Xu Hướng 5/2023 # An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy # Top 8 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…” Qua câu thơ chúng ta hiểu dõ thêm về “Truyện An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy” và câu truyện kể về An Dương Vương là vua nước Âu Lạc, ông xây thành nhưng xây đến đâu đổ đến đo, sau đó nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng thì đã xây xong. Khi trở về, Rùa Vàng còn cho vua một cái móng vuốt để làm nỏ thần. Khi Triệu Dà đến xâm lược, thì đã bị nỏ thần của An Dương Vương tiêu diệt. Sau đó, Triệu đà xin cầu hòa và đã sang cầu hôn con gái của An Dương Vương là Mị Châu cho con trai của ông ta là Trọng Thủy. An Dương Vương đồng ý và đã cho Trọng Thủy ở rể. Trong thời gian ở rể thì Trọng Thiuỷ đã lừa Mị Châu để lây nỏ thần và trở về nước. Sau đó, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc lần thứ hai, An Dương Vương ỷ có nỏ thần vẫn ngang nhiên ngồi đánh cờ, và kết quả là bị mất nước, An Dương Vương đem Mị Châu chạy ra biển, ra đến biển thì Rùa Vàng hiện lên nói “kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”. An Dương Vương nghe vậy Mị Châu. Còn ông thì xuống biển. Về sau thì Xác Mị Châu biến thành ngọc, còn Trọng Thủy thương tiếc vợ nên đã nhảy xuống giếng tự tử. sau này, khi lấy nước giếng đó rửa với ngọc thì sắc ngọc tự nhiên rực lên.

🎬 Bác Gấu đen và hai chú Thỏ:

🎬 Cậu bé Tích Chu:

🎬 Câu chuyện bó đũa:

🎬 Bà Chúa Tuyết:

🎬 Chú lính chì dũng cảm:

🎬 Cô bé bán diêm:

🎬 Sơn Tinh Thủy Tinh:

Danh sách Playlist : Truyện cổ tích: Truyện ngụ ngôn: Truyện cổ Andersen: Phim hoạt hình cổ tích hay nhất: ======================================================= #truyencotich #anduongvuongmichautrongthuy #hoathinhanduongvong ====================================================== Fanpage: Email: truyen.ctnn.haynhat@gmail.com 💗💗💗💗💗💗 Thanks for watching! 💗💗💗💗💗💗

Nguồn: https://curbjumperstreeteats.com

Phân Tích Truyện An Dương Vương Và Mị Châu

[Văn mẫu học trò] Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

Dàn ý chi tiết 1. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về đặc trưng truyền thuyết dân gian.

– Giới thiệu về xuất sứ, khái quát nội dung truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu

2. Thân bài: * Diễn biến câu chuyện 2.1. Công cuộc xây thành chế nỏ của Vua An Dương Vương.

– Xây thành rất khó cứ hễ xây thành lên cao quá đầu người, thì chỉ trong một đêm tự nhiên đổ sụp.

– Vua lập đàn rồi tự mình trai giới cầu cúng. Sau đó đã có thần Kim Quy xuất hiện giúp đỡ và tặng vuốt làm nỏ thần.

2.2. Bi kịch cơ đồ đắm biển sâu và bài học nâng cao cảnh giác chống giặc ngoại xâm.

a) Sự mất cảnh giác và sai lầm của An Dương Vương.

– Triệu Đà mượn cớ giảng hòa cầu hôn Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy

– Bị đánh cắp nỏ thần mà không hề hay biết cũng chính sự thiếu cảnh giác chủ quan của Vua An Dương Vương.

– An Dương Vương còn là sự ỷ lại vào nỏ thần không chuẩn bị nghênh địch mà lại thản nhiên đánh cờ đến khi biết mất nỏ thần mà địch ngay trước mắt mới vội vã mang con gái lên ngựa bỏ chạy.

b) Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy

– Bi kịch của mối tình éo le này mị Châu đã rắc lông ngống để Trọng Thủy tìm được mình nhưnh không ngờ đã chuốc lấy cái chết bằng nhát chém của cha cho chính mình.

– Trọng Thủy cũng thật đáng thương mất Mị Châu chàng như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết .

2.3. Bài học rút ra từ câu chuyện.

– Không nên chủ quan mất cảnh giác mà khinh thường địch.

– Không ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí

– Lấy tinh thần dân tộc làm chỗ dựa

– Rõ rành giữa ranh giới của các mối quan hệ.

3. Kết bài

– Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã đẻ lại cho người đọc về bài học dựng nước, không nên chủ quan mất cảnh giác mà khinh thường địch.

– Yếu tố kì ảo làm nên thành công lớn cho tác phẩm.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” trích từ “Truyện Rùa Vàng” trong ” Lĩnh Nam chích quái” kể về Vua An Dương Vương xây thành nhưng nhiều lần bị đổ, nhờ có thần Kim Quy mà dựng được Loa thành và được tặng cho chiếc vuốt làm lẫy nỏ . Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà xâm lược. Nhưng vì sự chủ quan khinh thường địch vua đã khiến cơ đồ đắm biển sâu.

Yếu tố kì ảo xuấ hiện khi Thần Kim Quy tặng một cái vuốt và cua An dương Vương đã tạo ra một chiếc nỏ nhờ cái vuốt ấy. Chi tiết kì ảo được hiểu là những điều không có thực, nó được xây dựng để tăng lên sự biểu đạt mà tác phẩm muốn thể hiện, nó hư cấu và được tạo nên để củng cố niềm tin cho con người. Nỏ thần chính là tượng trưng cho niềm tin sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể vượt xa cái tầm thường, tiêu diệt tất cả bè lũ xâm lược.

