bắc là nơi “tụ hội khí anh linh của trời đất”! 

Chính vì lẽ đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Báu cho rằng “dám điểm xuyết thi ca một tỉnh có bề dầy lịch sử hàng ngàn năm, Nguyễn Khôi quả là dũng cảm và đó là một việc làm rất đáng trân trọng” và “phải có tấm lòng nặng tình, nặng nghĩa với quê hương… mới có thể viết được một cuốn sách về quê hương mình như thế”. Để giãi bày tâm huyết và sự  “dũng cảm” của mình, trong Lời thưa, tác giả đã khiêm nhường viết rằng: “Kẻ hậu sinh ở làng Đình Bảng này cúi xin các bậc tiền nhân, ông cha thủa trước, nghiêng mình xin phép các anh, các chị thi nhân, kẻ sĩ đương thời của tình nhà, mạo muội, cặm cụi viết một quyển Bắc Ninh thi thoại gọi là điểm dẫn, sưu tầm, hệ thống lại, có đôi lời cảm nhận (theo thiển ý) để góp vui cho những người đồng hương, trong lúc vui chơi, giải trí, khi ly rượu, chén trà, “nghênh phong, thưởng nguyệt” với hồn quê Kinh Bắc, sâu sắc tình đời, có điều gì thô lậu, mong bạn đọc quê hương lượng thứ”.

Bắc Ninh thi thoại xác định theo cương vực Trấn (Xứ) Kinh Bắc. Năm 1931 vua Minh mạng đổi thành tỉnh Bắc Ninh, bao gồm tỉnh Bắc Ninh, phần lớn tỉnh Bắc Giang ngày nay và các huyện Văn Giang, Văn Lâm  (Hưng Yên), Gia lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (thành phố Hà Nội), Hữu Lũng (Lạng Sơn). Mặc dù cương vực Bắc Ninh ngày nay hẹp hơn nhiều so với cương vực trong Bắc Ninh thi thoại nhưng người Bắc Ninh vẫn tự hào viết Bắc Ninh – Kinh Bắc (kết nối bằng một gạch ngang -) như tiếp nối truyền thống một thời Kinh Bắc phát triển rực rỡ của quê hương mình! 

Bắc Ninh thi thoại, thẩm định giới thiệu và thẩm bình mang tính điểm xuyết thơ của một nền văn học bác học này trong 10 thế kỷ từ thơ thiền đến thơ đời: thơ của các thiền sư nổi tiếng như Vạn Hạnh, với bài Thơ Sấm: “Thiên Đức giầu sang no đủ khắp/ Giữa trời sao Nữ, Thánh quân sinh”. (Ý nói Lý Công  Uẩn sẽ ra đời) và “Lục Nguyệt, Tuất niên ngược bóng rồng” (Nghĩa là Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi vào tháng sáu, năm Tuất (1010). Thơ Sấm của Vạn Hạnh thường ngắn gọn, giầu hình ảnh, ý tứ sâu xa, hàm súc. Dưới tấm áo nâu sồng là một trái tim thơ (theo Duy Phi), có thể coi là nhà thơ đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh. Thơ của các thi sĩ Kinh Bắc – Bắc Ninh đời Lý thuộc thể loại thơ thiền có các tác gia Lý Trường Mãn (1051 – 1096); Quảng Nghiêm Thiền sư (1121 – 1190) tu ở chùa Thành An (Thuận Thành); Ngọc Kiều, Ni sơ Diệu Nhân, người làng Phù Đổng; Nguyên Phi Ỷ Lan (1023 – 1117).

Thời Trần là thời kỳ Nho giáo trưởng thành và thơ trữ tình là tiêu biểu. Tiến sĩ  Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên), người làng Lai Hạ (huyện Lương Tài) có Văn Tế cá sấu. Huyền Quang (tức Lý Đạo Tái, 1254 – 1334), năm 20 tuổi đỗ Trạng nguyên rời quan đi tu rồi trở thành Sư tổ phái Trúc Lâm, với bài thơ Nhà trong núi, Đi thuyền…