Triều Đà cậy có đất rộng, dân đông, lại thiện chiến, mấy lần kéo quân sang đánh, nhưng mỗi lần vượt cõi là một lần chuốc lấy thất bại. Bên này An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn. Mỗi phát bắn ra, tên bay rào rào, quân Nam-việt chết như rạ. Tuy nhiều lần thất bại thảm hại, Triệu Đà vẫn nuôi âm mưu xâm chiếm nước Âu Lạc. Vì vậy, Triệu Đà mượn cớ giảng hòa, cho sứ giả sang cầu hôn Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Mục đích đích của hắn không phải là thắt chặt tình giao hiếu giữa hai nước mà để dò xét tình hình Au-lạc. Bằng sự ngây thơ và thật thà Trọng Thủy đã lừa Mị Châu – con gái Vua An dương Vương để lấy nỏ thần. Bị đánh cắp nỏ thần mà không hề hay biết cũng chính sự thiếu cảnh giác chủ quan của Vua An Dương Vương. An Dương Vương còn là sự ỷ lại vào nỏ thần mà quên mất sức mạnh dân tộc không chuẩn bị nghênh địch mà lại thản nhiên đánh cờ đến khi biết mất nỏ thần mà địch ngay trước mắt mới vội vã mang con gái lên ngựa bỏ chạy. Đây cũng chính là bài học răn dạy dân tộc ta không nên khinh địch và mất cảnh giác ,bất cứ lúc nào đất nước cũng có thể rơi vào tay địch.

Nạn nhân của chiến tranh chính là Mị Châu – Trọng Thủy. Bi kịch của mối tình éo le này mị Châu đã rắc lông ngống để Trọng Thủy tìm được mình nhưnh không ngờ đã chuốc lấy cái chết bằng nhát chém của cha cho chính mình. Nàng đáng trách là khi không nhận ra ẩn ý rõ ràng trong lời nói ly biệt của Trọng thủy mà chỉ đợi ngày đoàn viên, giặc đuổi giết nhưng vẫn rải lông ngỗng. Đặt tình yêu lên trên vận mệnh quốc gia, Mị Châu vô cùng đáng phê phán. Nhưng Trọng Thủy cũng thật đáng thương mất Mị Châu chàng như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết .Tiếng thét “Người ở sau lưng nhà vua chính là giặc đó!” chính là sự giác ngộ thức tỉnh nhà vua. Một lần nữa tinh thần rằng cần phải nâng cao mạnh mẽ được sức mạnh và giá trị to lớn để bảo vệ nền độc lập cho nhân dân.

Cái nhìn nhân hậu của nhân dân chính là lòng bao dung, thương cảm cho tình yêu lứa đôi đối mặt với những âm mưu và tương truyền máu Mỵ Châu chảy xuống nước, những con trai con hến ăn vào đều hóa thành ngọc.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã đẻ lại cho người đọc về bài học dựng nước, không nên chủ quan mất cảnh giác mà khinh thường địch. Yếu tố kì ảo được xây dựng nên nhằm gia tăng lên giá trị của tác phẩm và nhiều ý nghĩa của nó được biểu hiện một cách mạnh mẽ có nhiều giá trị nhất làm cho truyền thuyết trở nên đặc sắc mà hiếm có câu truyện nào được như vậy.

Bùi Thị Chung

Thơ Về Cổ Loa, An Dương Vương Và Mỵ Châu

Thơ về Cổ Loa, An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy

Bạn đã đọc bài trước phân tích về Truyền thuyết An Dương Vương và mối tình oan trái Mỵ Châu -Trọng Thủy. Vậy xin mời bạn thưởng thức một số áng văn thơ đề cập đến truyền thuyết này do Phan Duy Kha sưu tầm và giới thiệu.

*

THƠ CHỮ HÁN Vũ Phạm Hàm

Lân bảng phi thân tế bất sàn

Quân vương dung dị ngộ hồng nhan

Tồn vong mịnh hệ Linh quang nỗ

Sinh tử hồn y Mộ Dạ sơn

Nam hải yên đào châu tích lệ

Bắc lâm phong vũ thạnh thành ban

Chí kim từ vũ lân nguyên miếu

Nguyệt xuất do văn hưởng bội hoàn.

Người thân thích ít, rể khôn lường

Lầm lỡ má hồng bởi phụ vương

Sống chết hồn nương đồi Mộ Dạ

Mất còn mệnh hệ nỏ Linh quang

Bể Nam khói sóng châu hoen lệ

Rừng Bắc phong sương đá lổ loang

Đền miếu tới nay bên điện cũ

Trăng lên khánh ngọc vẫn còn vang.

Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Văn Hỷ dịch

*

Lê Huy Phan

Vận tiếp Hồng Bàng thái cổ thiên

Dư đồ vạn lý Thục sơn xuyên

Loa thành nhân hiểm nan di đỉnh

Quy nỗ thần cơ bất cập tiên

Giao cách sự phi do nữ tế

Hưng vong số hữu định thần tiên

Linh phong mỹ tích kim trường tại

Sử luận hoang đường khủng vị nhiên.

Kế tiếp Hồng Bàng vận tại thiên

Nước non vạn dặm đất Thục liền

Loa Thành hiểm yếu đâu thần phục

Móng rùa thần nỗ lắm cái phiền

Sự việc xưa kia do ai nhỉ ?

Hưng vong số định bởi thần tiên

Khí thiêng dấu cũ nay còn đó

Sử luận hoang đường quả dĩ nhiên.

*

Vũ Tuân

Đương dương vạn mã đảo thành âm

Nam hải văn tê bạch trú trầm

Quy trảo dĩ tùy khinh bạc tế

Nga mao thụy lượng nữ nhị tâm

Hà sơn hữu lệ minh châu kết

Oan trái nan điền cổ tỉnh thâm

Đôn phách trinh hồn chung bất tử

Quế kỳ phong vũ dạ tiêu sâm.

Ngựa lướt vầng dương thành sẩm tối

Sừng tê rẽ nước giữa ban ngày

Móng rùa mưu rể đem đi mất

Lông ngỗng lòng con ai biết đây

Sông núi lệ tuôn trai ngọc kết

Oan khiên khôn lấp giếng xưa đầy

Phách hồn trinh trắng còn không mất

Cờ quế đêm mưa gió lắt lay.

Nguyễn Huệ Chi dịch

*

Bùi Phu Kinh (Họa bài thơ của Vũ Phạm Hàm)

Ông thị hiền vương vị thị sàn

Gian hùng nữ tế thái vô nhan

Thiếp tư báo đức đồng thiên địa

Lang nhẫn vong tình phụ hải san

Quy nỗ thu quang sơn tuyệt mộ,

Bạng châu sải lệ tỉnh lưu ban

Đội lân tịch mịch đình biên miếu

Dạ nguyệt thê lương cổ lũy hoàn

Nhạc phụ vua hiền đâu phải dại

Gian hùng chàng rể quá vô tình

Thiếp mong báo đức ngang trời đất

Chàng nỡ quên ơn phụ thệ minh

Nỏ báu mất thiêng non vắng mộ

Hạt trai tưới lệ giếng lưu hình

Bên đình tòa miếu thiêng mờ mịt

Lạnh lẽo trăng đêm quyện cổ thành.

Nguyễn Huệ Chi dịch

*

Lang quân tình trọng, phụ ân thâm

Bất bạch kỳ oan, hận đáo câm

Trường trảo vô linh quy diệc khứ

Minh châu hữu lệ bạng do trầm

Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc

Bích hải thanh thiên nhất phiến tâm

Tịch mịch An Dương cung ngoại miếu

Đỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm.

Tình chàng dù nặng , nghĩa cha sâu

Ôm ấp oan kia đến tận đâu.

Nỏ thiếu móng thiêng, rùa lẩn bóng

Trai chìm đáy nước , lệ hoen châu.

Bia mòn cây cỗi, ngàn thu hận

Bể biếc trời xa một mối sầu.

Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt

Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu.

Nguyễn Tường Phượng dịch.

*

Sở Cuồng Lê Dư Vịnh An Dương Vương

Ngã nguyên vô trá, nhĩ vô ngu

Vị giám tiền xa thỉ nữ ngô

Chỉ niệm bắc nam đôn quốc hảo

Thục tri tế tử sính gian đồ

Hà sơn đa cố quy vô trảo

Cốt nhục thương tâm bạng hữu châu

Hoa miếu thiên thu công luận tại

Tín trung trường thống nữ vô cô.

Dịch nghĩa: Ta không dối người mà cũng không phòng bị

Làm cái gương xe đổ về việc gả con sang Tàu

Chỉ muốn bắc nam được thuận hòa

Đâu ngờ rẻ kia là kẻ gian tế

Non sông mấy đỗi rùa không móng

Cốt nhục đau lòng trai ngậm châu

Công luận ngàn năm còn vẳng bên miếu

Con gái thành thật không lỗi lầm mà phải mang nỗi xót xa này.

Vịnh Mỵ Châu công chúa

Thâm cung sinh trưởng quán kiều si

Thế thái ba đào kỷ đắc tri

Kỳ vị ái ân nghi tế thiểu

Cánh giao trung tín bỉ lang khi

Châu trầm ngọc vẫn tâm câu toái

Quốc phá gia phong hối diệc trì

Thiên cổ Loa Thành di hận tại

Hồn oanh hoa biểu hạt thăng bi.

Dịch nghĩa: Nàng ngây thơ lớn lên trong cung cấm

Việc đời lắm sóng gió làm sao mà biết được

Vui vẻ ái ân nào có để dạ nghi chồng

Bởi quá thật thà mà bị lừa dối

Châu chìm ngọc rơi cõi lòng tan nát

Nước mất nhà tan hối có kịp đâu

Loa Thành ngàn năm còn vương nỗi hận

Hồn vấn vương bia mộ, sầu kể sao nguôi.

( Hai bài thơ của Sở Cuồng Lê Dư chỉ mới thấy dịch nghĩa, chưa tìm thấy bản dịch thơ, tạm bằng lòng vậy)

*

THƠ QUỐC ÂM Thành Cổ Loa

Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa

Trải bao gió táp với mưa sa

Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc

Giếng Ngọc vơi đầy hạt lệ pha

Cây cỏ vẫn cười ai bạc mệnh

Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa

Hưng vong biết chửa, người kim cổ

Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.

Á Nam Trần Tuấn Khải

*

Đề miếu Mỵ Châu

Một khối oan tình đập chửa tan

Nghìn thu hiu hắt khói hương tàn

Bia mòn rêu biếc, ngàn mây phủ

Nỏ đó người đâu giếng nước tràn

Tần Tấn bởi tin phường bạch nhãn

Việt Ngô để lụy khách hồng nhan

Cơ trời dâu bể vì ai đấy

Riêng mỗi thơ đào mắc tiếng oan.

Nguyễn Trung Khuyến

*

Loa Thành hoài cổ

Trông cảnh Tư Long luống ngậm ngùi

Nỏ rùa chuyện cũ, phải hay sai

Hình thành sao khéo xoay trôn ốc

Nước giếng nay còn sáng ngọc trai

Trừ bại ma gà nhờ có thuật

Mắc mưu lông ngỗng vị thương ai

Bể nam sóng gió mê đường ngựa

Đà cuống tin chi, hối chậm rồi.

Nguyễn Văn Đào

*

Mỵ Châu -Trọng Thủy

Một đôi kẻ Việt người Tần

Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi máy

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Lòng nhi nữ

Việc quân vương

Nệm gấm vó câu

Trăm năm giọt lệ

Nghìn thu khói hương. . .