Đời Lê, thơ của thi sĩ Kinh Bắc – Bắc Ninh mang nặng chất “học giả” và là đỉnh cao của làng thơ Kinh Bắc: Thái học sinh Vũ Mộng Nguyên, người huyện Tiên Du làm đến Tế tửu Quốc tử giám, để lại mấy chục bài thơ cách luật, phong cách sang trọng mực thước. Trần Khản, quê Từ Sơn làm tới Chí sự viên tham nghị có tập thơ Phục hiên; Thái Thuận, Tiến sĩ 1475, có Bến Hoàng giang tức cảnh, Sông muộn Giang; Nguyễn Thiên Tích, người Nội Duệ, Tiên Du, đậu Tiến sĩ năm 1431: “Đêm lặng trăng như vẽ/ Trời rét tuyết thành hoa/ Thuyền côi nghìn dặm khách/ Chiêm bao: đang ở nhà (Bài Làm trong thuyền); Tiến sĩ Đàm Văn Lễ, người làng Lãm Sơn (Quế Võ), 18 tuổi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới Thượng thư, nổi tiếng là người trung trực, bị vua Uy Mục đẩy vào Quảng Nam và bị giết ở Nghệ An, trước khi chết ông còn ngâm bài thơ quốc ngữ… và các bậc tài danh như: Tiến sĩ Nguyễn Xung Ý, người làng Kim Đôi (thành phố Bắc Ninh); Hoàng Đức Lương, người làng Cửu Cao (Văn Giang, Hà Nội); Tiến sĩ Thân Nhân Trung (1418 – 1499), quê làng Nếnh (Việt Yên); Trạng Me (Nguyễn Giản Thanh, 1480 ?), người làng Me, (huyện Từ Sơn) cùng thời với trạng Ngọt (Hứa Tam Tỉnh), người làng Như Nguyệt (huyện Yên Phong) với giai thoại Trạng Ngọt vọt Trạng Me/ Trạng Me đè Trạng Ngọt; Nguyễn Đăng (1577), người làng Tỏi, xã Chi Lăng (Quế Võ); Quách Đồng Dần (1567), người xã Phù Khê (Từ Sơn); Trạng Bựu Nguyễn Đăng Đạo (1651 – 1719); Thượng thư Nguyễn Công Hãng, người làng Phù Chẩn (Từ Sơn)…

Thi đàn Bắc Ninh đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện hai ngọn núi cao sừng sững trên bầu trời thơ đất Việt, đó là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) quê Giai Phạm (huyện Văn Giang) và Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798), quê làng Liễu Ngạn (huyện Thuận Thành) với 2 câu: “Lò cừ nung nấu sự đời? Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung oán ngâm khúc). Ôn Như hầu dựng lên sự kỳ vĩ bất tận của tạo hoá trước con người vĩ đại và đầy tính bi hài. Hoàng giáp Trần Danh Án (1754 – 1794), người làng Bảo Triện (huyện Gia Bình) người mở đầu “thơ con cóc” có Liễu am thi tập; Chàng lãng tử Phạm Thái (1777-1813) quê làng Yên Thường (Từ Sơn) với “một thiên tình sử” đã nẩy ra một áng thơ văn độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật, đến nay được coi là một di sản lớn và có giá trị nhân văn cao nhất về văn nghiệp của ông.

Từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi, các thi sĩ Bắc Ninh đã khởi sắc với ý thức công dân rõ rệt. Cao Bá Quát (1808 – 1855) và Nguyễn Văn Siêu được coi là “Thần Siêu, Thánh Quát” và “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán”. Tiếp sau là Hoàng Giáp Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890) quê ở Du Lâm (nay là Đông Anh) làm quan tới Thượng thư Bộ Lại có Yên Thiều thi tập và Thạch nông thi văn tập; Tán lý quân vụ Bắc Kỳ Nguyễn Cao (1828 – 1887), người làng Cách Bi (Quế Võ). Thời Đông Kinh – Nghĩa Thục, Bắc Ninh có Nguyễn Quyền (1869 – 1941) để lại bài thơ cổ xuý mạnh mẽ lòng yêu nước: “Hồn xưa dòng dõi Lạc Long/ Con nhà Nam Việt người trong giống vàng”; Nhà văn Ngô Tất Tố (sinh 1892), người làng Lộc Hà (nay thuộc huyện Đông Anh) thành danh trên nhiều lĩnh vực khảo cứu, dịch thuật, làm báo… nổi tiếng với tiểu thuyết Tắt đèn, Lều chõng… “thơ của một vị túc nho nhưng không hủ nho”. 