Tản Đà

*

Tâm sự

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu

Trái tim lầm chỗ, để trên đầu

Nỏ thần vô ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

Tố Hữu (Trích bài thơ Tâm sự)

*

Mị Châu Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn Những chiếc lông không biết tự dấu mình.

Nước mắt thành mặt trái của lòng tin Tình yêu đến cùng đường là cái chết Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.

Giá như như trên đời còn có một Mỵ Châu Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ

Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ Ðể chung thuỷ với tình yêu hai ngàn năm có lẻ Như anh với em dẫu yêu nhau chung thuỷ Ðến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.

Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.

Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống Cái đầu cụt gợi nhớ dòng màu nóng Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.

Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu Ðời còn giặc xin đừng quên cảnh giác Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước Nên em ơi ta đành tự nhắc mình.Anh Ngọc

*

Vô đề

Am Mỵ Châu thờ bức tượng không đầu

Cảnh báo một trái tim khờ dại

Thử hỏi , nửa thế giới này đang tồn tại

Đã yêu rồi, ai không giống Mỵ Châu ?

Hạnh Mai

(Tạp chí Người Hà Nội, số 115)

*

MỴ CHÂU

Không thể tưởng có đường gươm như thế

Dù lời thần mách bảo tự trời cao

Thần có lúc cũng nhầm như hạ giới

Đứa con thương tội lỗi tự khi nào?

.

Khi ngực trẻ hồn nhiên non nớt quá

Thì tình yêu có phút dại khờ thôi

Nắm lông ngỗng rải đường hoa trắng xóa

Hoa theo nàng rải khắp nắng mồ côi.

.

An Dương Vương dưới đáy mồ nghìn tuổi

Vẫn hằng đêm nức nở lưỡi gươm xưa

Mây vẫn trắng để tang trời vĩnh cửu

Mỵ Châu ơi, oan nghiệt đến bao giờ ?

Quang Huy

( Hà Nội mới cuối tuần,10.3.2012)

*

Ảnh trong bài

1. 2 : Lẫy nỏ và kho mũi tên đồng đào được ở Cổ Loa

3: Tượng không đầu Công chúa Mỵ Châu

Entry filed under: Uncategorized.

Vương Trọng, Một Mai Nếu Bạn Muốn Đi Tìm

Nhà thơ Vuong Trọng

Với tôi điều đó thoạt tiên gây sự ngạc nhiên, và rồi từ ngạc nhiên tôi muốn tìm hiểu sáng tác của họ. Chọn trường hợp Vương Trọng, tôi thực sự thú vị những muốn lục tìm trong từng câu chữ của anh những dấu ấn mờ tỏ tư duy của một người làm toán. Nhưng tôi đã gần như thất bại. Điều đó chứng tỏ, tư duy hình tượng và những thăng hoa lãng mạn của thơ đã lấn át những khái niệm khô khan của toán học.

Hãy quan sát anh trong những khoảnh khắc đời sống, những sự kiện đưa đến những rung động trong tâm hồn anh với tư cách là một người làm thơ. Đây là những hoàng hôn tuổi thơ dại, chờ mẹ về từ đồng chiêm của mấy anh em trên bậu cửa:

Anh em con chịu đói suốt ngày tròn

Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa… Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng

( Khóc giữa chiêm bao )

Đô Lương quê anh, những bờ bãi ven sông Lam xanh biếc ngô khoai, những núi Quỳ đất đỏ kia là gì mà để lại thật sâu nặng trong ký ức của anh, đến mức dù có sống ở miền quê nào, cũng không thể thay thế được, dù có đi đến đâu cũng không thể có miền đất nào sánh nổi:

Con lang thang vất vưởng giữa đời thường

Đâu cũng sống, không đâu thành quê được

( Khóc giữa chiêm bao )

Miền quê gian khổ đó có ngôi nhà thân yêu của anh, có một thời kham khổ, thiếu thốn, nhưng cũng cái thời đó, mọi thứ đều trở thành trớ trêu, nghịch lý. Ví như gia đình anh cũng bao gia đình khác, thiếu ăn, kham khổ là vậy, nhưng vẫn bị quy thành phần. (Thời ấy gia đình nào mà bị quy thành phần thì khốn khó vô cùng! ). Hãy đọc những câu thơ tả thực nhớ về thời gian nan kia của Vương Trọng: Một thời kham khổ anh em/ Vừng rang rau cải, rau giền làm cơm/ Mùa đông chen chúc ổ rơm/ Nửa đêm cơn đói còn thơm mùi vừng ( Phố phường ai giã cối vừng ). Giữa thị thành, nhà ai đang giã vừng, mùi thơm liên tưởng tới những ngày gian khó ở quê nhà. Nghe tiếng sấm đầu mùa, điều nhớ nhất là tiếng người râm ran gọi nhau đi bắt cá: Gặp cơn mưa lớn đầu mùa/ Râm ran tiếng đó, tiếng lờ đi đơm ( Nhà quê 1 ). Cơn mưa đầu mùa gọi anh về với những ký ức tuổi thơ, và làm thức dậy trong tâm hồn anh những khát khao sáng tạo: Cơn gió đồng thổi thi tứ vào thơ ( Nông dân ).

Có phải vì ở đấy Vương Trọng có những người thân yêu tuyệt vời mà anh mang theo hình ảnh của họ, như một sự ân nghĩa suốt cả cuộc đời anh. Ví như hình ảnh người chị dâu: Lấy chồng, chồng ở nhà đâu/ Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều/ Làm dâu gặp phải cảnh nghèo/ Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan ( Chị dâu ).

Người chị dâu ấy không những chống chèo, lo toan việc lớn của nhà chồng đã đành, ngay cả những việc nhỏ như đến bữa cơm thường ngày, chị cũng giành chỗ đầu nồi, xới cơm cho cả nhà: Bữa cơm em út quay vòng/ Đầu nồi, chị xới tay không kịp rời. Người chị dâu của Vương Trọng hệt như người phụ nữ tôi đã từng gặp, chỉ khác là, trong số những người ngồi quay vòng bên nồi cơm kia, chí ít có một người hiểu chị, chia sẻ với chị. Người đó lớn lên cầm bút viết về những ký ức không quên ấy về người chị dâu của mình. Người cầm bút đó là Vương Trọng. Tại đây cần nhấn mạnh, nếu Vương Trọng không có cái trắc ẩn rất con người kia về chị dâu của mình ( cũng như sau này lớn lên với biết bao số phận khác anh gặp trong đời ), chắc gì Vương Trọng đã cầm bút làm thơ. Như vậy, lòng trắc ẩn – biểu hiện cụ thể nhất của lòng nhân ái là nơi bắt đầu của thơ. Nói khác đi, thơ đi từ đó – từ lòng nhân ái, trắc ẩn, và thơ cũng hướng con người đến đó.

Có phải là ngọn núi Quỳ nhỏ nhoi mà dù đi qua bao núi, vượt qua bao đèo, anh vẫn luôn luôn nhớ về: Tôi đã mang chiều cao núi Quỳ đọ những đỉnh núi cao/ Ngày về thấy núi Quỳ thấp lạ. Đó là ngọn núi thuở nhỏ Vương Trọng ngày đội nắng, chân dép mềm đá bỏng/ Để đêm về thông mọc giữa chiêm bao ( Núi Quỳ ). Hình như ngọn núi này vẫn còn cất giữ rất nhiều những kỷ niệm tuổi thơ của Vương Trọng. Rồi ta sẽ gặp lại núi Quỳ một lần cuối trong thơ anh!.

Nói Vương Trọng đa cảm ngoài nỗi thương nhớ người chị dâu đảm đang, đẹp người tốt nết, người mẹ tảo tần chịu thương chịu khó và ngọn núi Quỳ thân thuộc như trên là chưa đủ. Là thi sỹ, Vương Trọng không giấu những xúc cảm trong trái tim mình. Mỗi lần đi qua nơi hẹn hò gặp nhau giữa anh và người yêu năm nào, trái tim anh lại vang lên những nhịp đập thuở ban đầu:

Cái thời mơ ước thì cao

Bầu trời cũng hẹp, ngôi sao cũng gần Cái thời người ấy chớm xuân Ta vừa lớn dậy mới lần đầu yêu…

Cái nơi hẹn hò ấy thường hiện lên giữa chiêm bao

Sao chiêm bao những đêm thường

Người xưa hiện với đoạn đường này đây

( Khi qua nơi hẹn )

Còn đây là lời tự thú, khi đã trót nhớ vụng thương thầm:

Ngoài em ra anh đã nhớ đã thương

Không chỉ một vài người con gái

( Tự thú )

Nhưng đây thì không còn là nhớ thương thầm vụng nữa:

Em tuy có cháu gọi bà

Với anh sau trước vẫn là em thôi

( Hẹn tết )

Người đa cảm thì vẫn thường hay cô đơn, vẫn thường không thoát khỏi cô đơn, không thoát khỏi chạnh lòng mỗi khi đối diện với hạnh phúc của người khác. Một lần đi qua hồ Tây thấy thanh niên đi bên nhau từng đôi, anh viết:

Thuyền nào cũng thấy thuyền đôi

Ghế nào cũng gặp hai người bên nhau Một mình chẳng biết dừng đâu Anh đi như một con tầu không ga

( Qua hồ Tây )

Bài thơ không đề năm tháng sáng tác, nhưng tôi dám chắc được viết khi anh đã không còn trẻ. Bỗng nhớ tới nhà thơ Thanh Tịnh những lúc cô đơn nhất, thường nói: Trẻ em đi từng đàn, thanh niên đi từng đôi và cụ già đi từng chiếc ( ! ). Vương Trọng chưa già nhưng chắc cũng không còn trẻ nữa ( nhân vật trữ tình trong bài thơ xưng Anh ) đã thấm thía nỗi đơn chiếc trên trần gian này, chí ít là quanh hồ Tây nổi tiếng tình tứ và lãng mạn này, anh như không chốn nương thân, bất định như một con tầu không ga… Điều này thêm một bằng chứng cho thấy Vương Trọng đa sầu, đa cảm.

Chưa hết, không chỉ đa sầu, đa cảm, Vương Trọng đã không ít những giây phút tuyệt vọng khắc khoải, đợi chờ: Qua giờ hẹn, sao em chưa tới/ Đèn ngã tư đã bao lượt đổi màu ( Đợi em trên đường Pasteur ); Vương Trọng cũng đã bao lần thấp thỏm: Có em rồi ta trẻ lại bao nhiêu/ Khi thứ Năm trở thành Thứ hẹn ( Thứ hẹn ). Thì ra họ yêu nhau và hẹn cứ đến thứ năm lại gặp gỡ. Tại đây trong hồn thơ Vương Trọng cái mê của người làm thơ đã lấy mất cái tỉnh của người làm toán, cái dại khờ ( Một nửa hồn tôi hóa dại khờ – Hàn Mặc Tử ) tâm hồn người làm thơ đã chế ngự cái khôn ngoan của con người lý trí :

Năm tháng không em ta gánh nỗi cô đơn

Thời gian nặng nề leo dốc Thứ Năm lệch vai hai đầu chủ nhật Như người ly hương nặng nhọc Trên con đường Không có phía tình yêu

( Thứ hẹn )

Cho nên không có gì khó hiểu khi anh nồng nhiệt triết lý về tình yêu:

Chừng mực với mọi điều

Với tình yêu xin đừng chừng mực Đã yêu thì yêu như lửa đốt Cành cây nào cũng phải cháy thành tro Đã yêu thì yêu như rượu bốc…

( Triết lý khi yêu )

Tất cả cho thấy Vương Trọng là người sống theo chủ nghĩa tình cảm. Anh gạt sang một bên con người lý trí, con người toán học mỗi khi cầm bút làm thơ. Bởi vậy không khó để nhận ra nét chủ đạo trong thơ Vương Trọng vẫn là giọng điệu trữ tình quen thuộc của thơ ca nói chung, và của thơ ca Việt Nam nói riêng.