Phong trào thơ mới, Bắc Ninh xuất hiện hai nhà thơ lừng tiếng là Thế Lữ (1907-1989), quê Phù Đổng tiêu biểu về thể thơ 8 chữ “Sáng hôm nay sương biếc toả mờ mờ/Như hương khói đượm đầu cau, mái dạ” (Lựa tiếng đàn) và các Nhà thơ Đoàn Phú Tứ, Thao Thao. Từ 1930 đến Cách mạng tháng Tám 1945 thi sĩ Bắc Ninh có Trần Minh Tước, sinh 1943, quê Dục Tú (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội) nổi tiếng là thơ trào phúng với các bút danh Minh Tước, Xích Điểu. Có những số phận thi sĩ nghiệt ngã như ngôi sao băng vừa loé lên đã vội vã về nơi thiên cổ như Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Ngọc Ly…

Tác giả đã dành nhiều công sức giới thiệu gương mặt thơ Kinh Bắc thời hiện đại, trước hết là Nhà thơ tình hào hoa Hoàng Cầm với các tác phẩm thơ Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Sương Cầu Lim, Cây tam cúc. Nguyễn Khôi nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm đạt tới độ Hàn Lâm. Từ thực tại đã thăng hoa tới những miền hư viễn của tâm linh”. Về Nhà thơ Lê Đạt (quê cha ở Á Lữ, quê mẹ Đình Bảng), ông viết: “Cũng như Hoàng Cầm, ông là nhà thơ tài danh của xứ Bắc đương đại. Vì số phận không bình thường, nên mạch thơ của hai thi sĩ này cũng không bình thường” “Những năm cuối đời, Hoàng Cầm làm chủ mảng tình yêu, Lê Đạt đi làm “phu chữ”, cả hai đều đạt những thành tựu khá lẫy lừng, để lại dấu ấn trên thi đàn, có tiếng vang ra cả nước ngoài”. Tiếp theo là Hoàng Hưng (người làng Phù Lưu), tài hoa, lãng tử; dịch giả Thuý Toàn, người làng Phù Lưu là một trong ba, bốn người dịch thơ Nga hay nhất; Nhà văn hoá Hữu Ngọc, sinh năm 1918, người làng Tư Thế, xã Trí Quả (huyện Thuận Thành) với công trình nghiên cứu thơ Đường 4 ngữ, ở tuổi “ngẩn ngơ” (102 tuổi, theo cách dùng từ của ông) vẫn ra mắt cuốn Cảo thơm lần giở  giới thiệu cuộc đời, tư duy của hơn 180 danh nhân thế giới. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về quê hương Kinh Bắc là Làng Quan họ quê tôi của Nhà thơ Nguyễn Phan Hách (quê Mão Điền Thuận Thành) được Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc đã chắp cánh cho bài thơ đi cùng năm tháng; Nhà thơ Lữ Huy Nguyên, sinh 1939, quê xã Tân chi (huyện Tiên Du) với bài Những câu thơ mồ hôi; Giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, sinh 1938, quê làng Đông Cao, huyện Gia Bình, với bài Mùa thu về; “Thơ Vũ Từ Trang (quê Trang Liệt, Từ Sơn) có cái sang của chàng trai Đông Ngàn “lại có vị ngọt của khế Sặt Đồng”: “Khi ở tuổi bốn mươi/ Hồn em như đống lửa/ Anh ơi nổi gió lên/ Em muốn làm bão tố” (Khi em tuổi bốn mươi); với Anh Vũ (quê Trang Liệt, Từ Sơn), tác giả nhận xét “hình tượng thơ đã ôm trọn tứ thơ, đạt tới độ “thi trung hữu hoạ”. Với nhà thơ Nguyến Anh Thuấn (quê Kim Đôi, thành phố Bắc Ninh), tác giả giới thiệu khá cặn kẽ về bài thơ Làng Tiến sĩ, sáng tác năm 1989: “Làng ấy năm xưa nhiều Tiến sĩ”, bây giờ “Thì đây bia đá vùi trong cỏ/ Nửa làng xiêu vẹo mái nhà tranh/ Thì đây mối nhấm vào gia phả/ Hoa rơi không có kẻ giật mình”, một thông điệp “Thoảng nhẹ nhưng đau. Mất văn hoá là mất hết”. Trương Thị Kim Dung, người con gái Đáp Cầu thơ văn đều hay nhưng vận với số phận và định mệnh của nàng: “Ngủ ngon cát bụi trần gian/Dịu dàng ai kết hoa tang cho mình”.