2. Cuối những năm 60 của thế kỷ XX Vương Trọng xuất hiện trên thi đàn với tư cách là một nhà thơ quân đội, tham gia cuộc thi thơ của Tuần báo Văn Nghệ, cùng với những Phạm Tiến Duật, Vương Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh Nhàn…Tác phẩm Bài thơ nằm võng của anh đoạt giải cuộc thi ấy, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc, và là một căn cước đưa anh về Tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Kể từ đó sáng tác thơ, biên tập thơ với anh là nhiệm vụ.

Là nhà thơ quân đội, Vương Trọng để lại trong thơ mình rất nhiều những dư ba chiến tranh. Nhiều cuộc hành quân, những tăng, võng, bạt: Tuổi thơ ta nằm trên võng gai/ Đi dánh Mỹ ta nằm võng bạt ( Bài thơ nằm võng ). Rất nhiều những khoảng lặng nhớ thương đồng đội trên những cung đường gian lao: Lặng nhìn đồng đội mà thương/ Nắng nôi theo suốt chặng đường hành quân/ Đất tơi, trì trật bàn chân/ Tóc tai màu bụi, áo quần màu tro…Chúng mình nghiêng bóng che nhau/ Qua khắc nghiệt của Trung Lào mùa khô ( Đi dọc mùa khô )

Viết về chiến tranh, Vương Trọng chọn lối tả thực, hoặc có thể nói Vương Trọng sử dụng thế mạnh của mình là tả thực. Thơ có thể có hai phương thức tư duy cơ bản: hoặc là miêu tả hoặc là biểu hiện, miêu tả hiện thực và biểu hiện con người tư tưởng, con người tâm trạng của nhà thơ. Miêu tả hạp với ngôn ngữ xác tín, biểu hiện thường hạp với ngôn ngữ biểu cảm. Thơ Vương Trọng nghiêng về hiện thực, nghĩa là anh đứng gián cách với hiện thực, quan sát nó, lựa chọn những chi tiết để miêu tả nó bằng ngôn ngữ xác tín, đưa nó vào thơ. Trần Đăng Khoa gọi đó là những câu thơ viết bằng mắt. Trang thơ của anh vì vậy hiện lên chân thực như thực những khung cảnh chiến trận. Bức tranh về mặt trận Tà Sanh qua những câu thơ thô ráp, ở đó những vệt màu như cày dọc ngang trên mặt vải của một bức sơn dầu hoành tráng mà gân guốc, đầy những chất liệu nóng và chói gắt…cốt để miêu tả cho được cái dữ dội của chiến trường:

Con voi rừng trụi lông

Sốt rung rừng, lá mùa khô rơi rụng Khe lá mục cạn dòng nước uống Con nai khát ăn nhầm lá độc Chết vắt ngang thân mục gỗ chắn đường… Bạn tôi khát đến khi không nói được… Bạn tôi khát đến khi không đi được Nằm nhìn trời mà tưởng nhớ dòng sông Ước một cây chuối rừng Bập răng vào nhai cho thỏa thích… Hai mươi tuổi bạn tôi chống gậy Chỉ còn hơn một triệu hồng cầu Bước lên thềm tay dò, tay vịn

Môi máy nhiều mà chẳng nói thành câu …

( Tà Sanh )

Đấy là cơn khát giữa mặt trận Tà Sanh mùa khô. Sức gợi của thơ ở đây chính là hiện thực, là từ hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Còn đây là một bức sơn dầu khác, có điểm nhấn xác thực mang tính tự sự cao, mang tính tố cáo mạnh mẽ từ một khung cảnh sau cuộc thảm sát, được tạo ra bởi những câu thơ mang âm trắc, vần trắc thất thường, trong hơi khí của thơ đã chen lấn, tuy chưa thật đậm dấu ấn tâm trạng của người viết: Bước đi mỗi bước, đau mỗi bước/ Mười tám xác trâu chắn ngang đường/ Mười tám cặp sừng nằm chỏng ngược/ Da thịt tơi bời, cơn gió nấc…/ Từng đôi mắt nhìn, lửa trong mắt/ Đất chẳng yên lành đất tro than/ Nhà chẳng còn nhà, người vắng ngắt/ Ôi, Tả Hồ Xìn, Tả Hồ Xìn/ Trăm năm, ngàn năm ghi tội ác ( Xe dừng Tả Hồ Xìn ).

Với đoạn thơ tả thực rất giỏi này, nếu tạm cất đi câu đầu: Bước đi mỗi bước, đau mỗi bước, và câu cuối: Ôi, Tả Hồ Xìn, Tả Hồ Xìn/ Trăm năm, ngàn năm ghi tội ác, thì hiện lên nguyên vẹn một bức tranh khách quan của hiện thực, nghĩa là tác giả đã làm xong cái việc thông báo. Phần cảm nhận như thế nào đó tùy thuộc vào từng người đọc. Điều này cho thấy vì sao Vương Trọng thích Đỗ Phủ hơn Lý Bạch*. Đỗ Phủ gần với tranh sơn dầu, Lý Bạch gần với tranh lụa. Thơ Vương Trọng mảng viết về chiến tranh mang rõ rệt cá tính sáng tạo của anh.

Bao giờ Vương Trọng cũng tìm được một ý nghĩa nông sâu nào đó trước một hiện tượng của đời sống nào đó. Với hai chị em nhà nọ, anh như một người đứng ra an ủi: Nín đi em, bố mẹ bận ra tòa/ Chị lên bảy dỗ em trai ba tuổi/ Thằng bé khóc bụng chưa quen chịu đói ( Hai chị em ). Và từ cảm thông, an ủi, anh nhắc nhủ mọi người, lời nhắc nhủ mang sắc thái một lời cảnh báo, đặc biệt là với những bố mẹ khác đang chuẩn bị ra tòa: Nín đi em!- em khản giọng khóc gào/ Chị mếu máo, đầm đìa nước mắt/ Những bố mẹ bên bờ chia cắt/ Phút giây thôi, hãy nghe tiếng con mình ( Hai chị em ).

Một ví dụ khác. Những đứa trẻ ngoài giá thú, một hiện tượng bình thường và tương đối hay gặp của những đất nước chiến tranh dài lâu như nước ta, một hiện tượng thường bị người đời ghẻ lạnh: Thôi nhắc chi những năm dài trống trải/ Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu/ Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải/ Pháo cưới người như đốt để trêu nhau ( Với đứa con ngoài giá thú ). Gặp những hoàn cảnh như vậy, anh thấy cuộc sống đã thừa những vô cảm đối với những con người bất hạnh và thiếu những an ủi cần thiết. Vương Trọng nhìn điều đó theo một cách khác, cách của con người trắc ẩn: Ngoài giá thú sao ngoài lòng thương cảm/ Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi? ( Với đứa con ngoài giá thú ). Bài thơ mượn lời người mẹ nói với đứa con ngoài giá thú. Với người mẹ không có đứa con nào không phải là con của mẹ. Vương Trọng như hóa thân trong vai người mẹ để nói với con, nhưng cũng là để gửi một thông điệp với người đời về một trường hợp gây không ít những đau thương trong đời sống xã hội.

Chúng ta sẽ nhận ra quan niệm đầy tình người này của người làm thơ qua các trường hợp Mỵ Châu, Thúy Vân, Hòn Vọng Phu…Lấy một ví dụ, Hòn Trống Mái. Đây như một phát hiện của Vương Trọng: nỗi cô đơn cũng đã hóa đá, nhưng hóa thành đôi chim trống mái để mãi mãi bên nhau. Vương Trọng chạnh lòng: Trống Mái-loài chim được thế/ Người thì Tô Thị, Vọng Phu…(Bên hòn Trống Mái). (Tôi nhớ có lần nhà thơ Văn Thảo Nguyên ở Lạng Sơn về, có một nhận xét thú vị: Phía sau hòn đá hai mẹ con nàng Vọng Phu hóa đá kia, cũng có một hòn đá hệt như một con hổ đang nằm phủ phục. Văn Thảo Nguyên nghĩ rằng chắc con hổ mỏi rình mẹ con nàng Vọng Phu lâu quá, buồn quá nên cũng đã hóa đá nốt! ) Trở lại những bài thơ của Vương Trọng: Một lần, với em bé còn nhỏ tuổi đã phải một mình mưu sinh hàng ngày đi kiếm củi. Hình ảnh ấy thường đến với anh trong đêm: Gánh củi ấy trở thành đá núi/ Đêm đêm đè nặng ngực tôi (Thương cháu bé lên năm gánh củi); Với Chí Phèo, anh mượn giọng Chí để nói với Bá Kiến: Mày chết mày mất giống/ Anh em tao còn nhiều/ Ở mỗi làng mỗi xóm/ Có một ông Chí Phèo (Chí Phèo); Với Trương Chi, anh nhắn nhủ: Sao đem giọng hát một đời/ Đổi về tình hận ngậm ngùi ngàn năm (Nói với Trương Chi); Với người bạn đồng nghiệp hàng xóm, nhà văn Thái Vượng mệnh yểu, anh thảng thốt: Người ấy đâu rồi/ Bàn văn dang dở truyện ngắn/ Bàn cờ ngổn ngang ngựa xe (Hoa quỳnh, nhớ Thái Vượng)…vv

Một ví dụ nữa. Người con dâu về nhà anh. Lẽ thường tình của cuộc sống. Nhưng với Vương Trọng, anh ghi lại khoảnh khắc đó rất hóm hỉnh: Thế là cháu đã thành con/ Bác thành bố, mẹ chẳng còn lạ xa/ Ăn chung bữa, ở cùng nhà/ Nói năng thêm giọng, vào ra thêm người (Nói với con dâu). Một lời dặn tinh tế để không làm phật lòng con dâu, lại vừa độ như để nhắn nhủ thành viên mới: Nhà mình quý nhất con ơi:/ Nâng niu gìn giữ tình người trước sau/ Đã rằng hai tiếng thương nhau/ Thì thương cho đến bạc đầu còn thương (Nói với con dâu). Nói với con dâu thôi nhưng cũng đủ để nhận ra quan niệm sống của Vương Trọng: nâng niu gìn giữ tình người trước sau …

Chúng ta vẫn thường thừa nhận với nhau rằng toán và thơ thật khác xa nhau, và nếu có một điểm chung nào đó, điểm chung ấy chắc phải rất xa. Thơ tư duy bằng hình tượng, bằng tưởng tượng, bằng ngôn từ, bằng nhịp điệu, thậm chí bằng cả những khoảng lặng trắng tinh giữa hai dòng chữ, giữa hai khổ thơ…Toán tư duy bằng con số, bằng khái niệm, bằng định đề, bằng suy tưởng và suy luận trừu tượng. Toán cần chính xác. Thơ đôi khi cần bay, cần nhòe, cần dừng, cần một chút mơ hồ…Hai lĩnh vực này có chung một cảm thức về cái đẹp của sự thăng hoa.