Phần thứ hai, cuốn sách giới thiệu 48 gương mặt thơ, trong đó có các gương mặt thơ quen thuộc với độc giả Bắc Ninh ngày nay như: Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973) quê Đông Côi (Thuận Thành); Duy Khán (1934 – 1993), quê Nam Sơn (Quế Võ);  Lê Quang Trang (sinh 1947), quê Vạn An (thành phố Bắc Ninh); Trịnh Đình Khôi (sinh 1946), quê xã Tri Phương (huyện Tiên Du); Nguyễn Thanh Kim (sinh 1948), quê Thụ Ninh (thành phố Bắc Ninh); Duy Phi (sinh 1940) quê Mão Điền (Thuận Thành); Nguyễn Tiến Lộc (sinh 1939), quê Yên Phong; Phúc Toản (sinh 1949) quê Dương Lôi (Từ Sơn); Nguyễn Như Hạo (sinh 1947), quê huyện Lương Tài; Nguyễn Văn Chương (sinh 1940), quê Mão Điền (Thuận Thành); Nguyễn Đức Thìn (sinh 1940), quê Đình Bảng (Từ Sơn); Nguyễn Ngọc Ly (1947-2003) quê thành phố Bắc Ninh… 

Tác giả cũng dành nhiều trang điểm xuyết “Thơ của mọi nhà” và “Những câu thơ đáng đọc”. Ngoài ra, tác giả đã bộc bạch “đôi điều cảm nhận về thơ Hà Bắc một thời”, “Lạm bàn về thơ phổ nhạc”, “Về thơ thư pháp”, “Đọc thơ”, “Ngâm thơ”, “In thơ”, “Thơ Việt Nam đương đại nhìn từ bên ngoài”, “Về phê bình thơ”, “Ghé chiếu thơ Đường”, “Đôi nét thơ trẻ”, “Tiếp cận thơ hậu hiện Đại:” “Làm thế nào để có thơ hay”…

*     *

*

Bắc Ninh thi thoại là một công trình nghiên cứu công phu, khoa học, phong phú và bổ ích của Nhà văn Nguyễn Khôi. Tôi chưa một lần gặp tác giả, chỉ hiểu ông qua các tác phẩm, theo cảm nhận của tôi ông là người đa tài: làm thơ, viết văn, dịch thuật và khảo cứu, phê bình văn học – nghệ thuật… Bạn bè văn chương nhận xét ông là người dễ gần, chân mộc và trí tuệ, ông vẫn giữ được chất hương quê nhà và cả nét dung dị, duyên thầm của người con mường bản (Nhà báo Hoàng Lâm). Ông làm thơ, viết văn đã hơn nửa thế kỷ. Ở tuổi “xưa nay hiếm” nhưng tuổi càng cao bút lực của ông càng sung mãn, tung hoành, “thơ văn hào sảng, quyến rũ, một chút kiêu ngạo đáng yêu, một chút ngất ngưởng, nửa quan/nửa dân và một chút tham vọng ẩn tàng” (Tiến sĩ Nguyễn Văn Đường).

Gấp lại trang cuối cùng của Bắc Ninh thi thoại, điều đọng lại sâu đậm trong tâm trí người đọc là niềm tự hào về một miền đất cổ, nơi được coi là “hội tụ khí anh linh của đất trời”. Trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, hồn Kinh Bắc vẫn lung linh toả sáng trong truyền thống của dân tộc Việt. Thơ và người làm thơ Bắc Ninh – Kinh Bắc  qua các thế hệ “đã đúc được cái tâm, cái tài của con người vùng quê Quan họ, uyên bác mà không sáo, trí tuệ nhưng giàu chất trữ tình, có duyên như liền anh, liền chị quê ta vậy” như lời khẳng định của tác giả./.

                                                                                                                                                                                                                                                     HỒNG MINH

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Học: Các Phương Châm Hội Thoại trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!