Đây là thơ:

Đêm xuân không dễ ngồi nhà

Anh đi thơ thẩn như là để đi

Đến đâu và sẽ làm gì Xin đừng rành mạch những khi xuân về

( Đêm xuân )

Còn đây là khi toán đã lấn sân:

Nối dây gầu thả vào lòng giếng

Nối dây diều thả vào lòng trời Đừng đơn giản đánh đồng hai khái niệm… Nếu không có sợi dây nối liền với đất Chẳng bao giờ người biết bay lên

(Tản mạn về những cánh diều giấy)

Vương Trọng rất chú ý dùng những đại từ chỉ định biểu thị sự nhấn mạnh về tính chất hiện diện, cụ thể, trước mắt của điều định nói, để làm chính xác thêm điều định nói. Đó là khi toán đang lẫn khuất giữa những câu thơ. Lấy một ví dụ:

Áo chàm lẫn vào bóng cây lặng lẽ

Khuất mờ rồi nét mày nhỏ bé

Đấy là khi câu hát đằm sâu

Đấy là khi câu hát nhớ thương nhau

( Thị xã màu xanh )

Một ví dụ khác:

Bộ mặt nào cũng có nhiều răng nhọn

Không phải để cười mà để nhai, để ăn

Đấy là hai câu lấy từ bài Mắt con nhìn, viết tại sân bay Gia Lâm ngày 19/3/1973, ngày tên giặc lái Mỹ cuối cùng rút khỏi miền bắc. Đoạn thơ có thừa những yếu tố chính xác: tính từ nhiều, nhọn, tổ hợp từ không phải, kết từ mà để, như biểu thị sự khẳng định – một kiểu lập luận của toán!

Một ví dụ khác:

Nhìn dọc: dựng mũi tên

Nhìn ngang: xòe lưỡi búa Bước lên hóa con thuyền Sóng rượu cần nghiêng ngửa

( Nhà Rông )

Phải thừa nhận đây là một sự quan sát và liên tưởng ví von khá thông minh. Nhưng nếu ba câu đầu dùng để miêu tả cái nhà Rông Tây Nguyên, người đọc vẫn chưa thấy tác giả ở đâu cả. Chỉ có câu cuối: sóng rượu cần nghiêng ngửa là hướng nội, là tâm trạng, cũng là tình cảm của tác giả. Và tôi cho rằng đấy là câu thơ nhất trong đoạn thơ trên.

Còn đây là mấy câu lục bát, hầu như mỗi câu cõng trên lưng một con số của Nguyễn Bính:

Đồn rằng đám cưới cô to

Nhà giai đưa chín con đò đón dâu Nhà gái ăn chín buồng cau Tiền cheo tiền cưới chừng đâu chín nghìn Lang thang tôi dạm bán thuyền Có người trả chín quan tiền lại thôi

Nhiều con số là vậy nhưng sao đọc lên vẫn không thấy con số át mất phần thơ của lục bát Nguyễn Bính!

Cũng có thể tôi đã có cảm giác tiền định Vương Trọng là nhà thơ xuất thân từ người học toán chăng?.

Vì yêu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Vương Trọng đã có những đóng góp đáng kể để giúp bạn đọc hiểu hơn về Truyện Kiều. Có lần, anh là người tổ chức các cuộc thi đố Kiều khá lý thú của Đài Tiếng nói Việt Nam, thu hút khá đông đảo thính giả tham gia. Vì say mê Nguyễn Du, Vương Trọng tìm cách dịch lại ( phần thơ ) toàn bộ Thơ chữ Hán của Nguyễn Du hầu hết bằng thể lục bát căn cứ vào dịch nghĩa của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính từ Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm đến Bắc hành tạp lục. Không bàn về quan niệm dịch, hiệu quả dịch như xưa nay các dịch giả vẫn thường bàn, chỉ nội một việc bỏ công ngồi chuyển thể Thơ chữ Hán của Nguyễn Du ( rồi sau đó dịch lại cả Chinh phụ ngâm, tác phẩm đã quá hay, quá quen thuộc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm ), cho thấy tình yêu sâu sắc và đam mê hiếm thấy của Vương Trọng đối với di sản của ông cha.

6. Nhưng cũng như nhiều nhà thơ khác, Vương Trọng không ảo tưởng với những câu thơ tưởng như gan ruột của mình. Vẫn thường vất vưởng, lang thang trong cõi trần, vẫn thường run rẩy với những câu thơ như đam mê suốt cả cuộc đời, song với Vương Trọng, những trang viết suốt một đời vất vưởng kia, quá lắm cũng chỉ là thi ca ơi, người phù phiếm vô cùng (Thúy Vân). Trên hết, Vương Trọng vẫn là một ông “đồ gàn” đáng yêu xứ Nghệ, cho dù đi đâu, ở đâu cũng thiết tha với quê hương, giữ từ giọng nói, nết ăn, nết ở nhà quê của mình. Và núi Quỳ, ngọn núi mà ta đã gặp ở đầu bài viết này vẫn là nơi luôn luôn ẩn hiện trong tâm hồn anh. Như loài cá hồi với bản năng loài có một không hai của chúng ( Bài Cá hồi ), Vương Trọng từ núi Quỳ sinh ra, còn quá sớm, nhưng anh đã dặn: Hãy đưa tôi về nơi sinh nở, bởi vì anh quan niệm Hạnh phúc lắm nếu được nằm xuống đấy.

Còn bạn, một mai nếu muốn, bạn sẽ tìm được nhà thơ Vương Trọng!.

Tháng 4 năm 2015

(Nguồn: Tạp chí NV&TP)

Cập nhật thông tin chi tiết về An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!